Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

VỀ MỘT NỀN VĂN HỌC - NGHỆ THUẬT MÀ TA MONG MUỐN

Hoàng Quốc Hải
Thứ tư ngày 13 tháng 1 năm 2021 9:09 AM



Nhà văn Hoàng Quốc Hải: “Cái đầu tiên nghệ sĩ cần là tự do sáng tạo chứ  không phải tiền" | Tạp chí Sông Lam | Nhân vật & Đối thoại

Một nền VHNT mà ta mong muốn, theo đó những tác phẩm nghệ thuật từ Văn chương, Hội họa, Điêu khắc, Sân khấu, Thi ca, v. v… đều hướng con người vươn tới cái đích nhân văn, cao thượng. Nhưng trước hết, nó phải đạt tiêu chí nghệ thuật, chứ không thể là những hình tượng tầm thường, song lại cài vào đó những lời thuyết giáo mông lung. Xét cho cùng, thời nào cũng vậy, ở phương trời nào cũng vậy; Đông hay Tây thì mọi giá trị nghệ thuật đều chung một chân lý. Nghĩa là nó ( nghệ thuật ) phải đem lại trước hết là mỹ cảm cho người thưởng thức, để nuôi dưỡng cảm hứng cho họ tiếp tục khám phá tác phẩm. Từ đó tác phẩm giúp người đọc soi chiếu lại bản thân mình, để tự mình thấy ngượng, thấy hổ thẹn mà loại bỏ phần thấp hèn mà từ trước mình không ý thức được. Sau đó kích thích người đọc phấn đấu vươn tới cái cao cả.

Tác phẩm văn học không phải là loại sách dậy về đạo đức, không cầm tay chỉ việc như sách giáo khoa. Nhưng qua các hình tượng nghệ thuật, nó kích thích sự liên tưởng khiến người đọc từ bỏ cái mù tối vô minh, để vươn tới cái sáng sủa minh triết. Vậy là tác phẩm văn học - nghệ thuật đích thực hàm tàng tính tư tưởng và cả tính đạo đức.

Mong mỏi có những tác phẩm văn học - nghệ thuật như trên, là khát vọng thường hằng của công chúng. Đương nhiên, giới nghệ sĩ cũng nuôi hoài bão làm ra tác phẩm để đời, nhằm đáp ứng nhu cầu của công chúng yêu nghệ thuật.Tuy nhiên, giữa mong muốn và thực tế là một trời cách biệt.

Những tác phẩm lớn thường được sáng tạo bởi các tài năng lớn, tư tưởng lớn, nhân cách lớn – Những người dám dấn thân, gan góc vượt lên tất cả, bỏ qua những thứ danh lợi tầm thường. Người xưa đánh giá rất cao những bậc tài đức phi thường này: ‘’ Thùy năng thế thượng vong danh lợi. Tiện thị nhân gian nhất hóa công “. Nghĩa là ở đời, người nào bỏ qua được vòng danh lợi. Thì người đó được xem như một đấnghóa công trong cõi nhân gian .

Nghệ sĩ thiên tài và những danh phẩm bất hủ do họ tạo ra là vô cùng quí hiếm. Tác phẩm văn chương bình thường với tác phẩm văn chương đỉnh cao, có thể ví như Kim cương với Sắt thép. Mỗi năm ngành công nghiệp luyện kim toàn thể giới có thể sản xuất ra cả tỉ tấn sắt thép. Nhưng ngành khai thác kim loaị quí hiếm, khai thác được bao nhiêu tấn rubi, bao nhiêu kilo kim cương? Rõ ràng là tác phẩm nghệ thuật đích thực còn hiếm hơn cả kim cương, hiếm hơn cảlông rùa, sừng thỏ.

Lại xem mỗi năm, ngành Xuất bản nước ta in bao nhiêu đầu sách vừa mới được các nhà văn sáng tác. Thử hỏi, trong số sách ấy, và cả hàng loạt sách xuất bản những năm trước đó, có bao nhiêu tác phẩm còn đọng trong lòng người đọc, và đôi khi họ vẫn có nhu cầu tìm đọc lại?

Đã có một thống kê khoa học, khi một tác phẩm ra đời, nếu từ 3 đến 5 năm sau không được tái bản, tác phẩm đó coi như đã chết. Thật ra, nhiều tác phẩm có tuổi thọ vô cùng ngắn ngủi, nó bị khai tử ngay khi vừa mới được khai sinh.

Thế mới biết, không lãnh vực nào mà công chúng có sự đánh giá khắc nghiệt như lĩnh vực văn chương, nghệ thuật. Và cũng không lĩnh vực nào sự cạnh tranh lại khốc liệt như lĩnh vực văn chương, nghệ thuật. Và cũng chính trong lĩnh vực này, người nghệ sĩ dễ tổn thương nhất, dễ bất hạnh nhất. Tuy nhiên, cũng không lĩnh vực nào được đời tôn vinh một cách vô tư, chân thành và cao thượng như lĩnh vực văn chương, nghệ thuật. Thường những tác phẩm văn học và nghệ thuật một khi đã vươn tới đỉnh cao, tuổi thọ của nó dường như là vĩnh cửu.

Thử xem những loại danh tác bất hủ như Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du, Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Dữ, Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn,( bản dịch nôm của Đoàn Thị Điểm), Cung Oán Ngâm Khúc của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan v. v… ( Đó là chưa kể đến những kiệt tác thơ văn thời Lý – Trần ). Trong khoảng mấy trăm năm nay, giá trị các tác phẩm cổ điển này cứ ngày một khẳng định, công chúng vẫn tiếp tục tìm đọc. Đúng như nhà giáo dục, và trứ tác Phương đình Nguyễn Siêu đã đưa ra một một câu nói tựa như một danh ngôn bất hủ về định giá văn chương:’’ Văn chương có loại đáng thờ, có loại không đáng thờ. Loại đáng thờ là loại văn chương vì con người. Loại không đáng thờ là loại văn chương không vì con người. “ Thật ra trong văn chương, loại không đáng thờ, không chỉ nó không vì con người như cụ Nguyễn Siêu nói, mà suy cho cùng, nó còn làm hại con người, làm băng hoại đạo đức và nhân cách, phá hoại nền tảng nhân văn của xã hội. Và sức lan tỏa của loại văn chương độc hại này đôi khi còn tăng trưởng tới cấp số nhân. Vì vậy phải có cơ chế mềm ( loại trừ khả năng cấm đoán ) để ngăn ngừa những tác phẩm loại này, bao hàm cả những tác phẩm trong nước và tác phẩm dịch của nước ngoài.

Về giá trị các tác phẩm đỉnh cao,không chỉ riêng với nước ta, mà trên thế giới cũng vậy,

nó luôn thuộc loại quí, hiếm.

Từ khi thành lập Hội đồng LLPBVH-NT tới nay, tôi nhận thấy Hội đồng luôn trăn trở để tìm ra các giải pháp khả dĩ giúp cho nền VH-NT nước nhà phát triển đúng hướng, và có chất lượng nghệ thuật cao , nhằm góp phần xây dựng một nền VHNT lành mạnh, theo đó giá trị đạo đức, nhân cách con người được đặt đúng vị trí.Hơn nữa, một nền văn chương lành mạnh, sẽ góp phần đắc lực cho văn hóa đọc, lôi cuốn mọi người vào sinh hoạt lành mạnh, từ đó nó thẩm thấu vào nhận thức, từ nhận thức chuyển qua hành động. Ngược lại, nếu một nền văn học, nghệ thuật không lành mạnh cũng gây tác hại ghê gớm, nó làm băng hoại đạo đức, làm tổn thương lòng trắc ẩn của con người vốn là hướng thiện.

Điều nguy hiểm là những cái xấu xa, giả dối kia không hiển thị cho mọi người nhìn thấy như ta nhìn vào bảng sắp mầu , mà nó lẩn trong các hình tượng. Và nếu như người viết có ngụy tài, lại chủ tâm lừa mị, thì người đọc bình thường rất khó nhận ra. Và nó cuốn ta đi, như ma đưa lối quỉ dẫn đường, tới lúc bình tĩnh nhìn lại thì đã quá muộn.

Vậy tình hình văn học & nghệ thuật của nước ta hiện nay có hiện tượng loạn chuẩn, tức là hỗn loạn giá trị không? Tôi không có thẩm quyền nhìn nhận và đánh giá các ngành nghệ thuật khác, mà chỉ xin điểm xuyết vài nét trong lĩnh vực văn chương.

Trước hết phải khẳng định, nền văn học ở nước ta đang dần trở lại theo khuynh hướng lành mạnh hóa. Đó là dòng chủ lưu. Đương nhiên, vẫn còn những tác phẩm vô bổ, cả những tác phẩm có yếu tố gây hại.

Nhìn vào thành tựu văn học những năm gần đây, và một số trong đội ngũ các nhà văn Việt Nam hiện nay, ( không chỉ riêng các nhà văn là hội viên Hội Nhà văn VN ) cho ta quyền hy vọng. Một loạt các tác giả sinh vào các thập niên 70 – 80 của thế kỷ 20, đang viết rất sung sức. Có một điều hết sức đáng mừng là trong lịch sử phát triển văn chương ở nước ta từ đầu thế kỷ 20 lại đây, chưa bao giờ đội ngũ những người viết tiểu thuyết lịch sử lại đông đảo như hiện nay.

Nhìn lại nửa đầu thế kỷ 20, vào thập niên 30 – 40 đội ngũ các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử cũng nở rộ như: Nguyễn Trọng Thuật; Đào Trinh Nhất; Nguyễn Triệu Luật; Trúc Khê Ngô Văn Triện; Ngô Tất Tố; Khái Hưng; Lan Khai; Nguyễn Huy Tưởng…Trong đêm trường tăm tối của chủ nghĩa thực dân Pháp, những tác giả này bằng các tác phẩm lịch sử đã khuấy động lòng yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân; đặc biệt đánh thức một số trí thức đang ngủ mê. Nguyễn Huy Tưởng đã có phát biểu nổi tiếng được ghi lại trong nhật ký của ông: ‘’ Người không hiểu lịch sử nước mình, tựa như một con trâu đi cày, nó cày với bất cứ ông chủ nào, trên bất cứ thửa ruộng nào cũng thế thôi.’’

Nếu so với các bậc tiền bối, thì hiện nay đội ngũ các nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử đang nở rộ và cũng đang độ chín. Hàng loạt các tác phẩm đến với bạn đọc trong vài chục năm nay cứ tiếp nối dài dài. Điều đáng ghi nhận là nửa đầu thế kỷ 20, các nhà văn lớp trước, gọi là viết về lịch sử, nhưng các tác giả mới chỉ điểm qua chút síu Lý – Trần, tác phẩm gọi là tiểu thuyết đúng nghĩa chẳng được là bao, mà cũng chỉ thoáng qua vài ba nhân vật lịch sử. Phần nhiều các tác giả khai thác vào thời Lê, Nguyễn. Nhưng tới nửa cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, thì quy mô tiểu thuyết đã bao quát tới 4 thế kỷ và xuyên suốt hai thời dại Lý – Trần. Sang đầu thế kỷ 21, các tác giả lấp đầy các khoảng trống, suốt từ đầu thiên niên kỷ với cuộc khởi nghĩa giành độc lập của Hai Bà Trưng, tiếp đến Lý Nam đế, Phùng Hưng, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Quang Trung, Gia Long… rồi tuôt về nhà nước của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đúng là mùa gặt hái tiểu thuyết lịch sử chưa từng thấy.

Cái đáng quí, là với hàng loạt các tác phẩm tiểu thuyết lịch sử như vừa kể, đã chứng minh hùng hồn rằng, không có chuyện Một ngàn năm Bắc thuộc như bọn thống trị phương Bắc từng huyênh hoang ngộ nhận, hoặc lũ người Việt Nam mất gốc, hoặc đám học giả bồi bút thừa nhận.

Những tiểu thuyết viết về các sự kiện từ 1945, nhiều người cho rằng nó chưa đủ độ lùi thời gian, nên dè dặt không công nhận đó là tiểu thuyết lịch sử. Xin thưa, các sự việc của ngày hôm qua, đối với hôm nay đã trở thành lịch sử. Vả lại, Lev Tolstoi viết Chiến tranh & Hòa bình, độ lùi thời gian mới chỉ hơn 50 năm, nhưng cả thế giới đều công nhận đó là tiểu thuyết lịch sử bất hủ. Thậm chí, có người còn cho đó ( Chiến tranh & Hòa bình ) mới thực là lịch sử.

Vậy từ 1945 tới nay đã tròn 75 năm, không còn gì phải bàn cãi nữa. Ta có thể tham khảo thêm, giới khoa học lịch sử và khảo cổ học thế giới đã nhất trí từ lâu rằng, những gì đã đủ 100 năm, đều có thể gọi là cổ vật hoặc cổ sử.

Hãy khoan bàn đến chuyện chất lượng của từng tác phẩm văn học viết về lịch sử. Và lý giải tại sao lại có hiện tượng nhiều nhà văn quay về đề tài lịch sử. Điều này chắc chắn có nguyên nhân xã hội rất sâu sắc. Nhưng hãy tạm chưa bàn tới việc này. Chỉ biết: viết tiểu thuyết lịch sử là điều hoàn toàn không dễ. Và sự cố gắng giải mã lịch sử bằng văn chương, dù dưới hình thức dã sử hay chính sử đều rất đáng trân trọng. Trừ những kẻ cố tình xuyên tạc lịch sử, nhất thiết phải lên án. Và những người ít am hiểu lịch sử, kiến thức văn hóa lép xẹp, năm chắp ba nối kiểu hóng hớt nghe lỏm, nhưng cứ hấp tấp phóng bút viết bừa, gây rối loạn nhận thức cho công chúng; sự nguy hại của loại văn chương này cũng không nhỏ. Cần phải nhận diện và đưa nó ra ngoài đường biên.

Trên đây là xác định về nội hàm các giá trị văn học, nghệ thuật trong không gian hiện hữu. Phải thừa nhận nền văn học của chúng ta đang chuyển mình một cách khó nhọc, nếu không nói là đau đớn trong nhiều chục năm qua. Và nó đang hướng tới mục tiêu đích thực của văn chương !

Hà Nội ngày 1 / 12 /2020

H Q H

( Tham luận tham gia Hội thảo khoa học của Hội đồng LLVH& NT TW )