Lời người viết:
Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (1926-2011) được coi là nhà ngữ học hàng đầu Việt Nam. Ông được phong danh hiệu Nhà giáo Nhân dân và tặng Giải thưởng Hổ Chí Minh với những công trình nghiên cứu giá trị, trong đó nổi bật là Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán - Việt. Tuy nhiên theo khảo cứu của chúng tôi, không phải cách đọc Hán Việt được dạy lần cuối vào thời Đường là ngọn nguồn của tiếng Việt mà ngược lại, chính từ tiếng Việt cổ đã sinh ra cách đọc Hán Việt cũng như ngôn ngữ Trung Hoa!
Xin công bố bài viết, mong nhận đựơc ý kiến thảo luận của các bậc thức giả.
Vào thập niên 80 thế kỷ trước, công trình Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán-Việt của giáo sư Nguyễn Tài Cẩn được đánh giá là khám phá ngôn ngữ học quan trọng, làm thỏa mãn bức xúc của nhiều học giả, không chỉ ở Việt Nam mà trên thế giới. Đó là ý tưởng cho rằng: “Cách đọc Hán-Việt hiện nay chính là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời Đường (618-907 sau CN) tại kinh đô Trường An, từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán được dạy lần cuối cùng tại Giao Châu trước khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10.” Nhờ đó ông được coi là người “đã soi rọi đến tận ngọn nguồn cách đọc Hán-Việt, một cách đọc đã giúp người Việt Nam dễ dàng tiếp nhận những tinh hoa của văn hóa Hán - một trong hai nền văn hóa lớn nhất phương Đông - mà không bị Hán hóa” (*).
Để có ý tưởng này, giáo sư Cẩn cùng các học giả trước ông như H. Maspéro với cuốn Tiếng địa phương Trường An đời Đường (Le dialecte de Tchang-an sous les Tang), B. Karlgren với cuốn Khảo sát âm vị học tiếng Hán (études sur la phonologie chinoise)… dựa trên hai định đề khoa học vững chắc của thế kỷ XX là:
1. Loài người được sinh ra từ nhiều vùng khác nhau. Người châu Á được hình thành từ Nam Tây Tạng rồi di cư dần về phía đông nam và xâm nhập Đông Nam Á.
2. Văn hóa nhân loại được phát sinh từ vùng Lưỡng Hà, chuyển qua Trung Hoa và Ấn Độ rồi vào Đông Nam Á. Vì vậy, ảnh hưởng của ngôn ngữ Trung Hoa đối với Việt Nam là điều tất yếu.
Sang thế kỷ XXI, từ những nghiên cứu di truyền học, khoa học khẳng định:
1. Nhân loại được sinh ra đầu tiên tại địa điểm duy nhất là Đông Phi, 160.000 năm trước.
2. Người tiền sử từ châu Phi theo bờ biển Ấn Độ tới Việt Nam 70.000 năm trước. Khoảng 40000 năm trước, người từ Việt Nam lên khai phá đất Trung Hoa, 30000 năm trước, sang chinh phục châu Mỹ.
Nhận định như vậy không còn là “giả thuyết làm việc” mà là kết luận khoa học vững chắc, đã lật ngược những quan niệm “khuôn vàng thước ngọc” một thời, tạo cuộc cách mạng thực sự trong nhận thức của nhân loại.
Tíếp thu các công trình nghiên cứu của nhiều học giả đi trước, trong ba cuốn sách Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt (Văn học, 2007), Hành trình tìm lại cội nguồn (Văn học, 2008) và Tìm cội nguồn qua di truyền học (Văn học, 2011), tôi góp phần chứng minh rằng, người Việt cổ sáng tạo công cụ đá mới và thuần hóa lúa nước đầu tiên trên thế giới rồi đưa văn minh nông nghiệp lúa nước lên Trung Hoa. Hàng vạn năm trước khi người Hoa Hạ ra đời, người Việt đã xây dựng ở Đông Á nền văn hóa phát triển. Trên lưu vực Hoàng Hà, sớm hơn 12000 năm trước, người Việt cổ đã sáng tạo chữ tượng hình. Vào khoảng 2600 năm TCN, người Mông Cổ xâm lăng phía Nam Hoàng Hà. Là những bộ lạc du mục, người Mông Cổ đã học nghề nông cùng văn hóa của người Việt để dựng vương triều Hoàng đế. Họ đã học vốn từ vựng phong phú của người Việt nhưng bắt buộc người dân vùng bị chiếm bỏ cách nói, cách viết chính trước phụ sau của người Việt để theo cách nói phụ trước chính sau của người Mông Cổ. Người Hoa Hạ con cháu họ, tiếp tục thể thống này để tạo dựng ngôn ngữ Trung Hoa… Cho đến thời Xuân Thu, tại những trung tâm văn hóa lớn ở Trung Nguyên, tiếng Việt của phương Nam vẫn được coi là ngôn ngữ chuẩn – nhã ngữ, với ý nghĩa ngôn ngữ tao nhã. Nhà Tần, trong cuộc thống nhất văn tự đã lấy nhã ngữ làm quốc ngữ.
Trong quá trình lịch sử lâu dài, nhiều lần nước Trung Hoa bị các bộ lạc phương Bắc xâm lăng, cai trị. Cách đọc ban đầu của người Việt được cải biến nhiều lần thành tiếng Bắc Kinh hôm nay… Từ lịch sử hình thành dân cư và văn hóa Đông Á cùng với một số hóa thạch tên người và kết cấu ngữ pháp Việt trong thư tịch Trung Hoa cổ đã gợi cho tôi ý tưởng Tiếng Việt là chủ thể tạo nên ngôn ngữ Trung Hoa.
Rất mừng là năm 2010, nhà nghiên cứu Đỗ Thành công bố nhiều bài viết quan trọng cho thấy, từ chữ tượng hình của người Việt, người Hoa Hạ biến chế thành chữ Trung Hoa. Phát hiện của học giả Đỗ Thành đề cập nhiều phương diện của ngôn ngữ Việt – Hoa. Ở đây, tôi xin giới thiệu bài viết Chữ Nôm có trước của ông:
*
“Tôi sinh ra trong dân gian Mân Việt, Lạc Việt, nơi tiếng Việt là tiếng nói hàng ngày, lại được học chữ Hán nên sớm cảm nhận rằng vẫn có một thứ chữ của người Việt tồn tại trước khi chữ Hán ra đời. Nhưng cảm giác như vậy không dễ nói ra và cũng hơn một lần mở miệng định nói thì bị chặn lại.
Gần đây, nhờ động viên của nhiều người Việt trong và ngoài nước tìm về cội nguồn và văn hóa dòng giống Việt, tôi mạnh dạn viết ra những điều mình nhiều năm trăn trở.
Hai bài “Phát hiện lại Việt nhân ca” và “Phục nguyên Duy giáp lệnh của Việt vương Câu Tiễn” ra đời trong hoàn cảnh đó.
Tuy nhiên một vấn đề lớn của văn hóa Việt cần làm rõ là chữ Nôm ra đời như thế nào?
Người Kinh có một di sản văn bản chữ Nôm lớn. Và không chỉ người Kinh mà người Mân Việt, Việt Quảng Đông, người Tày, người Thái cũng có chữ Nôm riêng của mình. Tuy nhiên, chữ Nôm xuất hiện từ bao giờ và do ai sáng tạo vẫn là câu hỏi không lời đáp. Trong công trình Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, Tiến sĩ Lê Mạnh Thát dựa vào một tài liệu lưu trữ tại Nhật, cho rằng chữ Nôm có từ đầu Công nguyên. Phát hiện đưa chữ Nôm lui về khoảng thời gian xa như vậy thật đáng chú ý nhưng do chứng lý còn yếu nên chưa thực thuyết phục.
Để truy tìm gốc tích chữ Nôm, tôi dựa vào hai nguồn: cuốn Thuyết văn giải tự của Hứa Thận và cách phát âm một số chữ cổ của người Mân Việt, Việt Quảng Đông và Việt Nam.
“Thuyết văn giải tự” do Hứa Thận thời Đông Hán biên soạn, bao gồm hai phần là Thuyết văn và Trọng Văn.
- Phần Thuyết văn gồm 9.353 chữ, chia theo 540 bộ thủ.
- Phần Trọng văn gồm 1.163 chữ, chỉ ra những chữ cùng âm cùng nghĩa nhưng mà cách viết khác nhau.
Sách Thuyết văn gồm 14 chương chính và chương mục lục, tổng cộng có 133.441 chữ trong lời ghi chú để giải thích chữ nghĩa. Năm Vĩnh Nguyên thứ 12 (Công nguyên, năm 100), sách Thuyết văn được hoàn tất nhưng mãi đến năm Kiến Quang thứ nhất (Công nguyên, năm 121 ), Hứa Thận mới giao cho con là Hứa Xung dâng lên triều đình Hán.
Nguyên bản của Thuyết văn đã thất lạc, cũng là nhờ các thư tịch khác thời Hán và các đời sau đã dùng Thuyết văn để dẫn chứng nhiều, cho nên, sau nầy người ta có tài liệu biên soạn lại sách Thuyết văn. Thời Bắc Tống rồi đến thời Mãn Thanh đều có người nghiên cứu và hiệu đính.
Thuyết văn dùng hai phương pháp “Phản” và “Thiết” để tra chữ, rồi giải thích nghĩa, tạo ra tiền lệ và trở thành quyển từ điển chữ Hán đầu tiên. Các từ điển sau nầy là phỏng theo phương cách của Thuyết văn.
- “Phản” là cách nói phản-nghịch (nói lái): dùng từ phản (nói lái) để đọc ra phát âm của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là theo cách nói lái của “Tha-Tiền 他前”, là “Thiên Tà”, thì sẽ biết “Thiên” là phát âm của chữ “Thiên 天”: 天 = 他前.
- “Thiết” là nhất thiết, là tất cả: chữ đầu lại dùng luôn âm vần của chữ thứ hai để phiên âm ra giọng đọc của chữ cần tra cứu. Ví dụ:
Phát âm chữ “Thiên 天” là dùng chữ “Tha-Tiền 他前”. Với cách đánh vần chữ “Tha 他” dùng luôn âm “iên” của chữ “tiền 前” thì sẽ được Tha-iên -->Thiên: 天=他前.
Hai phương pháp “phản” và “thiết” có cách dùng trái ngược nhau, nhưng nhập chung lại thì cách nào cũng được, và gọi chung là phương pháp phản-thiết để phiên âm.
Nhờ cách phiên âm phản-thiết của Hứa Thận, người ta có thể căn cứ vào cách đọc của Thuyết văn để phục nguyên âm đọc Hán ngữ cổ, và cách giải tự trong Thuyết văn trở nên có nhiều đóng góp cho việc khảo cứu ngôn ngữ. Đời nhà Thanh có bốn học giả nổi tiếng đã nghiên cứu và hiệu đính sách Thuyết văn.
Có hiện tượng “không bình thường” là, khi dùng chữ Hoa ngày nay để đọc “Hán ngữ” cổ thì khó khăn, không thích hợp còn dùng tiếng Việt để đọc chữ Hán cổ lại dễ dàng. Từ đó rút ra kết luận: đọc Thuyết văn theo tiếng Việt thì đúng, mà đọc theo tiếng Hoa thì sai vì không hoặc khó lòng phiên âm đúng.
Chính vì tiếng “Hoa” không đọc nổi “Thuyết văn giải tự” cho nên các đời sau nầy khi biên soạn lại sách Thuyết văn, người ta thêm vào cách phiên âm “mới” hơn so với thời cổ. Dù là như vậy nhưng, những âm Trung - Cổ đại lại một lần nữa cũng gần với âm Việt hơn là tiếng Hoa ngày nay. Chúng ta có thể nhận ra những phần phiên âm theo cách “phản-thiết” mà người đời sau thêm vào. Khi đọc sách Thuyết văn, thấy đã có hướng dẫn cách đọc chữ của Hứa Thận rồi mà lại có thêm 3 chữ “X X thiết” nữa là bản được soạn lại! Bản nào được biên soạn vào đời nhà Thanh thì có thêm phần “XX thiết” đọc theo tiếng quan thoại-phổ thông được.
Liệu có còn bản chính của sách Thuyết văn do Hứa Thận viết ra không? Không! bản Thuyết văn xưa nhất hiện thời, cho dù được gọi là “nguyên bản”, được chụp hình đăng lên Internet hay in thành sách để bán thì cũng là bản được biên soạn vào thời nhà Tống!
Nhưng dù sao đi nữa, sách Thuyết văn có giá trị là nhờ nó giữ được nhiều nguyên văn cổ xưa của Hứa Thận và nhiều điển tích trong những lời giải thích. Đồng thời sách cũng đưa ra quy tắc “chữ viết cùng một bộ thì phát âm giống nhau” v v... Tôi nhận thấy, đọc Thuyết văn theo tiếng Hoa-quan thoại thì không phiên âm được chữ như chú dẫn của Hứa Thận còn khi đọc theo các tiếng Việt thì đọc đúng! Ví dụ:
- Chữ 夏, tiếng Hoa ngày nay đọc là “Xia”. Thuyết văn ghi, 夏 : 中國之人也. 從夊從頁從𦥑. 𦥑,兩手. 夊,兩足也. 胡 雅 切. (Hạ: Trung Quốc chi nhân dã. Tùng xuôi tùng hiệt tùng cúc. Cúc, lưỡng thủ. Xuôi, lưỡng túc dã. Hồ nhã thiết.)
Nghĩa là, Hạ 夏: người Trung Quốc vậy. Viết theo 夊 xuôi theo 頁 hiệt theo cúc𦥑. Cúc , hai tay (cúc: khép, chấp hai tay. Ngày nay còn dùng: cúc cung tận tụy). Xuôi, hai chân vậy. Hồ nhã thiết.
- Phiên âm theo cách phản: Hồ nhã = Hà nhỗ, âm : “Hạ”
- Phiên âm theo cách thiết: Hồ-nhã=Hồ-a-ha, âm : “Hạ”.
Một đoạn ngắn nêu trên khi tra chữ Hạ 夏 cho thấy thời cổ đại cho đến Hán triều thì chữ 夏 xia của tiếng Hoa bây giờ, ngày xưa đọc là “Hạ”. Như vậy rõ ràng là dùng tiếng “Xia” khi tra Thuyết văn là trật, là không thích hợp. “Hồ nhã” không bao giờ phiên âm ra thành “Xia”. Đọc theo tiếng Hoa-quan thoại thì “胡 雅 (Hủa + Dã)” không thể nào đánh vần ra “Xia” theo cách “phản và thiết”. Cũng nhờ phần chú thích giải tự thì biết được ngày xưa khép tay, khoanh tay, hay chấp tay gọi là Cúc𦥑và hai chân xuôi thì viết là 夊xuôi.
Bây giờ ta thử xét một vài chữ có cách đọc khó và lạ xưa nay: Bôn
譒 也。从言番聲。《商書》曰:“王譒告之.” 補過切
Chữ Bôn: 譒 Boa- dã. Tùng ngôn bàn thanh. (Thương thư) viết: “Vương bôn cáo chi”. Bổ qua thiết, là “ Bổ-ua=bua”.
Bua (Bổ qua thiết là phiên âm của đời sau. Nguyên văn của “Thuyết văn” là “ngôn-bàn thanh 言番聲”=Bôn.
Bây giờ người ta đọc chữ Bôn (bua) 譒 là “Phiên” hay là “Phồn”. Đọc là “phồn” thì còn hợp với Thuyết văn đã ghi là “ngôn, bàn thanh”. Bôn hay Phôn hay Phồn giống nhau, chỉ là đọc giọng nặng nhẹ khác nhau theo từng miền. Người ta đọc 譒 phiên theo âm chữ ghép bên phải là “phiên 番”; cách đọc “phồn 譒” là vì ghép vần 番 phiên và 言 ngôn. Nhưng thời xưa lại đọc chữ 番 phiên là “bàn 番”.
Xin giải thích thêm: 譒 vết tích của âm “Boa” còn được dùng trong tiếng Triều Châu - Mân Việt ngày nay. Hiện giờ tiếng Triều Châu vẫn gọi “bàn chân” là “kha-bóa” (Kha là kẳng/cẳng, Boa là bôn/bàn, bàn tay, bàn chân). Từ nguyên văn “tùng ngôn bàn thanh” của Thuyết văn thì chúng ta biết được ở thời Cổ đại đọc là “Bôn, Bồn, Bàn”, đến thời Trung Cổ, người ta “biên soạn” lại Thuyết văn thì thêm vào “Bổ qua thiết = Bua = Boa” phù hợp với “kha-boa (bàn chân)”, bên tiếng Triều Châu còn dùng cho đến ngày nay. Âm của các “Nho gia” từ từ biến thành “Phiên - như tên của nước “Thổ phiên” hay “Phồn”, tức là nước “Thổ phồn”.
“Phiên” hay “Phồn” có sau và được dùng cho đến ngày nay. Người ta lại đặt tên gọi đó là “từ Hán-Việt”! Tên gọi là gì cũng được, điều rõ ràng là “Hán-Việt” của “phiên” hay “phồn” có sau, còn chữ Nôm “bóa” “boa” “bàn” mới là có trước và đã được ghi trong sách “Thuyết văn”. Cho nên nếu nói rằng “bàn” là “Nôm” thì rõ ràng là Nôm có trước.
Dưới đây sẽ xét đến âm chữ Bàn trong Thuyết văn:
番: 獸足謂之番。从釆;田,象其掌。 附袁切
Phiên: Thú túc vị chi phiên. Tùng 釆 thể; 田 điền, tượng kỳ chưởng 掌. Phù viên thiết.
Phiên: Chân thú gọi là phiên, viết theo 釆 thể; theo 田 điền, như là chưởng (bàn tay).
Phần trên là tôi phiên dịch theo “đa số” hiện giờ! Và “phù viên thiết” cũng là do đời sau thêm vào mà phiên âm như vậy, chứ thật ra thì đoạn văn trên phải phiên dịch là “ Bàn: thú túc vị chi bàn, tùng thể; điền, tượng kỳ chưởng.”
Đây là vết tích của chữ Phiên 番 trước và ngay thời Hán, vào lúc ông Hứa Thận còn sống thì đọc là Bàn. Cho nên còn cách giải nghĩa phần nầy như sau: { Bàn 番: Thú túc gọi là Bàn. Theo (thể) 釆 bẻ ; (Điền) 田 đàn, tựa như cái chưởng. Bàn: chân thú gọi là bàn (bàn chân), viết theo bẻ 釆 (thể) và đàn 田 (điền), tựa cái bàn (tay, chân)...} Vì sao lại “diễn nôm” như vậy ? Vì thuyết văn đã viết đây là “ngôn - bàn thanh”. Chữ bẻ 釆 (thể) quá đặc biệt! (“thể” là “hái” là “bẻ”). Tiếng Triều Châu đọc là “bboi” hay “bbé” hay “tiaé”; tiếng Quảng Đông là “chsổi”; tiếng Bắc Kinh là “chsài”. Chsổi hay chsài y như đọc “thể” không chuẩn mà thành “chsể, chsề”, còn “thể” đọc không chuẩn qua vần “T” sẽ thành “tể” hay “Tiae” ; “bbé” hay “bẻ” là giống nhau. Xin hỏi ai là chuyên gia về “Hán-Nôm” thì những âm của một chữ “đặc biệt” như vậy, âm nào là “Hán”, âm nào là “Nôm” và chữ Hán có trước hay là Nôm có trước?
Điều thú vị khi nghiên cứu Thuyết văn giải tự của Hứa Thận để phục nguyên cổ Hán ngữ thì thấy rõ phát âm thời Tần và Hán giống như các tiếng nói Việt Nam và Quảng Đông (Việt), Phước Kiến-Triều Châu (Mân-Việt) ngày nay; đồng thời cũng phát giác những biến âm đã khác tiếng Việt thời cổ đại mà các phương ngôn Việt Nam, Quảng Đông, Triều Châu còn giữ được. Ví dụ tiếng Việt Nam còn giữ được tiếng “bàn” tay, “bàn” chân; Triều Châu giữ được “boa-boá” hay là “póa” Trung cổ mà thời Hán đã được ghi lại trong “Thuyết Văn”. Biến âm của Bàn-bồn-bôn/ tùng “ngôn” “bàn” thanh trở thành bua-boa-bóa-póa, trở thành “biên” rồi thành “phiên” và “phồn”! Thực ra thì từ “bàn-bèn” biến thành biên, bua, phàn, phền, phồn, phiên v v... đó là quy luật biến âm thường tình của ngôn ngữ theo miền và theo thời đại. Cổ âm xưa là Bàn, giáp cốt - kim văn đã vẽ rõ chữ nầy bằng hình bàn chân thú với đầy đủ móng vuốt. Ngày nay chỉ có tiếng Việt Nam còn dùng “bàn” là “bàn tay - bàn chân” thì rõ ràng là tiếng Việt Nam còn giữ được âm cổ xưa nhất, và cũng là một minh chứng giọng “Nôm” của chữ “Nôm” là có trước: có thể nói giáp cốt văn-chữ tượng hình đầu tiên là “chữ Nôm” tức chữ Việt cổ.
cổ văn vẽ chữ tượng hình: 番 phiên là “bàn 番” , bàn chân thú có móng vuốt. Ngày nay đọc “附袁切 phù viên thiết” thì làm sao đúng với ngày xưa? Nếu đọc là “bùa vang- 附袁” là “bàn (vua)” thì hoàn toàn đúng là “bàn” như chú thích trong Thuyết văn vậy! Bởi vì chính chữ “bùa” của bùa chú là chữ bùa (附) đó thôi. Tiếng Việt ngày nay, “phù” và “bùa” vẫn được dùng như nhau.
- Xét thêm: Thảo bộ 艸部 蘻kỹ (hệ) 狗毒也 cẩu độc dã 从艸繫聲 tùng thảo kỷ (hệ) thanh。古詣切 Cổ chỉ thiết.
Cổ chỉ (nghĩ) kỷ, ngày nay dùng chữ nầy cho ý nghĩa “liên kết”, mà có khi hai chữ “liên kết” lại đọc là “liên hệ 蘻”. Thật ra thì xưa Trung Cổ ghi là “古詣 cổ nghĩ = kỷ” và biến âm “kỷ” thành ra “kết” nhưng sau nầy thành ra “hệ” như ngày nay. Ngày xưa đọc chữ “詣 chỉ” là “Nghĩ 詣”: Ngôn 言 chỉ 旨 = nghĩ và phiên âm là 五計 / Ngũ kế. Phân tích kỹ lưỡng lời trong Thuyết văn sẽ thấy rõ là “nọc độc của chó gọi là “Cẩu Kỷ (nọc độc)” và “Tùng thảo kỷ thanh” lại là viết theo bộ thảo 艸 với âm “Kỷ - hay kỳ”. Vì tiếng xưa không cố định thanh sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng nên âm “kỳ” gần với “kề” và hoàn toàn phù hợp với “liền kề”, cũng có nghĩa tương tự như “liên hệ”. Qua khảo cứu kỹ lưỡng, sẽ có đủ lý do để phục nguyên chữ Nôm cổ đại “kề 蘻” đã có trước âm “hệ” quá mới, và âm “kỷ” với “kết” cổ đại vẫn có sau âm “kề”. Vậy: “liền kề” là có trước “liên hệ”
Ngôn bộ 言部 詣 nghĩ (chỉ) 至也 chí dã。从言旨聲 tùng ngôn, kỷ thanh。五計 ngũ kế = nghễ 切 . Từ khảo cứu nầy thấy “thánh chỉ” thời Cổ đại gọi là “thánh nghĩ”, đến thời Trung cổ là “thánh nghễ” cho nên phiên âm là “Ngũ Kế” = Nghễ, ngày nay là “chỉ.”
Chỉ bộ 旨部 旨kỷ 美也 mỹ dã。从甘匕聲 tùng cam tỉ thanh; âm cam theo tỉ thanh là “kỷ”。凡旨之屬皆从旨 phàm chỉ chi thuộc giai tùng chỉ。職雉切 chức thị =chỉ (biến âm thành chỉ): xưa đọc là “kỷ” vì là “cam” với “tỉ thanh”. Nay đọc là “chỉ”
Tỷ Bộ 匕部 匕tỷ 相與比敘也 tương dĩ tỉ tự dã。从反人 Tùng phản nhân (cách viết như chữ nhân人 bị lộn ngược (匕) 。亦所以用比取飯. Tỷ, diệc sở dĩ dụng tỉ thủ phạn - “tỷ”có thể dùng để đựng cơm. Tiếng Việt ngày nay còn dùng “kỷ” trà, kỷ đựng trầu cau. 一名柶 (nhất danh mứ/máng) còn gọi là “mứ” (hay là “máng” ngày nay)。Ngày nay tiếng Triều Châu vẫn dùng chữ “tỷ-đọc thành Teaá” là cái “chảo” để chiên cơm, còn tiếng Việt Nam thì lại dùng “máng” là “máng” đựng thức ăn cho gia súc như cái “máng” dùng cho heo ăn. 凡匕之屬皆从匕 phàm tỷ chi thuộc giai tùng tỷ. 卑履切 ty lý thiết (ty lý = âm “tí-tỉ”) => “匕tỷ” có sau, nên được giải thích rõ là còn gọi là “mứ/ máng”.
Mộc bộ 木部 柶 Tỷ (mứ, máng) si4 《禮lễ》有柶 hữu tư. 柶 tứ (mứ), 匕也 tỉ dã。从木四聲 (tùng “mộc” “ tứ” thanh ) âm cổ là theo mộc , với “tứ” thanh, tức là “mứ” hay “máng”, cái “máng” đựng thức ăn, cái “máng” hay cái “mứ” hay cái “tỷ”, cái “kỷ” lại là dùng để đựng thức ăn trong dịp lễ 禮。息利切 tức lị = tỷ (利 đọc là “lị”, chỉ đến khi có vua tên Lê Lị thì kỵ húy nên lị mới đổi đọc thành lợi). 从木四聲 Tùng mộc tứ thanh: mộc + tứ là “柶 mứ”/ máng là “chữ Nôm” có trước, âm “tỷ” có sau.
Ví dụ chữ “gần 近” ở Triều Châu đọc là “gìn/ kìn 近”, ở Phiên Ngung đọc là “khạnh/ cạnh近”, ở Bắc Kinh đọc là “Jín 近”, và thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “cận 近” ; chữ “tiệm 店” ở Triều Châu đọc là “tiẹm 店”, ở Quảng Châu đọc là “tiêm 店”, ở Bắc Kinh đọc là “tién 店”, thời nhà Đường nhiều nơi lại đọc là “điếm 店”. Gần-gìn, khạnh/cạnh với “jín” cũng chính là “gìn”, cùng với “tiệm” “tiêm” “tiẹm” “tiién”... Xin nhấn mạnh là riêng ở bên “tiếng Hoa” thì đã chứng minh và công nhận rằng tiếng Quảng Đông và Triều Châu là có trước tiếng Hoa-Bắc Kinh mấy ngàn năm. Như vậy cũng có nghĩa là chữ “gần/ cạnh” có trước chữ “cận hay jín” và “tiệm/ tiêm” có trước “tién” hay “điếm” của “Hán –Việt” vậy.
Chữ Nôm hay giọng Việt có âm “Nôm” là có trước Hán-Việt và có trước chữ Hán-Hoa.
Có thể kể ra thật nhiều trường hợp nữa nhưng tôi tạm dừng ở đây, vì muốn nói cho cùng, phải làm một công trình quy mô khảo cứu và dịch toàn bộ sách Thuyết văn. Nhưng để chứng minh chữ Nôm của người Việt có trước chữ Hán của người Hoa thì có lẽ cũng là đủ.
Thứ chữ mà tôi gọi là chữ Nôm thì nhiều người gọi là chữ Việt cổ. Không sao, chỉ là cách gọi. Một câu hỏi đặt ra: chữ Nôm có từ khi nào? Khảo cổ học cho thấy, 9000 năm trước, tại Giả Hồ, ký tự được khắc trên mai rùa và 12000 năm trước, tại di chỉ Bán Pha 2 vùng Tây An có văn bản của người Việt khắc trên bình trà, hình tượng gần với chữ đời Thương. Như vậy, muộn nhất, cách nay 12000 năm, nghĩa là 7500 trước khi người Hoa ra đời, người Việt đã có chữ, được gọi là chữ Việt cổ. Tôi cũng như người Triều Châu, Việt Đông gọi đó là chữ Nôm, với nghĩa tiếng nói và chữ viết của người phương Nam. Như vậy, người Hoa Hạ đã dùng chữ Nôm của người Việt cổ phương Nam chế ra chữ Hán. Quá trình chuyển tiếp còn được ghi nhận vào đời Hán qua sách Thuyết văn. Với thời gian, trong thực tế sử dụng, chữ bị biến âm tới mức khác hẳn với cuốn từ điển gốc 2000 năm trước. Trong khi đó, dù bị xâm lược, bành trướng và đồng hóa, các dòng người Việt vẫn âm thầm giữ chữ viết của tổ tiên mình, đó là hệ thống chữ Nôm, như một phản ứng chống sự đồng hóa và bảo tồn văn hóa của tộc Việt. Do mất đất đai và lịch sử nên người Việt không hiểu cội nguồn chữ viết của tổ tiên. Lớp hậu sinh khi thấy bên chữ Hán, chữ Quốc ngữ lại có chữ Nôm tá âm dựa vào chữ Hán nên trách lầm cha ông nhiêu khê, sao không dùng quách chữ Hán cho rồi lại sinh ra thứ chữ khó đọc khó học là chữ Nôm cho con cháu vất vả!
Khi tìm ra cội nguồn chữ Nôm, ta càng hiểu sức sống mãnh liệt của tộc Việt, càng cảm thông và kính phục cha ông mất bao trí tuệ và công sức bảo tồn cho chúng ta chữ của tổ tiên.” **
Ở một bài khác, gửi cho tôi, học giả Đỗ Thành viết:
“ Tôi có đọc qua tài liệu giảng dạy Từ Tứ Thanh tiếng Hán đến tám thanh Hán Việt: “Nếu gạt bỏ những trường hợp không đủ nhiều thì có thể nói rằng quy luật diễn biến từ hệ thống tứ thanh của tiếng Hán trung cổ đến hệ thống thanh điệu Hán-Việt như sau… “Qua bảng tổng kết trên, điều đầu tiên mà chúng ta nhận thấy là hệ thống tứ thanh tiếng Hán đã nhân đôi số lượng, chuyển thành hệ thống tám thanh trong cách đọc Hán -Việt. Sự nhân đôi này là một sự nhân đôi căn cứ về mặt âm vực.” (Nguyễn Tài Cẩn. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. H., 2000, trang 305–307.) Những kiến thức như trên đang được giảng dạy trong trường Đại học là hoàn toàn sai! Tứ thanh của Mandarin - Hoa ngữ - tiếng Bắc Kinh chưa ra đời khi Nổ - Nhỉ - ha - xít đánh đông dẹp tây. Chỉ đến khi người Mãn chiếm toàn cõi Trung Quốc rồi học tiếng địa phương của vùng đất mới chiếm được và đọc bằng giọng lơ lớ của dân Mãn thì mới sinh ra tiếng Bắc Kinh ngày nay. Vì vậy mà Tây phương mới gọi đây là tiếng “Mãn - đại” / Man - da = Mandarin! Một ngôn ngữ mới có tuổi mấy trăm năm thì làm sao sinh ra hay ảnh hưởng được ngôn ngữ “Hán - Việt” đã có trước thời Đường trung cổ? Một đứa nhỏ mới dứt sữa mẹ làm sao sinh ra được tổ tiên của nó?!”
*
Từ khảo cứu rất thuyết phục của nhà nghiên cứu Đỗ Thành, ta thấy, cách đọc Hán - Việt là biến thái của cách đọc tiếng Việt từ xa xưa, còn thịnh hành ở thời Tần - Hán và được định hình trong sách Thuyết văn của Hứa Thận. Sau thời Đường, do Trung Quốc bị nhiều tộc người phương Bắc xâm lấn và thống trị, đã lái cách đọc theo ngôn ngữ phương Bắc nên ngày càng xa gốc Việt. Kết quả là cách đọc hôm nay không phù hợp với cách phát âm được ghi trong cuốn tự điển chữ Hán đầu tiên, 2000 năm trước.
Từ xa xưa, người Việt cho rằng “Việt - Hoa đồng chủng đồng văn,” có nghĩa là Hoa - Việt bình đẳng về chủng tộc và văn hóa. Không chỉ gần hơn với sự thật lịch sử, quan niệm như vậy còn mang tính hòa mục, nhân ái. Trong khi đó, dưới chiêu bài “khoa học”, “khai hóa”, các học giả Maspéro, Karlgren… chủ trương: Tiếng Việt mượn tới 70% từ Hán ngữ! Một lý thuyết sai lầm, ngược với sự thực lịch sử. Vào những năm 40 thế kỷ XX, một số học giả như Nguyễn Văn Tố, Trần Trọng Kim… đã đưa thuyết này vào các công trình khảo cứu. Bằng những nghiên cứu của mình, giáo sư Nguyễn Tài Cẩn góp phần củng cố và truyền bá quan niệm “dĩ Hoa vi trung” của học giả thời thực dân, tiếp tay cho vụ xả độc làm ô nhiễm văn hóa mà rồi đây dân tộc phải bỏ không ít công sức tẩy rửa!
Tháng 8 năm 2011
Tài liệu:
* Hàm Châu. GS Nguyễn Tài Cẩn - Người soi rọi ngọn nguồn tiếng Việt. Báo Dân trí
** Xin đọc thêm nhannamphi.com