Tôi muốn mượn những vần thơ trong bài thơ Sông Lấp của nhà thơ – tú tài Trần Tế Xương để bàn về sự đổi thay của làng quê Việt Nam nói chung và làng Phương Khê, quê tôi nói riêng:
“Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò”
Sự đổi thay của làng quê theo thời gian là quy luật tất yếu của vận động tự nhiên.Từ thiên nhiên đến sự vật, con người luôn luôn vận động theo vòng quay của thời gian một đi không trở lại. Bởi vậy mà khi người ta có tuổi, họ chợt giật mình mà nhớ về những quá khứ của tuổi thơ. Nơi ta sinh ra góc phố, đầu làng. Từ cậu bé thưở nào mới oe oe cất tiếng khóc chào đời nay đã trở thành những cử nhân, bác sỹ, kỹ sư…làm chức nọ, chức kia. Bỏ cái tổ ấm thưở nào ta được sinh ra, rồi trưởng thành, đủ lông đủ cánh mà bay đi khắp mọi phương trời nước Việt, trong Nam ngoài Bắc và cả năm châu, bốn biển.
Và rồi, họ lại nhớ về quê hương bản quán, nơi ấy cha ông họ, tổ tiên họ sinh cơ lập nghiệp, sinh ra ở đất ấy và ra đi cũng từ đất ấy. Bởi thế mà những năm gần đây, việc họp họ, xây dựng từ đường, nhà thờ họ, đình, chùa, cổng làng lại được con em của quê hương làm ăn ở xứ người quan tâm góp công, góp của để xây mới nâng cấp những công trình mang tính chất cộng đồng làng xã, họ tộc ấy. Vì vậy mà bộ mặt nông thôn, làng quê ở những thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI được đổi thay rõ rệt.
Làng tôi – thôn Phương Khê, một làng ven đồng bằng sông Hồng của nước Việt đã được học giả Nguyễn Hiến Lê kể lại rất tỉ mỉ trong cuốn Hồi kí của mình về những ấn tượng, những kỉ niệm tuổi thơ của ông đã sống ở thế kỉ XX đã qua. Nào là ngôi đình cổ có tấm hoành phi của cụ Đỗ Uẩn làm quan Phó sứ công đức vào đình làng hiện còn treo ở gian giữa ngôi đình, vì cụ là rể của làng. Cụ Đỗ Uẩn là anh rể ông nội của học giả Nguyễn Hiến Lê. Rồi chuyện về ông đồ Đặng Trần Thường lúc còn hàn vi, ông đã ngao du sơn thủy tới làng Phương Khê được cụ tổ đời thứ 5 của học giả họ Nguyễn làm tiệc rượu mời cụ Đặng, rồi xin cụ cắm hướng nhà cho. Cụ Đặng nhận lời và cắm hướng cho ngôi nhà thờ sau này. Theo như lời truyền thì: “Đống mối bên hông nhà thờ mà thầy phong thủy gọi là Kim tinh, phát về văn học”. Điều đó đúng hay sai không ai dám khẳng định, chỉ biết rằng cụ Nguyễn Hiến Lê, nhờ sự dạy dỗ của người cha, và bác Hai của mình về Hán học, để rồi từ một công chức ngành Thủy lợi, ông chuyển sang dạy học và viết văn. Ông đã sống và làm việc từ năm 1935 cho đến ngày cuối đời 1984, tại miền Nam nước Việt, nhưng tấm lòng không nguôi nhớ về đất Bắc. Trong hồi kí của ông có nhiều đoạn tả về quê hương, những địa danh như Ngã Ba Hạc ở Cổ Đô, bến đò Vân Sa, thăm Đền Hùng, những lần đi chơi chợ Dốc, chợ Mơ…Nơi ông đã từng đặt chân tới từ những ngày còn thơ ấu. Văn chỉ của làng thờ đức thánh Khổng Tử, nơi ông đã từng nằm đọc sách hóng mát những trưa hè tuổi thơ. Tất cả, tất cả đã mất dần theo thời gian, do tạo hóa và con người vô tình đã phá hủy. Để đến hôm nay, tôi về làng mê mải đi tìm những dấu tích thưở xưa còn sót lại ít nhiều. Cụ Lê đã mất từ lâu, phần mộ của cụ nằm ở chùa Phước Ân, miền Nam đất Việt, còn người cha của cụ nằm yên nghỉ tại nghĩa trang của làng Phương Khê từ những năm 1920 của thế kỉ trước, hai cha con mỗi người mỗi ngả, cha ở miền Bắc, con ở miền Nam, xa cách nghìn trùng. Bởi thế, mà cô cháu gái gọi cụ Lê là bác đã vượt qua hàng nghìn cây số từ Cần Thơ để về Bắc tìm lại quê hương, bản quán lúc tuổi đã xế chiều. Bà Nguyễn Thị Hạnh sinh năm 1946, con gái duy nhất của ông Nguyễn Hữu Hùng – em trai học giả Nguyễn Hiến Lê, còn ở Việt Nam. Vì con trai duy nhất của học giả Nguyễn Hiến Lê là ông Nguyễn Nhật Đức sống ở bên Pháp từ lâu chưa về. Thế mới biết quê hương là chùm khế ngọt…để cho những người xa xứ thổn thức không nguôi nhớ về đất Mẹ.
Làng tôi… không nổi tiếng như làng Cổ Đô, bởi Cổ Đô có tới hai ông Thượng Thư: Nguyễn Sư Mạnh và Nguyễn Bá Lân hay làng Mai Trai xã Vạn Thắng liền vách với làng tôi có Tham Tụng Lê Anh Tuấn làm quan dưới triều chúa Trịnh Cương, làng Phong Châu xã Phú Châu có hai ông Tiến sỹ Trần Thế Vinh và Phan Nhuệ. Tất cả các vị ấy đều có tên ở bia tiến sỹ Văn Miếu Quốc Tử Giám. Còn làng Phương Khê trải suốt các kỳ thi Hương, Hội, Đình của nhà nước phong kiến chỉ có hai cụ đỗ trung khoa, đó là cụ Phùng Đức Long đỗ Hương cống đời Lê, được kiệu võng vua ban kèm sắc phong (bổ nhiệm) làm quan Tri huyện huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ ngày nay, và ông nội của học giả Nguyễn Hiến Lê đỗ Tú tài, không thi tiếp mà ở nhà dạy học trong tổng Phú Xuyên phủ Quảng Oai tỉnh Sơn Tây (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội).
Các công trình văn hóa cổ như đình, chùa, miếu mạo của làng tôi cũng không đồ sộ như các làng khác bởi làng tôi ít dân (nay khoảng 2500 nhân khẩu), các nhà thờ họ cũng khiêm tốn bởi các dòng họ không có ai làm quan to. Hầu hết là huy động tiền của và công sức của người dân trong làng và con em xa quê đóng góp. Mấy năm vừa rồi, làng tôi đã dựng chùa mới,vì chùa cũ đã phá hủy từ lâu. Duy chỉ còn ngôi đình cổ và mấy nhà thờ họ là còn cho tới ngày nay. Các họ tộc đã đóng góp sửa sang, nâng cấp nhà thờ tổ, to đẹp hơn. Đường làng ngõ xóm xưa kia chỉ là đường đất thì nay nhân dân đóng góp đã được đổ bê tông sạch sẽ. Nhà cao tầng đua nhau mọc lên như nấm sau mưa,bộ mặt quê tôi thay đổi nhiều.
Làng tôi… có hai chiếc sân kho thời hợp tác xã rộng như sân Mỹ Đình – Hà Nội ngày nay, ở đó người ta thu lượm lúa má của cả xã về đó mà tuốt thành hạt,rồi hong phơi ,rồi cho vào kho dự trữ. Sau khoán 10, sân kho là nơi tụ họp các sinh hoạt cộng đồng làng xã. Những đêm xem hát chèo, cải lương của các đoàn nghệ thuật về biểu diễn, tôi rất mê giọng hát của các nghệ sỹ, diễn viên mỗi khi vào vai các nhân vật của vở diễn như: Thầy đồ và tên tướng cướp – một vở kịch đến giờ tôi vẫn còn nhớ…Tôi còn nhớ những ngày Quốc khánh của dân tộc, họ lại cho thịt những con trâu già thải loại không còn sức kéo phục vụ sản xuất. Cảnh đánh bắt cá ở ao cá Bác Hồ về xẻ thịt chia phần, những con cá nặng vài chục cân, chia cho nhiều hộ gia đình. Mỗi gia đình đều được chia phần mang về liên hoan. Ấn tượng nhất tuổi thơ tôi là được theo ông nội vào vườn cây các cụ, hái những quả vải chín to bằng cái chén hoa hồng thủa trước, cùi dày và mọng nước, ngon ngọt như vải tiến vua thủa xưa. Những đêm rằm Trung thu, cả xã có hơn chục chiếc kiệu hoa được các nghệ nhân nghiệp dư của làng kết bằng đèn hoa kỳ (loại đèn thắp bằng dầu hỏa, ngày nay vẫn còn một số gia đình sử dụng), được các anh chị đoàn viên lớp trên khiêng đi dạo vài vòng trên con đê sông Hồng mùa nước, soi bóng xuống mặt nước, ánh trăng hòa với ánh đèn hiện lên lung linh huyền ảo. Đám trẻ chúng tôi theo sau kiệu thành hai hàng mà hát vang bài hát: Ai yêu nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh…Rước đèn ông sao…Cho đến lúc trăng soi trên đỉnh đầu, lúc bấy giờ ban tổ chức chấm và công bố kết quả Kiệu nào đạt giải Nhất, Nhì, Ba…Chúng tôi cũng hồi hộp lắm, chờ xem kiệu của mình được chấm giải gì không, sau đó là cảnh rước kiệu tập kết về sân kho phá cỗ Trung Thu cùng chú Cuội và chị Hằng…
Làng tôi… còn có cả trại chăn nuôi lợn, trâu bò, lò gạch, lò ngói, lò lung vôi, lò thuốc lá từ những năm 1965 của thế kỷ XX, bởi xã tôi là một trong số những xã điển hình của miền Bắc lúc bấy giờ. Bà chủ tịch, sau này là Bí thư Đảng ủy xã, là cháu gái của họ chúng tôi nhiều lần được về thủ đô dự Đại hội Thi đua yêu nước toàn quốc. Năm 2005 người dân xã tôi cũng vui mừng phấn khởi được Chủ tịch nước trao tặng danh hiệu Anh hùng lực lựng vũ trang nhân dân thời kỳ chống Pháp.
Làng tôi …ngày nay đã đổi thay rất nhiều,những địa danh tôi vừa kể trên nay đã thay hình đổi dạng. Ao của trường học ngày xưa nay là chợ xã mọc lên với quán xá sầm uất, tấp nập kẻ mua người bán tứ xứ đổ về. Bến xe chạy về Hà Nội, Hà Đông ngày dăm ba chuyến…Tiếng còi xe rú báo khách làm huyên náo cả một làng quê vốn yên tĩnh bao năm. Trường Trung học cơ sở nay được xây dựng trên nền sân kho hợp tác xã thủa nào, nó đã xóa đi dấu vết một thời đã qua, giờ đây chỉ có những người thuộc lứa chúng tôi mới hình dung nổi. Trẻ em hôm nay không còn hình dung được trước đây nó sân phơi thóc lúa của cả xã.Giờ kể lại,nghe nó xa xôi như nghe chuyện cổ tích.
Tôi xa quê nhiều năm,mỗi khi nhớ quê kí ức tuổi thơ lại ùa về trong nỗi nhớ làng, nơi ấy tuổi thơ tôi gắn bó một phần đời.
Phùng Hoàng Anh
Hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội
MỘT SỐ HÌNH ẢNH LÀNG PHƯƠNG KHÊ, XÃ PHÚ PHƯƠNG, HUYỆN BA VÌ
Bức hoành phi do cụ Đỗ Uẩn cung tiến.
Bốn chữ: Nghiễn Thiên chi muội (Sánh với người em gái của Trời)