Miền Trung là vùng đất “gió Lào cát trắng”, bão lụt triền miên; là nơi phải chịu đựng bao cuộc chiến tranh vô cùng tàn khốc; cũng là vùng đất có nhiều phong cảnh kỳ thú… Tất cả đó đã góp phần tạo cho con người miền Trung những đặc điểm riêng, những cốt cách riêng. Nếu như người miền Bắc lịch lãm, mềm mỏng, tao nhã; người miền Nam phóng khoáng, hào hiệp, cởi mở thì người miền Trung cứng rắn, khẳng khái, thật thà. Nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai từng khái quát: “Người Nghệ - Tĩnh can đảm đến sơ suất, cần cù đến liều lĩnh, kiên quyết đến khô khan, tằn tiện đến cá gỗ”. Điều đó không chỉ đúng với người dân Nghệ - Tĩnh mà rất đúng với người dân miền Trung nói chung. Nét riêng này đã ảnh hưởng ít nhiều đến sáng tác của các tác giả gắn bó khăng khít với mảnh đất miền Trung, trong đó có Thạch Quỳ.
Nhà thơ Thạch Quỳ tên thật là Vương Đình Huấn, sinh năm 1941, tại làng Đông Bích, dưới chân núi Quỳ Sơn (dân địa phương gọi là rú Cuồi) thuộc xã Trung Sơn, Đô Lương, Nghệ An, trong một gia đình trí thức Nho học. Ông nội nhà thơ thuộc dòng dõi khoa bảng, ông ngoại từng thi đỗ ba khoá tú tài, bà ngoại và mẹ là cả một kho tàng văn học dân gian. Cho đến nay, Thạch Quỳ đã cho ra mắt 8 tập thơ: Sao và đất (in chung, 1967); Tảng đá nhành cây (1973); Nguồn gốc cơn mưa (thơ thiếu nhi 1978); Con chim Tà Vặt (1985)); Cuối cùng vẫn một mình em (1996); Đêm giáng sinh ((2004). Tuyển thơ Thạch Quỳ (2009); Bức tượng (2010). Anh là một trong những tên tuổi sáng giá của thế hệ những cây bút trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và vững bước trên con đường thi ca đầy chông gai cho đến bây giờ.
Thời niên thiếu, anh vừa đi học vừa phải chăn trâu, cắt cỏ dưới chân núi Quỳ. Cái bút danh Thạch Quỳ sinh ra từ đó (Thạch Quỳ là tảng đá ở núi Quỳ). Những vần thơ đầu tiên anh ngồi viết trên tảng đá ấy là những vần thơ bắt chước những bài hát đồng dao của lũ trẻ chăn trâu quê anh: Nhổ lác nhổ từng cây/ Nhổ năn măn từng rễ/ Lưng cúi gập suốt ngày/ Bắp chân đầm máu đĩa… (Bài hát của những người nhổ cỏ năn, cỏ lác ở vùng đồng chiêm trũng). Nếu không phải là người trong cuộc chắc không thể viết được những câu thơ giàu chất hiện thực như thế. Anh kể: thời đó, anh cùng với nhà thơ Vương Trọng từng đội những giành phân đầy, bụng đói cồn cào, cố hết sức leo dốc, vượt qua đỉnh núi Quỳ. Có lẽ phải trải qua những tháng năm khó khăn ấy mà sau này, khi viết về cái nghèo, cái đói hiếm nhà thơ nào ở xứ ta diễn tả sinh động như anh, hóm hỉnh như anh, thấm thía và sâu sắc như anh: Cái nghèo đội nón cời và nhón chân từng bước/ Cười sưa răng trên miệng ấm sứt vòi. Anh nhân cách hóa cái nghèo thành một kẻ vô cùng ranh mãnh: Mày núp trong vừng trán mẹ răn reo/ Mày ẩn dưới gót chân em nứt nẻ / Mày luồn lọt qua trăm ngàn mối chỉ/ Để nằm trong mảnh vá áo con ta/ Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến/ Bò nôn nao trong ruột đói của ta… Anh nhận ra đằng sau cái nghèo là những thế lực vô cùng độc ác: Cái nghèo có nọc/ Đốt cha ông từ thuở chẳng chăn màn (Cái nghèo). Chính bọn chúng là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến cái nghèo, cái đói của dân. Nhưng người dân quê anh nói riêng và người miền Trung nói chung không cam chịu cảnh nghèo. Họ cố tìm đủ mọi cách để thoát khỏi đói nghèo. Cái mà nhà nghiên cứu Đặng Thái Mai đúc kết “tằn tiện đến cá gỗ” là muốn nói đến nghị lực dùi mài kinh sử của những ông đồ xứ Nghệ. Thạch Quỳ cũng đã thể hiện cái ý chí, cái nghị lực phi thường ấy theo cách riêng của mình: Lòng viên sỏi vẫn giữ màu máu đỏ/ Núi nghiêng vai vác con đường lên (Tặng những cô gái đập đá bên đường không tên); Giọt mưa gom hạt bụi hóa phù sa (Gom nhặt trên bãi bom B.52); Nửa phần đời chong mắt đèn xó tối/ Nửa phần đời khép mắt ngóng ngày lên (Nửa phần đời)… Những nhà thơ thành danh quê anh phần lớn định cư ở thủ đô, riêng anh vẫn bám trụ trên mảnh đất Nghệ An một cách kiên cường, gan góc. Bàn bè chí cốt của anh nhiều lần khuyên và tạo điều kiện để gia đình anh “dời đô”, song anh vẫn một mực chối từ. Về con người Thạch Quỳ, nhà thơ Võ Văn Trực nhận xét: Vì yêu quê đến câu nệ, đến cố chấp”, anh cố giữ được bản tính của quê hương đôi lúc gàn dở và cực đoan - người ta thường gọi là cái gàn của anh đồ Nghệ”. “Bản tính của quê hương” mà nhà thơ Võ Văn Trực nói đến ở đây cũng chính là cốt cách của người miền Trung. Những giai thoại về cái gàn của “ông đồ nghệ Thạch Quỳ” đã phần nào thể hiện bản tính thẳng thắn, khẳng khái của những con người ở vùng đất từng được mệnh danh là “chó ăn đá, gà ăn sỏi”. Một bạn đồng nghiệp của tôi kể rằng: Thời mới chia tỉnh (1991), các nhà văn Xuân Hoài, Đức Ban… trở về Hà Tĩnh. Lãnh đạo Hội Văn nghệ Nghệ An chỉ còn lại Dương Huy và Thạch Quỳ. Nhà thơ Thạch Quỳ được phân công giữ chức Thường vụ trực. Ông Hồ Phi Phục (lúc đó làm Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy) vốn ngưỡng mộ tài năng thơ ca và bản tính thẳng thắn, cương trực của anh nên gới ý cho Mặt trận Tổ quốc VN tỉnh giới thiệu anh vào danh sách đề cử đại biểu Quốc hội (danh sách 3 người ngoài đảng được MTTQVN Nghệ An giới thiệu hồi đó gồm: Thạch Quỳ, Tạ Quang Hải và Lê Duy Nguyên). Nhà thơ Thạch Quỳ từ chối mãi không được. Hôm lấy ý kiến cử tri tại dãy nhà C/9, khu tập thể Quang Trung, anh kiếm cớ không đến tham dự bởi nghĩ rằng sự có mặt của mình sẽ khiến bà con e ngại. Quả đúng như vậy! Nhờ sự vắng mặt của anh mà bà con phát biểu về anh hết sức thoải mái. Bà con thừa nhận anh là người có tài, cương trực, thẳng thắn nhưng chưa thật hòa đồng; thường xuyên không tham gia làm vệ sinh cầu thang ngày chủ nhật hàng tuần; ít đi thăm hỏi bà con khu phố trong những dịp lễ tết… Khi nghe ông Chủ tịch Mặt trận TQVN tỉnh thông báo lại ý kiến cử tri, anh thở phào nhẹ nhõm và xác nhận bà con góp ý hoàn toàn đúng. Anh bị gạch tên khỏi danh sách đề cử bởi những lý do có thể nói là hết sức vớ vẩn. Cũng vì những lý do hết sức vớ vẩn ấy mà Quốc hội bỏ sót một đại biểu tài năng, một tiếng nói thẳng thắn, trung thực. Cái bản tính thẳng thắn, khẳng khái, cương trực của anh không chỉ được thừa hưởng từ gen di truyền mà còn được thừa hưởng từ các bậc tiền bối vùng quê Nghệ - Tĩnh như Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Phan Bội Châu…
Đọc lại toàn bộ thơ Thạch Quỳ, điều dễ nhận nhất là cái khí chất mạnh mẽ và đầy bản lĩnh của một cây bút từng trải: Trơ trơ tảng đá/ Đá đổ mồ hôi/ Biết hay không biết/ Lầm lì mồ côi (Tảng đá); Cả cái chết đợi chờ tôi trước mặt/ Hù dọa tôi, tôi chấp nhận lâu rồi. Đó cũng là khí chất, bản lĩnh của một số nhà thơ miền Trung như Phùng Quán (Dù ai cầm dao dọa giết/ Cũng không nói ghét thành yêu); Hải Kỳ (Tôi là tôi như thế tự ngày xưa); Hồng Nhu (…nguyện làm cây sét đánh/ Chết trong tươi xanh và ương ngạnh đâm chồi)… Thạch Quỳ là một con người đầy kiêu hãnh – một sự kiêu hãnh hết sức chính đáng. Bởi anh nói rất trung thực bản tính và tài năng của mình: Tôi đầy ứ, thẳng căng, tôi mạnh khỏe/ Tôi cao hơn đất đá mọi công trình/ Tôi không phải sơ đồ bản vẽ/ Tôi cao hơn người máy, thần linh” (Tôi); Toàn bộ loài cây – một cau mọc thẳng/ Toàn bộ loại chim – một cò thân trắng (Đêm vườn rừng). Đọc những câu thơ này, tôi chợt nhớ đến Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ: Trong triều ai ngất ngưởng bằng ông! Đó là cái ngất ngưởng, cái kiêu hãnh của những người chân tài. Thật ra thì Thạch Quỳ rất tự biết mình: Không bé nhỏ tầm thường, không vĩ đại/ Có thể vứt đi trong xó tối u buồn / Có thể đứng trên đôi chân vững chãi/ Tôi một mình, tôi lớp lớp triều dâng…(Tôi). Mặc dù trải qua bao gian nan, thử thách song anh vẫn không nguôi khát vọng: Từng đối mặt với bạo tàn, chết chóc / Máu trào tuôn, sẹo đóng tự trong hồn / Tôi mệt mỏi đến không còn sợ chết / Nhưng vẫn lòng ham sống thật tôi hơn. Anh khảng khái tuyên bố: Những đau khổ không làm tôi gục xuống (Tôi). Có người nói đùa: ruột Thạch Quỳ còn thẳng hơn ruột ngựa, tính cách Thạch Quỳ còn rắn hơn cả những tảng đá ở núi Quỳ!
Thạch Quỳ không chỉ có thế. Anh là nhà thơ của những suy tư, trăn trở: Bàng hoàng giữa một ngày/ Mình sống hay chẳng sống?”(Không đề); Nghìn năm mưa đã từng mưa/ Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào? (Lời nghìn năm); Tôi chờ ai nữa? Mùa thu rộng/ Gió thả bên trời lá liễu bay (Mây trắng mùa thu)… Anh là nhà thơ của những triết lý, chiêm nghiệm: Lưỡi gươm ròng ròng máu tươi/ Nước mắt ướt đầm yên ngựa/ Chỉ có đất với trời và cỏ/ Hiểu đường đi của giọt máu người” (Qua đền Cuông ghi chuyện cũ); Cụ đi tìm chân kinh/ Ở thứ kinh không chữ (Bên mộ Nguyễn Du); Với Lan Châu ngấn sóng ánh trên tường/ Luôn luôn động theo nhịp trời, nhịp biển (Trở lại Lan Châu); Cái nghèo xơ trên bộ cánh làm sang/ Cái nghèo xác lại nằm trơ đáy đĩa (Cái nghèo)… Anh còn là nhà thơ của tình yêu lứa đôi: Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước/ Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy/ Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc/ Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về (Đợi em ngày giáp tết); Anh yêu em hơn thần thánh yêu nhau/ Một khẽ chạm tay, rung toàn cơ thể (Không đề); Đó là chiều nắng nhạt lá thông rơi/ Đó là sớm kim chi màu cỏ biếc. Tôi trở lại sau mười năm cách biệt/ Bên em trước cỏ lặng yên ngồi (Huế)… Nhưng theo tôi: cái cứng rắn, cái thẳng thắn, cái khẳng khái trong thơ Thạch Quỳ thể hiện cốt cách của người miền Trung rõ nét hơn cả. Điều đó đã góp phần quan trọng giúp cho thơ anh có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.
Mảnh đất miền Trung là mảnh đất giàu truyền thống thơ ca. Nhiều nhà thơ tài danh đã sinh ra trên mảnh đất này. Thời trung đại có Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Tùng Thiện Vương, Nguyễn Hàm Ninh… Thời Thơ Mới có Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Lưu Trọng Lư… Thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ có Tố Hữu, Hoàng Trung Thông, Hữu Loan, Phùng Quán, Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo… Bằng tài năng và tâm huyết của mình các nhà thơ miền Trung đã góp phần thúc đẩy sự phát triển nền thơ ca nước nhà qua các thời đại. Tìm hiểu cốt cách người miền Trung trong thơ Thạch Quỳ cũng chính là tìm hiểu bản sắc riêng của tác giả, của từng vùng miền khác nhau. Thơ dù đổi mới, cách tân đến đâu nhưng nếu đánh mất bản sắc của mình, của quê hương mình, của dân tộc mình thì khó lòng có sức lan tỏa và sức sống lâu bền.
Trại viết Tam Đảo, tháng 9 – 2011
Mai Văn Hoan