Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

LÃNG THANH" "GƯƠNG MẶT EM PHI NHƯ DIÊN CUỒNG"

Trần Mạnh Hảo
Thứ tư ngày 27 tháng 7 năm 2011 8:52 PM

Sau khi thi sỹ Lãng Thanh bất ngờ bị một tên nghiện vào nhà đâm chết, tập thơ “HOA” anh đã được nhóm bạn Chí Tâm cho xuất bản, nhiều nhà thơ và phê bình đã viết bài bình luận. Lãng Thanh trở thành một hiện tượng văn học 2003, được hàng chục tờ báo và tạp chí giới thiệu. Nhân dịp 9 năm ngày anh ra đi, nhóm bạn Chí Tâm và Ngôi nhà nghệ thuật tổ chức chương trình thơ và tưởng niệm về anh, xin trân trọng gửi đến bạn đọc một bài viết đầy sức vang động lúc đó của nhà tho Trần Mạnh Hảo đăng trên báo tiền phong chủ nhật số 20-7-2003.

     Xin cám ơn nhà văn Đỗ Viết Nghiệm, trong một dịp tình cờ, đã cho tôi tập thơ “HOA” của tác giả Lãng Thanh, NXB Thanh Niên 2003. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ 71 trang khổ 20,5 x 17,5 cm này trong niềm hứng khởi hiếm có. Lãng Thanh, tiếng sóng thơ ném ra cuộc đời này một dồn nén vỗ, một bùng vỡ kêu thương, quằn quại mà dịu dàng, nhức buốt mà thương mến. Tiếng sóng ấy vừa vọt lên từ bến thẳm thi ca đã mất hút vào hư vô, chỉ để lại chút dư âm gió hú. Lãng Thanh tên thật là Lê Quốc Tuấn, sinh năm 1977 tại Hiền Quan, Tam Nông, Phú Thọ, mất ngày 20.07.2002 trong một tai nạn bi thảm: hai cha con anh đã đều bị tên bà con nghiện ma túy (con cô con cậu ruột) giết chết ngay trong chính nhà mình. Mới 25 tuổi đời đã hóa mây bay, Lãng Thanh có hai bằng đại học, làm ngành ngân hàng ở Vĩnh Phúc, biết thành thạo 3 ngoại ngữ: Anh, Pháp, Trung Quốc, có tài năng trong các lĩnh vực: hội họa, thư pháp và thơ ca. Xin nghiêng mình thắp cho em một nén nhang, và xin mượn câu thơ rất hay sau đây của Lãng Thanh làm tên cho đầu bài viết mọn này. Chừng như nỗi chết đã ám thơ Lãng Thanh bằng chính tình yêu: Em đến cứu chuộc anh bằng một điềm gở? Xin dẫn đoạn IV trong bài thơ “Thơ trước tuổi 21”; tôi xin phép hương hồn tác giả, đặt cho đoạn thơ này một cái tên: “EM”, có thể đứng một mình, sống như một bài thơ hay hoàn chỉnh với 3 khổ:
Em đến bàng hoàng như cơn sốt
Bỗng môi tôi bất lực
Nụ hôn ơi ngươi khóa cả linh hồn
Em đến bất ngờ như dao sắc
Không đùa tựa những vết thương
Bởi gai hoa lặng chán chường
Em đến vùng vằng như tơ rối
Tìm nhau xa đến không ngờ
Trói anh rồi em lại làm ngơ
Em đến lao đao như lá rụng
Ngày xanh là nghĩa thế nào
Về bên anh khi đã chết rồi sao
Bài thơ “EM” trên là một nghẹn ngào, đọc xong chợt thấy mình bị neo vào tiếng sóng Lãng Thanh, toan đập nát mạn thuyền định mệnh mà hỏi: sao cứ phải yêu như là chết thế này hỡi tạo hóa, hỡi thi nhân? Bài thơ đi theo logic “EM”. Em từ đâu hiện về một cái đẹp môi hôn, hớp hồn. Khổ đầu EM tặng hạnh phúc, khổ thứ hai EM biếu vết thương, khổ thứ ba EM dâng lòi tói, khổ cuối cùng EM ban cái chết! Thế là EM đã lôi thi sĩ về chốn mù tăm, dù hú gọi, tuyệt nhiên không chút hồi âm. Khổ cuối cùng “Em đến lao đao như lá rụng / Ngày xanh là nghĩa thế nào / Về bên anh khi đã chết rồi sao” như là thơ của người chết hiện hồn về viết, xúc động đến mức làm ta sờ sợ, hoang mang. Đúng như Lãng Thanh vừa nói, kẻ viết bài này nay mới được “Về bên anh khi đã chết rồi sao”.
Tôi đang ngắm nhành “HOA” Lãng Thanh trong niềm hân hoan và nỗi buồn thương, khi sắp tháng bảy, là ngày giỗ đầu anh. Lãng Thanh từng viết nhiều câu thơ hay về “nàng” - người đàn bà định mệnh - bằng những lời yêu dấu:  “Đôi mắt nàng trong như mới khóc”. Thơ anh vẽ chính hồn mình thành “EM”: “Gương mặt của em nặng như nước / Mắt em đong đầy hoa cúc tím” (Hàng cơm chay). Tôi yêu những câu thơ vừa hiện đại vừa cổ điển của Lãng Thanh viết về nàng 21 tuổi. Thi sĩ van nài nàng đừng thêm một giọt đẹp nào vào ly đời nữa, sợ ly tràn nước, trôi dạt mất tình yêu: “Hai mươi mốt tuổi, em vừa đủ để xòe que diêm ra ngoài bóng tối / Nếu ly nước tràn em sẽ trôi dạt / Da em trắng như lụa bạch, đôi mắt màu mực nho / Em đến chiều nao cong như nguyệt” (Từ chiếc vỏ ốc biển đến thị trường chứng khoán). Chao ôi “Em vừa đủ để xòe que diêm ra ngoài bóng tối” chừng như có đủ các yếu tố siêu thực, tượng trưng, hậu hiện đại... nhưng chẳng có chút dấu ấn nào của các trường phái kia dính vào câu thơ; nó là Lãng Thanh, là EM vừa xòe lửa thành diêm hay DIÊM vừa xòe em thành lửa, hay chính bóng tối xẹt lửa trời thi sĩ? Que diêm thơ Lãng Thanh quẹt ngang bầu trời một tia chớp, rồi mất hút vào bóng tối, theo giọt nước tình yêu tràn ly số phận, đổ rồi không hốt lại được. Và em cong như nguyệt ơi, da trắng lụa bạch, mắt mực nho ơi, ly nước trời đã tràn, cuốn hết tâm hồn Lãng Thanh vào hố thẳm, để chúng ta qua mặt phẳng trang giấy “HOA”, còn có dịp ngó thấy chiều sâu vô bờ bến của chiếc ly không đáy vũ trụ đựng mối tình diêm sinh... Lãng Thanh chừng như mượn cây cọ hoang tưởng, phiêu lãng của Salvador Dali để vẽ nên gương mặt vĩnh cửu của người-đàn-bà-tình-yêu đang “phi” nước đại, mang anh về cõi khôn cùng: “Khuôn mặt em phi như điên cuồng”. Gương mặt em - con ngựa siêu thực phi qua cuộc tình, hay cuộc tình hư ảo được phi bằng chính gương mặt hiện thực em? Câu thơ lạ đến mức tôi phải ngừng đọc, để chiêm ngưỡng vẻ mặt đẹp vượt qua mọi kích thước, đang vút đi mười ngựa không kéo lại nổi, tung hết vó điên - cuồng - em. Lãng Thanh tả mắt người đàn bà anh yêu cực lạ, đôi mắt như đôi cá con bơi trong hồ tình, có thể chìm nghỉm trên cạn, lặn ngụp tung tăng trong trò chơi trai gái: “Đôi mắt em vừa ngoi lên sau một hơi ngụp lặn dưới hồ”. Xin một giọt mực đêm rơi xuống vết khỏa thân của chiếc áo dài trắng, cho gương mặt em đang “phi” hơn mọi loài ngựa trên đời, mở ra thế giới “NỤ” lời tỏ tình “HOA”: “Đêm xuống như một giọt mực rơi / Chiếc áo dài trắng em đang mặc đính nhiều dấu vết khỏa thân... / ...Mặt hồ cứng đờ như giấy báo cũ nhăn nheo / Những con sóng nở nang, vuông góc / Tôi chia tay em để chấm dứt một mưu đồ “ (Mùa thu).
Lãng Thanh chia tay em để về chết với mùa thu: “Lá thu! Như lãng quên hiện về đỏ sẫm”. Thơ phải chăng cũng chính là những “lãng quên hiện về đỏ sẫm”? Phải yêu mùa thu lắm, thương cảm với những gì bị lãng quên lắm, nhà thơ mới viết được câu thơ như máu khắc vào thu. Mùa thu trần trụi của thơ anh khác với thơ xưa thường thưởng thu theo kiểu đài các. Thu Lãng Thanh là thu của đời thường, hoa cỏ toát mồ hôi, thu của chân lấm tay bùn ủ trong bụi, phân và đất: “Nhạc reo xa thoáng lạnh từng chân tóc / Cỏ thu xa vuốt ve đôi mắt đẹp / Chiều có thể nghiêng, mưa có thể buông, đá có thể khóc... /... Nhổ khóm hoa vàng để mà được vục vào với bụi, với phân, với đất / Gió ợ mùi chua, tình đã dậy men, đất hình như mặn / Bông hoa thả chân trong bình cổ / Một chiếc lá đỏ mặt, một chiếc lá lên gân” (Mùa thu). Anh không chỉ yêu mùa thu mà còn mê mùa hạ, nên đã nhìn thấy mùa hạ chết để linh hồn lại trong lá sen tàn, rực cháy thành bông hoa thu: “Lá sen tàn là hoa nở đầu thu”. Tản Đà xưa cuối hạ, chỉ nhìn thấy lá sen chết héo mà thương: “Lá sen tàn tạ trong đầm”. Nay Lãng Thanh nhìn lá sen chết hóa vàng phục sinh, thành bông hoa thẫm đỏ. Tưởng lá sen chết mà lại sống, tưởng tàn tạ mà lá lại hoá son tươi, nồng nàn một kiếp hoa khác. Đó chính là cái nhìn xuyên qua mọi sự chết, phủ nhận mọi tàn úa, biến tắt lịm thành lóe sáng, biến cái hữu hạn thành vô hạn của Lãng Thanh. Nhà thơ là con thiêu thân của cái đẹp, cái hằng sống. Anh như cánh kiến hoa vàng mê mẩn giữa xanh xao, yếu đuối, trần trọi cuộc đời: “Cánh kiến cánh mỏng như vàng quỳ / Đẹp và xanh xao, xanh xao vì đẹp, yếu đuối vì đẹp, trần trọi vì đẹp”. Anh còn biết đưa cái nhìn xuyên qua bụng cá: “Cá quẫy trong bụng cá, cá chết trong bụng cá, cá đẹp trong bụng cá” để tìm kiếm đường bơi cho thi ca không chỉ trên mặt giấy.
Lãng Thanh yêu quê mình đắm đuối. Anh càng yêu hơn nét thiên nhiên cô quạnh, thương cái hoang vỡ đời này bằng những câu thơ chen lẫn hội họa và điêu khắc: “Tôi đã yêu những mảnh trăng nằm lạnh đáy sông / Yêu ánh xà cừ cựa mình trên giấy điệp / Những lăng tẩm ngả nghiêng đền đài hoang vỡ / Mảnh gương đồng soi nửa mặt người; gốc gỗ lũa nham nhở kỳ dị / Bức tranh cổ rã bong tàn tạ, vài mảnh ghép ngây ngô / Và chiếc lông chim rơi chậm hơn những giọt mưa thánh thót” (Những mảnh vỡ). Anh mượn cánh cò trắng làm chiếc dao, bổ đôi bầu trời như bổ một trái cam tặng cha mẹ, ông bà: “Cánh cò trắng muốt cắt đôi bầu trời / Bầu trời bên trái che xuống mộ ông bà / Bầu trời bên phải kéo cha mẹ trở về ruộng đất quê tôi” ( Những mảnh vỡ). Tôi yêu cái cách “chạy vùng vằng” của Lãng Thanh trên đồng đất trung du, một lối chạy rất mới, chân như vừa chạy vừa đôi co, cãi vã, làm lành với đất: “Tôi chạy vùng vằng quanh cánh đồng nứt nẻ quê tôi / Rón qua những con mương đục như bát đất / Những ô cửa méo xệch như sắp rơi” (Những mảnh vỡ). Chao ôi là “Những ô cửa méo xệch” của quê hương thực sự đã rơi vào thơ Lãng Thanh, đặng nhờ người đọc chở che, an ủi, nâng đỡ. “Những ô cửa méo xệch” vì bị gió bấc quất hay bị thời gian phụ tình, bị chính ngôi nhà bỏ rơi? Tôi đã từng nhìn thấy bao nhiêu ô cửa trên mặt người méo xệch đớn đau, mà sao chỉ đến khi đọc những câu thơ này của Lãng Thanh, mới biết thi ca ít khi sống sau những cửa sổ đầy đặn. Tình yêu quê hương trong thơ Lãng Thanh không hề dễ dãi, yêu đến nghẹn cả lòng, thắt cả ruột, yêu mà như khóc khi anh viết về tuổi thơ mình và tuổi thơ của những đứa con anh (giả tưởng) sắp được ra đời từ một mối tình gai góc: “Có thể bây giờ nhưng cũng rất xa xưa / nhiều đứa trẻ mồ côi / -những đứa trẻ hồn nhiên - vừa ĐẸP vừa ĐÓI” (Thơ trước tuổi 21). Lãng Thanh ơi, anh từng là một “đứa trẻ hồn nhiên vừa ĐẸP vừa ĐÓI”, nay lại muốn kết nạp thêm những người yêu thơ anh vào hội này nữa sao?
Chúng ta đến thế giới để tìm cái ĐẸP hay để lấp đầy cơn ĐÓI - vực thẳm không đáy loài người luôn ngó xuống hoài nghi bản thân mình? Chúng ta đổ đầy cả thế giới vào dạ dày mà không hết đói: đói trí tuệ, đói tâm hồn, đói nhau, đói cơn đói kẻ khác, đói thiên đường và địa ngục. Và hãy xem nhà thơ, kẻ chết đói tình yêu viết về cơn đói khát được xẻ chia sự bất hạnh của kẻ khác, dù kẻ đó xa lạ như nắng, như mây, như khói: ”Nhà có người con gái đi mãi không về / Cửa gỗ nhỏ không mọc răng mà day day rứt rứt / Nắng ngang chừng, mây tới quãng, khói vừa hương“ ( Mùa thu). Tôi chợt nghĩ, cứ đà này, nhất định thi ca rồi sẽ làm cho “Cửa gỗ nhỏ” hằng “ray ray rứt rứt” đợi chờ cô gái về, sẽ biết cách mọc răng? Thơ vì thế biết dừng lại ở chỗ “... mây tới quãng, khói vừa hương” để nhường lối cho người đọc vào thi tứ. Lãng Thanh từng bị ngòi bút mềm như gió quất roi, thậm chí bị hoa hồng đuổi đánh, phải chạy về nhà cầu cứu mẹ: ”Mẹ ơi! Ngòi bút của con mềm dịu như gió / Con phiêu lãng cùng non tận thủy / Nhưng những đóa hoa đánh con đau quá / Con trở về nhà băng vết máu đầy tay / Ngòi bút của con điên cuồng như gió“. Thơ như có giấu bùa ngải. Chữ nghĩa lồng lên cuồng dại như gương mặt hoa hồng phi “hỏa tiễn”, đuổi đánh tứa máu một hồn thơ. “Ngòi bút điên cuồng như gió”, “bông hoa đánh con đau quá” kia chừng như đã rước chàng thi sĩ về cõi khác không còn phải sợ hãi nỗi đớn đau? Lãng Thanh có thể đã bị giời xúi hay sao mà ưa viết những câu thơ tiên tri về sự ra đi vĩnh cửu của mình, những câu thơ bị đâm bằng nước mắt của bút điên, chữ cuồng: ”Buổi sớm mai trở dậy tim con mọc ở đằng Đông / Nét cuồng thảo vọt như máu, ngưng như lệ... /... Điên cuồng chữ bay, điên cuồng chữ bay, điên cuồng chữ bay”.
Người xưa bảo “thi trung hữu quỷ” quả không ngoa. Khi Lãng Thanh viết những câu thơ này “Sông chảy dài như oan hồn”, hay “Phất phơ thu già lúa nghẹn đòng / Cắt ruột cho lòng thiếp xanh“ hoặc “-Tấm ơi! Chị mò cua tay mọc đầy hoa, chị là yêu tinh / Quả thị dựng tóc. Ay dà, miệng nhỏ xinh xinh“... thì quả là thơ anh có con ma... rình trong chữ nghĩa thật. Lãng Thanh còn nhiều câu thơ hay khác, nằm cô đơn giữa các trang giấy, ví dụ như: ”Nước mắt hung dữ như một viên đạn bắn trượt”, “Hai mặt người lăn tròn vào nhau như hai bánh răng”, “Lá rơi vì gió sao lá rơi vào giếng”, “Ngôi nhà lạnh toát như một thứ vũ khí / Đi trên đường như bước giữa hai họng súng”, “Sốt râm ran như tiếng hát tương tư “, “Thõng đôi tay khô chết như nhân sâm“, “Mẹ đang choàng chiếc khăn mười sáu tuổi“... Thơ Lãng Thanh vừa lạ, vừa hay. Có thể nói, “Hoa” là một tập thơ hay trên tổng thể. Tuy nhiên, nó vẫn còn những câu kém, một số bài trung bình, thậm chí dở. Cái phần tinh túy của tập di cảo thơ này chính là sự vượt lên của Lãng Thanh so với một số bạn thơ trẻ cùng lứa khác. Dù vài ba nhà thơ trẻ nào đó được một số đàn anh cực đoan cho là hiện đại, được “lăng xê” với những mục đích khác nhau, thậm chí đôi khi với những dụng ý ngoài văn học, thì họ vẫn rất khó “đứng” một mình, đi đâu cũng phải vịn vào cây gậy “thổi phồng” kia. Thực ra, thơ họ có thể lạ, thậm chí xin bái phục vì họ đã học được phép đuổi sạch trơn sự hiểu và cảm xúc ra ngoài thơ; nhưng phần hồn của thơ là truyền cảm, là hay thì vài ba quý vị tân thời kia chừng như chưa đạt tới.
Khi một nhóm thơ trẻ - cách tân nào đó đang khủng hoảng, tắc tị, đưa thơ vào chốn sơn cùng thủy tận, thậm chí tục tĩu, thì may mắn thay, Lãng Thanh đột ngột từ cõi chết hiện về, tặng chúng ta một bó “HOA” thơ đích thực. Khi sống, Lãng Thanh gần như vô danh, như anh viết về mình rất “gở”: “Lặng lẽ đi đến một ngôi mộ cũ - cô đơn / Không có tình yêu, không danh vọng”. Sau khi anh chết, nhóm thơ Chí Tâm bạn bè đã đưa một phần di cảo thơ anh đến với NXB Thanh Niên; biến anh thành người của công chúng. Thơ anh hiện đại mà cổ điển, lạ mà dễ hiểu, hài hòa CẢM và NHẬN, ví như trong bài thơ “Mắt mẹ rợn da trời” tả bà mẹ ngồi nhìn đứa con vừa chết: ”Ánh mắt người mẹ nhìn con / Sừng sững và cổ thụ / Ánh mắt trải rộng một niềm thương da diết đến mức bầu trời có thể mọc lông tơ như mênh mông một tấm da người“. Lãng Thanh ơi, cảm ơn anh đã trải lên cao xanh đầu tôi “mênh mông một tấm da người” là bầu trời hài nhi đang lấm tấm mọc lông tơ! Đấy là món quà quý giá nhất anh trối lại, tặng những người yêu thơ anh, như một thông điệp: hãy ngó xuống trang thơ để tìm cách ngước lên bầu trời.

Thành phố Hồ Chí Minh 15-6-2003
(Bài đã đăng báo tiền phong tháng 7 năm 2003)