Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐÔI ĐIỀU VỚI ANH HUY THẮNG VỀ MỐI TÌNH PHÙNG QUÁN

Ngô Minh
Chủ nhật ngày 21 tháng 8 năm 2011 8:56 PM

 

Nhờ bạn đọc comment trên blog Quà tăng xứ mưa mà tôi biết được anh Huy Thắng có bài viết trên tờ Văn nghệ Công An ngày 17/8/2011 ( và  in lại trên lethieunhon.com) về bài viết “ Phùng Quán- Bội Trâm, tình yêu bấp chấp tai ương” của tôi. Bài viết này tôi in trên báo Đang yêu  của Nguyễn Quang Thiều và trên  blog của tôi. Trước hết  tôi cám ơn anh đã đọc bài viết của tôi và góp ý. Tôi định không trả lời, vì những điều “trao đổi”  của anh không tập trung vào chủ đề chính của bài  viết, mà chỉ những điều vụn vặt. Nhưng tôi nghĩ  anh đã có bài trên công luận thì mình cũng trả lời lại cho bạn đọc rõ, khỏi hiểu nhầm. Tôi xin đi vào từng điểm mà anh trao đổi

 

       1. Anh Huy Thắng viết :Giữa Hà Nội phố phường xa lạ, anh (tức Phùng Quán - HT) không có người thân, kể cả những người chú ruột, người cậu là những quan chức đầy quyền lực cũng xa lánh anh.  Tôi hoàn toàn không thấy ông Phùng Thị xa lánh nhà thơ Phùng Quán vì hai chú cháu vẫn luôn gần nhau. Nhà thơ Phùng Quán vẫn thường xuyên đến nhà ông Phùng Thị ăn uống, chuyện trò.... Bạn bè thì sợ liên luỵ nên không ai dám gần. Anh Ngô Minh viết thế này thì có vẻ xúc phạm đến bạn bè của Phùng Quán. Nhà thơ Phùng Quán có rất nhiều bạn bè....

          Xin trích  lời của chị Vũ Bội Trâm trong bài Tôi đã được sống như tôi muốn, in trong tập Phùng Quán còn đây ( NXB Văn Nghệ 2007,tr.252) để thưa lại với Huy Thắng, người tự xưng là “Là người quen biết và hiểu Phùng Quán”. Chị Bội Trâm viết :”Thế là tự dưng anh rơi vào hoàn cảnh “tứ cố vô thân” Không mẹ, không cha. Cha anh mất khi anh đang biết bò, mẹ anh sống ở Huế- bên kia giới tuyến. Hai người chú ( tức ông Phùng Lưu ( Nguyễn Vạn) và ông Phùng Thị- NM chú) không thừa nhận đứa cháu là phần tử chống Đảng. Bạn bè sợ liên lụy nên buộc phải xa lánh.. Rôbinxơn bị đơn độc trên hoang đảo, còn anh thì đơn độc giữa biển người” “. Xin nói thêm, những năm 1986, lần đầu Phùng Quán vô Huế , Phùng Quán đến nhà  ông Nguyễn Vạn ( tức Phùng Lưu) chú ruột xin ở cho đứng lễ nghĩa, nhưng bị ông chú đuổi. Mãi đến  khi Phùng Quán được phục hồi Hội viên Hội Nhà văn, phim “Tuổi thơ dữ dội” chiếu ở Huế, ông Nguyễn Vạn được mời đi xem, ông mới thay đổi cách nhìn đối với đứa cháu ruột.

          Huy Thắng viết : “ Anh Ngô Minh còn mâu thuẫn vì trong bài của mình, chính anh đã viết: Những ngày ấy bạn bè chí cốt như nhà văn Tuân Nguyễn, Xuân Đài… phải san sẻ chút tiền lương ít ỏi để cho chị Trâm mua sữa nuôi con.  Xin thưa , Ngô Minh  nói “Bạn bè thì sợ liên lụy không ai dám gần” là nói số đông, là bộ đội và những người làm văn nghệ với Phùng Quán, chứ Phùng Quán vẫn có những người bạn “chí ốt”, những người bạn can trường, không sợ bị liên lụy.  Tôi là con địa chủ bị bắn trong CCRĐ. Những ngày đó gia đình tôi bị  làng xóm  xa lánh vì sợ liên lụy với “địa chủ”, nhưng cũng có những người  đêm đêm lén lút cho mẹ con tôi  lon gạo, củ khoai, con cá. Nói xa lánh là xa lánh ấy. Chứ không phải nói Phùng Quán không có bạn. Có trong cuộc mới hiểu, anh Huy Thắng ạ.

 

         2.. Huy Thắng viết : Phùng Quán đêm ngày Cá trộm, văn chui, rượu chịu. Rồi nhờ anh bạn Phùng Xuân Bính ở Nhà văn hóa lao động Hà Nội giúp ít gỗ thải loại. Việc này chính ông Phùng Xuân Bính nói với tôi, không có chuyện ông giúp Phùng Quán gỗ lạt gì. Và ông Bính cũng chưa bao giờ làm việc ở Nhà văn hóa lao động Hà Nội. Ông là Giám đốc Nhà văn hóa trung ương.”

       Cái câu“ Cá trộm văn chui, rượu chịu” là Phùng Quán tự tổng kết đời mình. Không phải chỉ tôi nói, à nhiều người nói. Xin  dẫn thơ : thiếu gạo -câu cá trộm/ rượu chịu - vẫn tràn ly / Văn chui - vẫn cứ viết / Trái tim không biết quỳ ( - Trái tim không biết quỳ, Đặng  Nguyệt Anh, Phùng Quán còn đây, NXB Văn Nghệ,2007, tr.349). Phùng Quán cũng  nhiều lần kể chuyện nợ bà Hai Hạnh rượu hay viết về “Một đêm cau cá trộm”, “Cách viết văn chui”. Còn chuyện anh Phùng Xuân Bính cho gỗ thì xin đọc bài  Lam man kỷ niệm của anh Doãn Trang, một hàng xóm thân thiết của  vợ chồng anh Quán :” Anh Phùng Xuân Bính cho Phùng Quán một xe gỗ đầu thừa đuôi thẹo. Phùng Quán tự tay mình làm một cái chòi, anh gọi là Chòi ngắm sóng” ( Phùng Quán còn đây, NXB Văn nghệ, 2007, tr.245). Chuyện này Phùng Quán, chị Bội Trâm khi còn sống kể  với tôi nhiều lần. Còn tôi nhớ anh Phùng Xuân Bính là giám đốc cái Nhà văn hóa gần Hồ Hoàn Kiếm ây, tôi đã được anh Quán dẫn đến đó đọc thơ một lần.  Còn  là “Nhà văn hóa Lao Động” hay  là “nhà văn hóa Trung ương” thì tôi  không nhớ rõ, nên viết sai. Nhân đây xin lỗi anh Phùng  Xuân Bính.

          

         3. Anh Huy Thắng Viết : Tôi không biết Phùng Quán đi cải tạo ở những đâu, nhưng nói đi tăng gia một mình ở rừng núi Thái Nguyên suốt 3 năm liền thì hoàn toàn không đúng. ...nhưng không phải chỉ có một mình mà còn có thêm một cán bộ nữa. Tuy thế cơ quan vẫn thường xuyên cử cán bộ lên cùng tăng gia. Cũng chẳng có ai bắt nhà thơ phải đi cải tạo, phải ở lì trên đó hàng nửa năm không được về gặp vợ con như Ngô Minh viết.

         Xin trích Phùng Quán để trả lời :” Tôi đã sống một mình suốt 3 năm ( 6/1981- 8/1984) trong cái lán lợp tranh lá mía, giữa một bãi đất phù sa cổ hoang vu vùng đồi núi Thái Nguyên, quanh ngôi lán mọc lút đầu cỏ dại và cây trinh nữ xanh...Tôi sống cùng với một con cho, một con heo ,một bầy gà; cùng ăn sắn, bắp, rau lăng, ốc  suối và tôm cá tự bắt lấy...” ( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003- tr 206- 207). Tôi viết “ rồi đi tăng gia một mình ở rừng núi Thái Nguyên suốt 3 năm liền”, chứ không nói đi “cải tạo”  

  

         4. Huy Thắng  viết:Có vẻ nhà thơ Ngô Minh đã quá bi lụy hóa cuộc đời và mối tình của anh Phùng Quán và chị Bội Trâm trong bài viết của mình. Những chi tiết mà nhà thơ Ngô Minh cho là vợ chồng Phùng Quán chịu quá nhiều thiệt thòi như chị Trâm là người con gái Việt Nam duy nhất lấy chồng không có lễ tơ hồng, không đám cưới, không được mặc áo cưới, không lên xe hoa,  không  có phòng tân hôn sang trọng, không chụp ảnh, quay phim…v v…. Tôi chắc chắn anh Ngô Minh chưa hiểu xã hội khi ấy nên mới viết ra những câu chữ như vậy. Hoàn cảnh chung cũng như đám cưới của vợ chồng Phùng Quán - Bội Trâm đâu có gì khác biệt so với rất nhiều người sống trong thời kì ấy.”

           Xin trích Vũ Bội Trâm để trả lời :” Bố mẹ tôi nói :” Lấy chồng thì phải cưới xin, nếu không thì con đi theo giai à ? Ai là người đứng tên cho nhà trai ? Tên nó in lên thiếp thế nào được ! Ai mà không đọc cuốn  Bọn nhân văn giai phẩm trước tòa án dư luận. Anh tôi thì nói :” Anh em cô còn đang công tác cả, cô định làm ảnh hưởng đến anh em vì lý lịch của chồng cô đấy à ?” ( Phùng Quán còn đây, NXB Văn nghệ, 2007, tr253 ) .Trích đoạn này để anh Huy Thắng hiểu thêm về  ông Phùng Thị đối với đứa cháu của mình ( Có ông chú ruột  đấy là không dám đứng tên nhà trai  cho cháu cưới vợ !)

 Chị Bội Trâm viết tiếp :”Thế là tháng 1 năm 1962, tôi lấy chồng sau bảy năm  quen biết và kết bạn thân thiết với anh. Tôi lấy chồng mà không có lễ tơ hồng, không được làm cô dâu, không bước lên xe hoa, không có ai đến xin dâu, không có buồng cô dâu với chăn màn gối nệm gường mới... được trang trí sang trọng , lịch sự. Tất cả các thủ tục phải làm , các vật dụng  phải sắm cho một đám cưới  chúng tôi đều không có...” ( Phùng Quán còn đây, Tr 254). Anh Huy Thắng nên nhớ rằng, chị Bội Trâm là người Hà Nội gốc ba bốn đời, lại là con nhà gia giáo , chị “hiểu xã hội khi ấy” của Hà Nội  hơn tôi và anh.

             5. Phần đầu bài “trao đổi” Huy Thắng viết :”Cách đây mấy năm, tôi và ông Phùng Xuân Bính, là những người đã từng nhiều năm làm việc chung với nhà thơ Phùng Quán đã có dịp nói lại với nhà thơ Ngô Minh về bài viết của anh trên Báo Tiền Phong. Bài viết của chúng tôi đã được đăng trên tuần Báo Văn nghệ số ra ngày 27-10-2007.    Về bài viết của anh Phùng Xuân Bihns và Huy Thắng in báo Văn Nghệ ấy, tôi đã có bài “thưa lại”  ngay sau đó, nhưng gửi ra báo Văn Nghệ không in . Nhân đây tôi  mời Huy Thắng, anh Phùng Xuân Bính đọc bài  trao đổi lại của tôi để hiểu tôi hơn ( Bài  in kèm )

 

         6, Kết . Huy Thắng dạy rằng : ...dù có yêu quý nhân vật đến mấy nhưng khi viết ra và công bố rộng rãi thì cũng rất cần tránh có những nhận xét chủ quan để khi đọc nó, bạn đọc có thể tin những thông tin mà người viết đưa ra. Và hơn nữa, vì nhà thơ Phùng Quán còn là một nhân vật có tên tuổi, được nhiều người biết đến, cuộc đời của ông cũng có những thăng trầm, nên người viết lại càng phải khách quan để người đọc có được một cái nhìn đầy đủ “ Tôi cảm ơn lời dạy ấy. Và tôi đã làm tất cả  những cuốn sách về Phùng Quán, viết nhiều bài viết về Phùng Quán đều với cũng đều trên tinh thần ấy. Nhưng thơ Phùng Quán  lại viết : Vì máu tôi không cùng nhóm máu họ / Và thơ họ không cùng nhóm thơ tôi “( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học 2003, tr 217) , nên có thể là do “không cùng nhóm máu”  mà những điều tôi viết ra đều vị anh Huy Thắng cho là  không “...đầy đủ, đúng đắn, trung thực về một số chi tiết trong phần lớn cuộc đời của nhà thơ “ chăng ?

Huế, ngày 21/8/2011

+ Kèm theo bài

                                                   THƯ NGỎ

          GỬI PHÙNG XUÂN BÍNH VÀ HUY THẮNG    

 

 

          Thưa hai anh Phùng Xuân Bính và Huy Thắng           

          Sau đợt ra tham dự Hội chợ sách Quốc tế Vân Hồ, Hà Nội ra mắt 2 tập sách mới của nhà thơ Phùng Quán “ Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào” và cuốn sách bạn bè viết về Phùng Quán “ Phùng Quán còn đây”, tôi đi lang thang rượu thơ với bạn bè vùng châu thổ Sông Hồng 10 ngày, không biết gì về tin tức báo chí. Về Huế đọc mới thấy  trên số báo Văn Nghệ  số 43, ra ngày 27-10-2007, có in bài viết “ Đôi điều cần nói rõ thêm về nhà thơ Phùng Quán” của Phùng Xuân Bính và Huy Thắng.  Mở đầu bài viết , hai tác giả cho rằng :” Trong mấy năm qua có nhiều sách báo nói về cuộc đời và văn thơ của nhà thơ Phùng Quán. Trong một số bài viết , chúng tôi nhận thấy có những chi tiết không đúng, thậm chí cường điệu. Đặc biệt gần đây tác giả Ngô Minh viết một bài báo dài đăng trên Tiền phong cuối tuần “Chuyện tình “Trăng Hoàng Cung” và nỗi niềm Phùng Quán” ( tác giả PXB và HT dẫn sai đầu đề bài viết, trăng hoàng cung không viết hoa và không ghi dấu ngoặc kép- xin sửa lại cho đúng- NM) . Tác giả đã hơn một lần nói đến  một quãng đời của Phùng Quán với những cụm từ :

-          30 năm bị khổ đau

-          30 năm bị ném ra vỉa hè

-          30 năm bị dim xuống bùn nhơ-lăng -nhục …       

          Chắc chắn tác giả Ngô Minh có những tư liệu chính xác nào đó cho nên đã hạ những câu chữ hết sức nặng nề về thân phận thi sĩ họ Phùng như vậy ?...”.           

 

             Sau khi nghi ngờ tính chân thực trong những nhận định của tôi trong bài viết trên báo Tiền phong nói trên , hai tác giả  cho rằng, họ đã làm việc và sống hết sức gần gũi với Phùng Quán trong hơn 20 năm liền ở Vụ văn hoá quần chúng, Bộ Văn hoá ( cho đến khi anh Quán về hưu 1985), nên họ thấy viết về Phùng Quán như vậy là không đúng, vì thức tế không ai làm gì nhà thơ Phùng Quán cả! Bài viết của hai tác giả xin tóm tắt như sau : Ở cơ quan Bộ Văn hoá, nhà thơ Phùng Quán đã sống và làm việc hết sức bình thường như tất cả mọi người, mọi chế độ tem phiếu hoàn toàn giống như người khác. Phùng Quán  được mọi người yêu mến, gần gũi. Phùng Quán thường xuyên đi về các địa phương, đi tận Nghệ An, Quảng Bình. Các bạn bè văn nghệ Hà Nội như Lê Huy Quang, Tạ Vũ, Trúc Cương, Nguyễn Quang Thân…vẫn đến phòng ông làm việc để trò chuyện  rất thoải mái. Việc lên Thái Nguyên tăng gia 3 năm là do anh Quán khúc mắc chuyện riêng tư nên tình nguyện xin đi, cùng với một cán bộ tên là Hoan. Quãng thời gian này Phùng Quán viết đều, mượn tên một cán bộ trong cơ quan là Phương Văn… Ông không bao giờ nói năng bất mãn, xỏ xiên, bóng gió…Chỉ có một lần đi thực tế, đọc thơ ở Cát Hải, Hải Phòng, khi nói về bài thơ “Hãy nhớ lấy lời tôi” của Tố Hữu, Phùng Quán cho rằng, trong bài thơ phải  đổi câu Hồ Chí Minh muôn năm  lên trước câu “Đả đảo Nguyễn Khánh” mới hợp truyền thống người Việt Nam. Sau đó địa phương phản ánh lên cho rằng Phùng Quán về Cát Hải chê thơ Tô Hữu. Mà chê thơ thơ ai chứ chê thơ Tố Hữu là chắc chắn có tội rồi. Thế là Phùng Quán không được đi thực tế nữa, mà được bố trí phụ trách tủ sách tư liệu nghiệp vụ.v.v..

          

           Thưa hai anh Phùng Xuân Bính và Huy Thắng.         

           Đọc bài viết của hai anh, Ngô Minh hoàn toàn  thông cảm và chia sẻ. Anh Phùng Quán đã nhiều lần kể với Ngô Minh về anh Phùng Xuân Bính, người bạn tốt đã cưu mang  giúp đỡ gia đình anh Quán rất nhiều trong những năm  hai người quen biết nhau. Ngô Minh cũng đã từng được anh Quán dẫn đến đọc thơ tại Nhà văn hoá bên bờ Hồ Gươm, nơi anh Bính nhiều năm làm giám đốc. Anh Phùng Quán còn kể với Ngô Minh rằng, gỗ để Phùng Quán dựng Chòi Ngắm Sóng đa phần là nhờ anh Bính kiếm giúp. Vì lẽ đó mà những điều hai anh kể về Phùng Quán trong bài viết “ đôi điều cần nói rõ thêm về nhà thơ Phùng Quán” là điều có thật 100%. Ngô Minh cho là vậy.         

          Nhưng thưa hai anh, nhà thơ Phùng Quán là một trong những nhân vật đặc biệt của lịch sử văn học Việt Nam thế kỷ XX. Nhân cách, số phận và tác phẩm Phùng Quán đặt ra nhiều vấn sâu sắc cần suy nghĩ, nghiên cứu, lý giải để góp phần tạo dựng môi trường sáng tạo văn học nghệ thuật tốt đẹp hơn cho các thế hệ tiếp sau của đất nước. Con người Phùng Quán có hai phần : Phần tâm linh, nội tâm và phần  cuộc sống ngày thường. Một số hiện thực mà các anh “nói rõ thêm” trong bài viết của mình chỉ mới là một phần nhỏ của cuộc sống đời thường của Phùng Quán. Trong cuộc sống  mặt nổi này, Phùng Quán còn có nhiều điều quan trọng “cần nói rõ thêm” nữa, và  nhiều người đã viết đã nói trong hai cuốn sách dày mà Ngô Minh và chị Bội Trâm ( vợ anh Quán) đã sưu tầm, biên soan : Nhớ Phùng Quán ( NXB Trẻ- 2002) và Phùng Quán còn đây ( NXB Văn Nghệ, 2007)  Như việc : Phùng Quán lấy vợ không có đám cưới, không có nhà để đón dâu; không có chiếc gường tân hôn. Cô dâu Vũ Bội Trâm không được lên xe hoa, không được đưa dâu như bao người con gái khác khi đi lấy chồng- đó vừa là nỗi đau tâm linh vừa là nỗi đau thường nhật. Rồi chuyện sau 20 năm lấy vợ, đã có  hai mặt con, Phùng Quán mới có một phòng xép gọi là “nhà” để hai vợ chồng sống chung. Chuyện không có sữa cho con bú, chuyện  30 năm “cá trộm- văn chiu- rượu chịu” cũng là một sự thật; rồi chuyện mượn tên để in sách chui, không chỉ có anh cán bộ  Phương Văn ở cùng cơ quan, Phùng Quán còn mượn tên nhà thơ đồng hương Thanh Tịnh,  Đào Phương, Vũ Quang Khải ( em ruột vợ).v.v..Cho đến năm 1987, trước lúc có quyết định phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn , Phùng Quán vẫn phải mượn tên  Đào Phương để in tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” với  cái tên khác “ Buổi đầu thử thách” ở Nhà xuất bản Thuận Hoá, Huế, nhờ một người bạn thơ là Hoàng Vũ Thuật đề xuất in và lặng lẽ biên tập. Mới in được một tập thì Phùng Quán được quyền  ký  tên trên sách, nên dừng lại để in thành “Tuổi thơ dữ dội”. Nhiều người cho mượn tên để giưp Phùng Quán có chút nhuận bút nuôi con như nhà thơ Thanh Tịnh. Nhưng cũng có người cho mượn tên rồi biết hoàn cảnh éo le của Phùng Quan nên cuỗm luôn nhuận bút. Anh Quán kể rằng, có lần anh thoả thuận với người ta mượn tên chia một nửa nhuận bút, nhưng sau đó anh đi đòi mãi, họ không trả tiền, chỉ cho lại Phùng Quán một cuộn giấy dầu cũ ! Chỉ riêng nỗi khổ, nỗi nhục trong trong việc mượn tên đó lại không được gọi  là “lăng nhục”, là “bị ném ra vỉa hè”, là “khổ đau” hay sao ?  

        

           Thưa hai anh Phùng Xuân Bính và Huy Thắng         

           Nhưng tôi biết,  30 năm ( tính từ  vụ Nhân Văn đến khi được phụ hồi Hội viên Hội Nhà văn ( 1957- 1988) Phùng Quán không đau đớn nhiều về cuộc sống vật chất dù vô cùng cơ cực, thiếu thốn. Trước khi về làm cán bộ Bộ văn hoá có lương, có tem phiếu, từ sau Nhân văn-Giai phẩm Phùng Quán vẫn có trợ cấp  của Hội Nhà văn 27 đồng  một tháng ( đủ ăn cơm đấu ghế tức cơm bụi lúc đó) ; mà đau đớn nhất của Phùng Quán là nỗi đau tinh thần. Là người yêu nước đến tột cùng, yêu nước từ trong  cội nguồn máu thịt ; yêu nước bừng bừng trong từng con chữ, vậy mà lúc nào cũng bị cấp trên nghi  là “phản động” “chống đối”, đi đâu cũng bị theo dõi dưới mọi hình thức . Đến nỗi, những người yêu mến in thơ cho Phùng Quán hay đưa Phùng Quán đi nói chuyện ở vài chỗ trong địa phương mình cũng bị liên luỵ . Nhà báo Ngô Quy Nhơn, Tổng biên tập báo Quảng Nam-Đà Nẵng , nhà báo Nguyễn Trung Dân , thư ký toà sơn báo QN_ĐN cuối tuần, năm 1987, vì in “Trường ca cây cà” của Phùng Quán đã bị mất chức ngay . Sau này nhà báo Ngô Quy Nhơn trở lại làm Tổng biên tập báo Đà Nẵng. Còn nhà báo kỳ cựu Trung Dân thì vĩnh viễn xa nghề báo từ đó. Nhà thơ Hoàng Vũ Thuật, Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Bình, 4/1991, vì đưa Phùng Quán đi đọc thơ  một số trường học, hợp tác xã ở Đồng Hới , đã phải viết bản kiểm điểm.v.v..Cho đến tận giữa năm 1994, trước khi mất mấy tháng, Phùng Quán còn bị nghi là tham gia tổ chức phản động ở Sài Gòn. Chuyện ấy được thông báo đến từng tận đảng viên và cán bộ đoàn thể, nên ai cũng biết. Điều đó còn hơn sự lăng nhục. Đó là nỗi đau lớn nhất trong đời Phùng Quán. Tôi có đủ tất cả tài liệu về việc này.           

 

             Cho nên, kết thúc bộ tiểu thuyết “Tuổi thơ dữ dội” hơn  ngàn trang, thằng Mừng, nhân vật chính, cũng chính là Phùng Quán, bi trọng thương, trước khi chết đã khóc lóc, năm nỉ với anh phụ trách : “Anh đừng nghi em là Việt gian nữa , anh hí”. Trong  lời đề từ  bài thơ Trường ca cây cà ( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học-2003), Phùng Quán viết :” Ba mươi năm trước/  Tôi chết giữa Hồng Hà sóng dữ / Tôi lại hồi sinh giữa xanh thẳm Hàn Giang …”. Chữ “chết” ấy còn nặng nề hơn những “khổ đau”, “bị ném ra vỉa hè”, “bị bùn nhơ lăng nhục”.      Trong “Trăng Hoàng Cung” , Phùng Quán viết : Quá đau khổ / Tôi hoá thành lì lợm... (Trăng Hoàng Cung, tr.87-88, NXB Văn nghệ 2007 ). Bài thơ quá đau buồn. Nhưng đó chính là tình cảnh “yêu không được yêu, nói không được nói”, chính là chân dung 30 năm của Phùng Quán.  Nỗi đau đớn lưu lạc ấy được anh Quán cho là bằng  “hai suất Kiều” ,” và tôi đã trả giá cho Thơ bằng  bằng ba mươi năm tốt đẹp của đời mình” ( Phùng Quán- Trăng Hoàng Cung, tr.14,  NXB Văn Nghệ 2007); “Và trong cuộc chiến đấu nguy hiểm đó ( tức Chống tham ô lãng phí- NM) anh đã bị thương ? – PQ : Phải. Trọng thương. 15 năm đi lao động cải tạo và tước quyền sáng tác xuất bản trong 30 năm- quyền thiêng liêng nhất của một nghệ sĩ” ( Phùng Quán còn đây, tr.11, NXB Văn nghệ 2007) . Cái quyền thiêng liêng bị mất đó còn chết người hơn cả bị ném ra vỉa hè, bị bùn nhơ lăng nhục. Phải không hai anh Phùng Xuân Bính và Huy Thắng ? Đó là chưa nói Phùng Quán đã địch thân dùng chữ “bùn -nhơ - lăng - nhục” ngay trong thơ mình đã được xuất bản :  Ba mươi năm tôi bị dìm trong bùn-nhơ-lăng - nhục / Nhưng cuối cùng/ Quê hương đã nhận ra/ Trái – tim – thơ – trong sạch / Và gương - mặt -Thơ - bi thiết - của tôi….( Thơ Phùng Quán, NXB Văn học, 2003)       

 

           Thưa hai anh Phùng Xuân Bính và Huy Thắng        

           Ngô Minh người rất yêu mộ nhân cách  nhà thơ Phùng Quán. Vì tình yêu ấy mà tôi đã cùng chị Bội Trâm tổ chức bản thảo, sưu tầm, biên soan đến ba cuốn sách Phùng Quán viết và viết về Phùng Quán. Mục đích làm sách là để người đời, nhất là các thế hệ sau hiểu đúng hơn tầm vóc của nhân cách và tài năng Phùng Quán. Ngoài ra không có một ý đồ gì khác. Hai anh đọc kỹ hai cuốn Nhớ Phùng QuánPhùng Quán còn đây sẽ hiểu sâu sắc thêm, rõ thêm về nhà thơ Phùng Quán rất gần gũi của chúng ta. Gần gũi đến độ chúng ta đã hiểu nhầm anh, đã  cho anh là “bình thường”, thậm chí tầm thường như mình, Mà quên mất rằng, để cùng chạm cốc, cùng vui vẻ cười nói với chúng ta hàng ngày, anh phải nén nỗi đau đớn của mình vào lòng, nén đến độ nhiều người đã không nhìn thấy. Phùng Quán không oán trách, thù ghét ai, Phùng Quán không “bất mãn, xỏ xiên, bóng gió’ như các anh đã viết, nhưng Phùng Quán luôn đau đớn tâm can vì luôn bị nghi ngờ, rồi bị tước  mất quyền sáng tạo 30 năm sung sức nhất của đời mình. Đó là sự thật phải hiểu, phải thấy. Và Phùng Quán cũng đã viết về điều ấy không ít lần…      

Kính chào hai anh. Mong có lần tái ngộ…      

Ngô Minh kính thư!

 

Huế, Ngày 7-11, Ngày Cách MạngTháng10