Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

VỀ BÀI THƠ CỦA VUA LÊ THÁNH TÔNG (TRAO ĐỔI CÙNG ÔNG NGUYỄN CHÍNH VIỄN)

Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Chính Viễn
Thứ tư ngày 13 tháng 7 năm 2011 2:44 PM
 
  A. Bài thơ của Lê Thánh Tông (1442 - 1497), khắc vào vách núi Truyền Đăng (nay là núi Bài Thơ- TP Hạ Long), có giá trị văn học, văn hoá.
   Do thời gian, nhiều chữ trên đá đã bị xâm thực. Ông Nguyễn Chính Viễn (Uông Bí, Quảng Ninh) có bài đăng trên trannhuong.com,  đã thuật lại quá trình khôi phục lại văn bản (căn cứ vào các bản ghi trước đây và ý kiến của một số nhà Hán học). Những người nhiều công lao phải kể đến: GS Huệ Chi, nhà thơ Trần Nhuận Minh, các ông: Mai Hải, Nguyễn Duyên Niên, Hào Minh, Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Thanh Dân (ông Thanh Dân đã từng trèo lên rờ từng nét chữ và ghi lại để tra cứu). Đã có một số bản dịch nghĩa, dịch thơ.
   Ví dụ, với hai câu 3 & 4, ông Nguyễn Chính Viễn viết: Rất may mắn hai câu này chữ còn nguyên vẹn không bị bào mòn. Cả hai ông Hào Minh và Nguyễn Thanh Dân rờ lại từng nét chữ đối chiếu với bản của cụ Nguyễn Duyên Niên đều thống nhất câu chữ như sau : “Tráng tâm sơ cảm hàm tam củ/ Tín thủ dao để tốn nhị quyền”.   
   Một số nhà Hán Nôm dịch hai câu này, nhiều ý đều khác hẳn nhau:
1 - Nhà giáo Nguyễn Thanh Dân dịch nghĩa là : “ Trong lòng xúc động mạnh mẽ gọi nhanh ba hồi trống/ Thuận tay đề thơ tả sự khiêm nhường ( của người năm hai quyền).
2- Ông Hào Minh dịch thơ là : “ Vừa nghe trống dục lòng thôi thúc/ Tay vung quyền kiếm gió thần bay”.
3- GS Nguyễn Huệ Chi dịch nghĩa là : “Có tráng trí nhưng lúc mới cảm thông vẫn phải theo người/ Như quẻ hàm hào cửu tam/ Nay một tay mặc sức tung hoành từ xa, quyền uy như thần gió”.
4- Ông Mai Hải dịch thơ : “Có chí xưa đành theo kẻ khác/ Vung tay nay tóm cả quyền chung”…
* HAI CÂU 5, 6; về chữa Hán có chữ viết khác nhau nhưng âm Hán Nôm đọc giống nhau, không có gì cần bàn (?).
   Ông Nguyễn Chính Viễn lại cung cấp cho bạn đọc một bản dịch trọn vẹn của Vũ Anh Tuấn:
   Trăm dòng biển biếc, sóng triều dâng/ Thăm thẳm trời xanh, núi trập trùng/ Trống dục, canh ba vang chí lớn/ Tầm xa quyền mạnh vững đôi đường/ Tinh binh , dũng tướng quanh thành Bắc/ Khói lụi, tàn chinh chốn biển Đông/ Vạn thuở Trời Nam sông núi vững/ Xây văn, gìn võ nước non hùng.
               
B. Cảm ơn trannhuong.com đã đăng bài của ông Nguyễn Chính Viễn, có cả số điện thoại của tác giả. Được truyền từ nhiệt huyết từ ông Nguyễn Chính Viễn, tôi đã hỏi thêm ông một số chữ phiên âm sai (lỗi vi tính), lại nhờ ông cung cấp cho bản chụp chữ Hán. Nhân đó, tôi lướt qua các trang WEB khác, tìm hiểu thêm về bài thơ ở núi Bài Thơ, thấy nhiều bản dịch xa nguyên tác đến cả... vạn dặm. 
   Từ đó, xin trình bày một góc độ, một quan niệm khác.
   Hai câu đầu, hai câu cuối, các câu 5 & 6 đều có chỗ cần bàn thêm, nhưng then chốt là hai câu thực: 3 và 4. Mà trọng yếu là hai chữ “nhị quyền”.
   Bài thơ do Lê Thánh Tông làm năm 1468. Đây là một bài thơ vịnh sử, như thời Trần, Trương Hán Siêu (? -  1354) viết Bạch Đằng Giang phú, Lý Tử Tấn (1378 - 1457) viết Xương Giang phú. Bài thơ này, Lê Thánh Tông viết gì? Vua viết về những trận thắng Nguyên Mông thời Trần. Vua Lê Thánh Tông cũng như nhiều người khác, đến Hạ Long, không ai quên, trận Hưng Đạo Đại Vương trực tiếp chỉ huy, đánh giặc ở Vạn Kiếp (1285), Thoát Hoan phải chui ống đồng về Bắc; tướng Trần Khánh Dư chỉ huy thắng giặc ở Vân Đồn (1287), Hưng Đạo Đại Vương trực tiếp chỉ huy, thắng giặc trên sông Bạch Đằng (1288). Là một vị vua, nên Lê Thánh Tông luôn nhớ đến các vị vua thời ấy: Thượng hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, trong sử thường ghi là hai vua. Hai vua đều cương quyết chống giặc, nhưng cũng có lúc phải tạm lánh, khi thì về Thuỷ Chú (Quảng Ninh), khi lại vào Thanh Hoá.
   Từ đó, suy ra, câu 3: ba trống (tam củ) là tiếng trống thúc quân đánh giặc, câu 4: tín thủ là các tướng được tin cậy, Trần Quốc Tuấn… ; chữ quyền (bộ mộc), chỉ quyền bính, “nhị quyền”: chỉ hai vua ; tốn (bộ kỷ) là lánh, nhường (Từ điển Hán Việt Đào Duy Anh có giải thích: tốn hoang là lánh đến nơi hoang dã); dao đề: vua nâng dắt trận chiến từ xa… Câu 5: nơi cung điện, nơi then chốt, quân ta (lữ) nhiều mãnh hổ (Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão… ), từng có những trận đánh quyết định quanh cung điện, những trận ở Hàm Tử,Tây Kết…); câu 6: biển Đông, khi có giặc trăm núi đốt lửa, tức (bộ tâm) làm tiêu hao, làm tan hết sương mù (yên) - bầy lang sói…
    Dịch nghĩa, thấy ý câu cuối hợp với thời điểm lúc viết mà không hợp với bây giờ. Các câu khác rất hào mại, thể hiện lòng tự hào dân tộc. Vua Lê Thánh Tông là Đô nguyên suý Tao đàn Nhị thập bát tú, một Tao đàn lừng lẫy thời ấy. Duy Phi tôi mạnh dạn đóng góp một bản dịch thơ nữa, chỉ cốt phong phú thêm các bản dịch. Nếu có câu chữ chưa đạt, xin được chỉ bảo.

           HẢI ĐÔNG CẢM HOÀI
         Cự lãng uông uông triều bách xuyên
Quần sơn cơ bố bích liên thiên
Tráng tâm sơ cảm hàm tam củ
Tín thủ dao đề tốn nhị quyền
Thần Bắc khu cơ sâm hổ lữ
Hải Đông phong toại tức lang yên
Thiên nam vạn cổ hà sơn tại
Chính thị tu văn yển vũ niên.
Dịch thơ:
BIỂN ĐÔNG CẢM NGHĨ 
Triều tự trăm dòng, sóng nhặt khoan
Đảo liền mây biếc, thế ai dàn?
Thúc dồn ba trống tâm hùng dội
Đưa lánh nhị quyền, trận sấm ran
Cung Bắc, chốt then đông hổ mạnh
Biển Đông đốt lửa, lũ sài tan
Trời Nam sông núi bền muôn thuở
Gìn võ, lúc này lo chính văn.
                     DUY PHI dịch

Ý kiến chúng tôi :
Kính gửi : Ông Duy Phi .                                                                                               
Qua sự trao đổi của ông  về bài thơ Lê Thánh Tông, của Ông Vũ Anh Tuấn mà tôi thực hiện được Trannhuong.com đăng tải, ông có đưa ra một số suy nghĩ và quan điểm của ông trong việc dịch ngữ nghĩa của bài thơ, trong suy nghĩ và tâm trạng chúng tôi rất cảm kích, cho đây là những đóng góp rất quý giá để bạn đọc có thêm sự hiểu biết về bài thơ. Để rộng đường trao đổi bàn thảo hơn nữa,  tôi và ông Vũ Anh Tuấn xin cung cấp tới ông một số bản dịch (thơ) mà chúng tôi có : (Riêng về câu 3 chữ “hàm” tôi đã trao đổi với ông Vũ Anh Tuấn là ông Duy Phi có nói chữ “hàm” bên trái là bộ khẩu các sách thường đọc là “ hám”, ông Tuấn có nói rằng đã dịch theo “âm” do vậy “hám” nghe phát âm nó từ tựa với “hàm” nên không có gì”phải lo” Ông ạ!)
1 – Ông Hoàng Xuân Hãn dịch :
Trăm sông chầu xuống bể Đông
Đảo bày ngan ngát, bể lồng trời xanh
Chí hăng thoát muốn tuần chinh
Để giao biên trấn ban hành lệnh công.
Quân hùng dàn dọc thuyền rồng
Khói lang bặt dấu, Hải Đông an nhàn.
Trời Nam còn mãi giang san
Hãy nên xếp võ trương văn năm này.

2 – Ông Mai Hải dịch
Trăm song triều hội biển mênh mông
Xanh biếc trời xa biển trập trùng
Có chí, xưa đành theo kẻ khác
Vung tay, nay tóm cả quyền chung
Quân hùng tề chỉnh quanh hoàng đế
Khói báo loạn ly tắt Hải Đông
Muôn thuở trời Nam sông núi vững
Chính thời văn trị dẹp binh nhung.

3 – Ông Trần Nhuận Minh dịch :
Nhận  nước trăm sông, sóng cuộn đầy
Núi bày cờ thế, biếc liền mây
Xưa theo người khác , luôn bền chí
Giờ đã tung hoành một chớp tay
Đế chủ điệp trùng quân hổ mạnh
Hải Đông đã tắt khói lang bay
Trời Nam muôn thuở non sông vững
Yển vũ tu văn dựng nước này.

Xin trân trọng gửi tới ông và bạn đọc
Vũ Anh Tuấn và Nguyễn Chính Viễn