Tham luận tại hội thảo thơ mai văn Phấn & Đồng Đức Bốn
Hải Phòng là một vùng đất dễ sản sinh ra những tài năng dị biệt trong lĩnh vực Thơ. Từ thập niên 60 của thế kỷ trước, ngỡ như lớp nhà thơ chống Mỹ sinh ra, lớn lên tại đây (tôi không tính những nhà thơ vãng lai như Hoàng Hưng, Nguyễn Khắc Phục,Vân Long…) thường xuất phát và quy tụ trong bóng rợp của thơ Văn Cao, tiêu biểu là trường ca Những ngưởi trên cửa biển của ông. Thơ ông thể hiện một hiện thực khoáng đạt, ít lệ thuộc vào những khuôn khổ, ước lệ của Thơ Mới ( câu thơ lô xô gần với lời nói thường một cách gợi cảm và giầu hình tượng). Xuất phát trên cái nền hiện thực khoáng đạt ấy, thơ Hải phòng có vẻ phóng túng hơn, công nghiệp hơn, gân guốc hơn các tỉnh bạn. Từ thập niên 70, 80, 90 một số nhà thơ có bản lĩnh đã mài sắc cá tính sáng tạo của mình, dần thoát khỏi bóng rợp ban đầu, tạo một chỗ đứng riêng ngày càng tách xa nhau, để có những Thi Hoàng, Thanh Tùng, Dư Thị Hoàn, Mai Văn Phấn, Đồng Đức Bốn…
Mai Văn Phấn là một trường hợp thật riêng khác mà phải qua một quá trình dài ta mới nhận ra, bởi anh luôn không chịu ổn định một phong cách nào, luôn tự phá vỡ thế đứng ngỡ như tạm ổn định để bước sang một giai đoạn thể nghiệm mới. Ngay từ những bước đi đầu tiên, bên cạnh cách diễn đạt trong sáng, thơ anh đã có màu sắc siêu hình: Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho hơi thở mọc vô vàn cỏ non/… Một thời phờ phạc thiên di/ Tìm trong bóng nước thấy gì nữa đâu/ Mảng đêm đập cánh đi mau/ Giọt sương trong mát trên đầu hư không…(trang 14, 19 Thơ Tuyển Mai Văn Phấn, trước 1995). Những bài thơ ngăn ngắn trên dưới chục câu, diễn đạt thật trong trẻo, dung dị, lãng mạn đã chiếm cảm tình người đọc ngay từ ngày ấy: Một chiều bạn không tới/ Chim gọi hoài trong cây/ Hồn lá rơi loạng choạng/ Thiếp đi trên đất này/ Mùa thu trên tay gày/ Nâng chén trà lẻ bạn/ Bóng mình trong bóng chén / Mà hồn ngoài chân mây (Bạn) Tinh tế và bảng lảng chất thơ Hà Nội: Cây lá ở Nghi Tàm /Thon những bàn tay Phật/Ta nhìn vào sương tan/ Thấy lòng mình trong vắt…Ai đang dẫn ta về ?Thành Thăng Long mây khói/Nền xưa và dấu xe…(Nghi Tàm) Kế thừa lục bát truyền thống, nhưng vẫn cách điệu từ ngắt nhịp, đảo nhịp đến tu từ, không thua gì những kiện tướng lục bát đương thời mà còn phả vào lục bát đôi nét kiêu sang lãng tử: Mưa cầm tiếng phách tiếng sênh/ Cho ta buông giữa chiều chênh lệch chiều…Hồn hoa ngủ giữa tay cầm/ Mắt người khóc tựa ướt đầm cánh ong (Mưa cuối hạ) Đó là Mai Văn Phấn trước 1995!
Một nhà thơ dễ bằng lòng với mình, sẽ kéo dài giai đoạn này có thể vẫn là một tên tuổi sáng giá. Nhưng Mai Văn Phấn, ngược với vẻ ngoài thư sinh, anh là người say mê leo núi, vượt biển không biết mỏi, mục tiêu luôn ở phía chân trời…
Xuất phát từ một tầm cao mỹ học, những bài thơ trong sáng trước 1995 không ngờ lại là thứ vàng bảo đảm cho thơ anh ở những giai đoạn thể nghiệm sau, khi thơ anh có những tìm tòi khúc mắc, khó hiểu. Nếu những khúc mắc khó hiểu ấy ở một cây bút mới xuất hiện, có lẽ bạn thơ và độc giả khỏi mất công tìm hiểu làm gì, họ sẽ lãnh đạm quay đi…Đến với thơ, họ mong thụ hưởng cái thú tiếp xúc với một ngôn ngữ bay bổng, có những mỹ từ, hoặc tâm trạng, hàm xúc ý tưởng và hình tượng…chứ không phải căng óc nghĩ xem tác giả định nói gì như đọc triết học…Thú thực là nhiều phen tôi phải cố đọc để hiểu với niềm tin ở thành công giai đoạn đầu của anh!
Nay có dịp đọc hệ thống Tuyển Thơ của anh, đã thấy thêm nhiều điều, nhất là đọc Mai Văn Phấn trả lời phỏng vấn của Lý Đợi:
- Sau khi đã băng qua những “sa mạc”, như Siêu thực, Tượng trưng, Biểu hiện, thơ Ngôn ngữ, Tân Hình thức, Hậu hiện đại, Cổ điển mới…,tôi thấy sao chúng ta không tự tìm lấy một khuynh hướng, mà phải lệ thuộc vào “thằng Tây” ? Những khuynh hướng ấy bên ngoài họ đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỷ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng túng, tranh cãi…Vậy “thong dong’ là cách tôi tìm về với cội nguồn thi ca, để cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên, tối giản, trong trẻo nhất.
Nếu Mai Văn Phấn nói ra câu này từ hai thập kỷ trước, tôi không tin, nhưng bây giờ, anh đã là người vượt qua “sa mạc” thì tôi tin và mừng cho anh, như tôi từng tin quan niệm thơ của nhà thơ Lê Đạt khi ông đã có bốn năm đi thực tế quan trọng nhất trong đời sáng tác của ông sau khi ông đã hoàn thành giai đoạn “30 tuổi 30 mươi con bò, ngu không số dư” trong cải tạo lao động. Giai đoạn đi thực tế quan trọng ấy là giai đoạn ông “được phép” thâm nhập thư viện, tự do dịch đủ các thứ tài liệu văn, triết, mỹ học, dân tộc học, cả…điều khiển học…để kiếm tiền nuôi gia đình. Trong đó, phần thưởng lớn nhất là ông được đọc, hầu như một mình (bởi mọi người đều bận công chuyện trong giai đoạn chiến tranh phá hoại của không lực Mỹ) kho sách của Hội Việt Kiều Pháp gửi về, hầu hết các sách của những năm 50 là những năm hoạt động sôi nổi nhất của giới trí thức Pháp, có tầm ảnh hưởng lớn đến diện mạo thế kỷ 20, những phong trào Thơ mới, Tiểu thuyết mới, Phê bình mới ra đời, rồi chủ nghĩa hiện sinh chưa kịp phai nhạt thì chủ nghĩa cấu trúc đã xuất hiện với luồng sinh khí mới…Tiếp nhận văn học nước ngoài như vậy, mà Lê Đạt vẫn luôn “khác” ngay cả với chính ông, trong từng giai đoạn. Mai Văn Phấn thì lao vào thực nghiệm trên cơ sở nắm chắc ngoại ngữ và bạn bè ngoài nước để có nguồn tư liệu phong phú không giới hạn, nhất là cập nhật với thế giới hiện đại. Lại được in ấn trong điều kiện được khuyến khích đổi mới, cách tân. Rõ ràng anh nhiều thuận lợi hơn lớp nhà thơ trí thức tiền chiến, như Lê Đạt.
Mai Văn Phấn gợi tôi nhớ đến một họa sĩ người Việt, vì hoàn cảnh riêng sinh sống ở Roma, đã đoạt giải nhất hội họa của tổ chức UNESCO. Ông này đã trả lời phỏng vấn của tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn, 1967): Hội họa Việt Nam phải bộc lộ được bản sắc riêng, góp một tiếng nói với nghệ thuật thế giới, dù là một tiếng nói nhỏ bé, nhưng là tiếng nói của riêng mình, không lai căng Tàu hay Tây. Tôi cảm thấy hãnh diện là mình đã không mất rễ, và sau 15 năm đụng chạm trực tiếp với phương Tây, tôi nhờ sức phản ứng mà phá tung được mọi xiềng xích nô lệ do sự lệ thuộc vào lối nhìn nhận sự vật, ảnh hưởng của hội họa Trung Quốc và Tây Phương thời kỳ bị đô hộ. Chính là nhờ ở lòng ham muốn tự do và ở cái chí quật cường của dân tộc, tôi mới tìm được một lối giải thoát cho nghệ thuật của tôi.” Phạm Tăng là sinh viên cũ trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, người tìm ra nhịp điệu của vũ trụ và thể hiện thành bức tranh được giải thưởng trên…
Trở lại với Mai Văn Phấn, tôi đọc chùm thơ gần đây của anh để xem ý định của anh đã thực hiện đến đâu. Quả là một số bài anh đã tìm lại được cội nguồn thi ca, cảm xúc trôi chảy tự nhiên và trong trẻo như Giai điệu xuân, Cốm hương…: …Trong hơi ấm nồng nàn
Hạt nắng chảy vào em
Mùa nước về rạng rỡ
…………….
Chim bồ câu ra ràng
Sương đêm côn trùng tỉnh dậy
Lũ nấm rơm mở mắt
Trùm lên non nớt xanh (Giai điệu xuân)
Với Cốm Hương cũng vậy, sự trong trẻo non tươi không đơn tuyến, không trôi chảy tự nhiên một cách dễ dãi:
Thu về e ấp
Cốm non lãng đãng sương giăng
Khăn áo ấy mịn màng da thịt
Dâng heo may lên trời
Nhịp cốm giã rộn mùa thóc nếp
Thúng mủng dần sàng vỏ trấu hây hây
Trái bưởi thơm dịu nắng hanh
Thanh khiết chùm hoa mộc
Giữa đất trời ngó sen sau mưa
Da diết nhớ từng vòng cuộn xiết
Lá sen xanh ủ cốm em anh
Chín nẫu chân mây mùa hạ
Đêm ái ân lặng phắc ngọn đèn
Trái hồng đượm trong hương cốm nõn.
Cả cái tứ thơ ảo, siêu thực như Con chào mào cũng mang tầm triết học mang tính thẩm mỹ ở một đẳng cấp cao hơn, không thách thức người đọc lý giải như Vẫn trấn tĩnh tiễn khách ra ngõ và Không thể tin (là hai bài đầu thập niên 2000-2010).
Mai Văn Phấn như con kình ngư dư sức, con đại bàng khát tầm bay không giới hạn. Những suy tư, tưởng tượng của anh phải ở nhũng tầm trời “không mái che”, nên anh hay viết những bài thơ dài, với đề tài trừu tượng. Thiên nhiên và Tình yêu là hai miền vọng tưởng lớn của thơ anh, chúng đan cài bổ trợ cho nhau với muôn dáng vẻ. Đó dường như là những tùy bút bằng thơ, tuy phong phú ý tưởng và hình ảnh, nhưng chúng gắn kết với nhau khá lỏng lẻo, hoặc cách xa nhau, khiến người đọc mệt óc xem anh muốn nói điều gì ở từng chương…tuy về câu chữ, tu từ của anh vẫn trong sáng dễ hiểu.
Trong thời đại có thể…”rót biển vào chai”, một đề tài có cái tên giản đơn như Hình đám cỏ mà viết được dài như thế thì thật đáng nể! Phong phú ý tưởng quá ư, hay phức tạp một điều đơn giản?
Nhưng nếu ta rời bỏ lối mòn tư duy tuyến tính, ta sẽ được thâm nhập một thiên nhiên kỳ ảo, cùng lúc oà vào ta mọi sắc màu, mùi vị …cụ thể từ một con cá động dục loé sáng mặt nước đến một một cảm nhận khái quát không cầm nắm, nhận dạng được như hơi thở ban mai trong Hình đám cỏ . Tôi may mắn được tham dự thể hiện những tác phẩm giao hưởng cổ điển lần đầu trên sân khấu nước ta, nên mau chóng gạt qua bên, thói quen thẩm định những bài thơ có chủ đề, ruổi theo tứ thơ định sẵn…Từ bản nhạc không lời, Beethoven còn thể hiện được cuộc đấu tranh giữa con người với số phận với tiếng trống thúc quyết liệt, với những dàn kèn, dàn giây đan xen, hô ứng, nổi chìm…(Giao hưởng số 5, giao hưởng Định mệnh) huống chi những hình tượng thơ diễn đạt bằng câu chữ trong sáng (nhưng vẫn bắc “cầu vượt “, đan chéo qua nhau) như thơ Mai Văn Phấn. Tôi thích cách gọi của Đỗ Minh Tuấn: thi pháp đám mây bay để nói sự chập chờn, biến ảo của thi pháp Mai Văn Phấn…
Thiên nhiên trong Hình đám cỏ là một thiên nhiên tinh khôi và hoang dã như tự thuở hồng hoang, nơi:
Hừng đông sinh muông thú, cây trái, tiếng động
Hoa lồng đèn, hoa dạ thảo tươi ròng
(Nhịp III)
Sự sống sơ khai như cùng lúc bung nở khắp nơi:
Con thú giật tung dây trói
Nghiền không gian thành sữa thơm dưỡng chất
Bầu vú cương lên căng mọng
Nuôi nấng trẻ thơ trên khắp thế gian
Trong đó, tình yêu của con người được miêu tả, nhục dục một cách thánh thiện: Lùa cơ thể vào nhau
Ném từng thanh củi lửa
Em và anh cùng phát sáng bóng tối
Làn tóc, bờ vai vòm ngực
Lưỡi xoắn lại trong cơn hủy diệt
(Nhịp V)
Trường ca Người cùng thời tránh được những nhược điểm miên man và lan man, bởi tính biên niên và khái quát một giai đoạn lịch sử dân tộc, có những điều trải nghiệm chung để có thể gợi cho độc giả cùng suy ngẫm với mình, về nỗi đau, về điều nhân ái. Viết về người nông dân, anh vận dụng ca dao: “Đời cua cua máy…” đã đành/ Mà đời cáy cũng loanh quanh hết chiều! Chương Đằm thắm mặt người có những câu thơ thấm đẫm tình cảm vợ chồng, cha con, vừa khái quát niềm vui thân thương của truyền thống gia đình: Bên nhau bịn rịn trăng cười/ Tóc em xanh mát một thời xa nhau/ Thoáng đâu vại nước hoa cau/ Nơi cha mẹ đã tin nhau một đời…
……Con đang khai hoa đậu quả/ Ngự trên ngực mẹ ngực cha? /Cây bám vững vào mặt đất/ Rễ sâu cành lá la đà.
Đằm thắm mặt người gần xa/ Cho con hiện thân da thịt/ Ra đi từ muôn năm trước/ Bàn chân mới tới bây giờ.
Về hành trình qua “sa mạc” của Mai Văn Phấn, tôi có điều muốn lạm bàn, xuất phát ngay từ trải nghiệm Mai Văn Phấn tự đúc rút:
Thơ Việt trong ba thập kỷ “làm thơ và đánh giặc”, nhìn chung, chúng ta chưa có trải nghiệm những bài thơ thuộc các khuynh hướng Tượng trưng, Biểu hiện, thơ Ngôn ngữ, Tân hình thức, Hậu hiện đại…vv, nếu có, cũng là sự giao thoa, không rõ nét giữa khuynh hướng này hay khuynh hướng kia. Vả lại những điều kiện xã hội, văn hoá để sản sinh ra chúng, hiện nay chúng ta khác họ, và thế giới thì đã vượt qua. Không nhất thiết cách tân, hiện đại hoá thơ, chúng ta cứ phải trải qua từng bước theo họ. Như chính Mai Văn Phấn đã đúc rút: Những khuynh hướng ấy bên ngoài họ đã xếp vào viện bảo tàng từ thế kỷ trước, trong khi chúng ta vẫn lúng túng tranh cãi…Mai Văn Phấn có định hướng mới sáng suốt là cách tìm về nguồn cội thi ca, để cảm xủc trôi chẩy tự nhiên, tìm ra cách nói hồn nhiên, tối giản, trong trẻo nhất. Nhưng, như người học võ thuật, có thể học tinh hoa của các phái võ để rút ra một chiêu riêng (chưa có tên) cho mình, nếu hiệu quả thì vô chiêu thắng hữu chiêu. Khi ấy, những nhà nghiên cứu võ thuật sẽ phải đặt tên cho chiêu thức mới.
Ý cuối cùng, tôi chưa nói, hẳn các bạn đã thấy: từ Đổi Mới đến nay, cũng có nghĩa từ trước đến nay: Chưa từng có một hội thảo Thơ nào tập trung đậm đặc chất xám của các nhà học thuật, nghiên cứu về thơ và các nhà thơ không những trong nước, mà cả ngoài nước, như cuộc hội thảo của chúng ta hôm nay. Cũng là dễ hiểu bởi trước đây, giới thơ chưa có một Mai Văn Phấn với hành trình qua sa mạc quyết liệt bền bỉ như vậy để chúng ta có cơ sở sinh động mà bàn thảo.
Mai Văn Phấn và Đồng Đức Bốn có thể coi là hai hiện tượng thơ của cả nước, một thấm đẫm tâm hồn quê kiểng, một muốn với những ngôi sao trí tuệ trong sáng tạo thi ca…