Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TRƯỜNG CA HÔM NAY VIẾT VỀ THỜI ĐÁNH MỸ

Nguyễn Thanh Tú
Thứ ba ngày 22 tháng 12 năm 2009 8:10 PM

  ( Bài đăng tạp chí Văn nghệ Quân đội số 705 đầu tháng và 27 cuối tháng 12- 2009)
 
Tôi gọi trường ca viết về đề tài chiến tranh cách mạng là trường ca sử thi để phân biệt với trường ca viết về các đề tài khác. Trên thực tế khái niệm trường ca vẫn chưa được hiểu thống nhất, ví dụ Gogol gọi tiểu thuyết Những linh hồn chết hay Xuân Diệu gọi những bài tản văn do chính ông viết cũng là trường ca. Ở Việt Nam hiện nay có xu hướng coi những tác phẩm thơ dài viết về đề tài chiến tranh cách mạng mới là trường ca. Nếu vậy thì vô tình đã hạn chế biên độ phản ánh của thể loại này, đồng nhất trường ca (poema) với anh hùng ca (epos). Trong khi đó nếu hiểu theo kiểu “chiết tự” trường ca là bài thơ dài thì căn cứ vào nội dung cảm hứng có trường ca sử thi ( Iliad và Odysse, Mahabharata…), trường ca châm biếm (Những đám mây mặc quần)…), trường ca giáo huấn( Gia huấn ca), trường ca bi ai (Ai tư vãn…)… Trường ca có thể có cốt truyện hoặc không(1) nhưng bao giờ cũng là một hình thức kết cấu theo kiểu một dàn hợp xướng nhiều bè, nhiều phức, đa giọng, kết cấu nhiều tầng bậc, trùng phức những lớp không gian, thời gian…
Theo sự nhận biết của tôi thì chưa bao giờ trường ca sử thi nở rộ như hôm nay. Bài viết này chỉ xin đưa ra một cái nhìn chung nhất về trường ca sử thi với cảm nhận cá nhân bước đầu.
Cảm hứng của trường ca sử thi luôn là niềm cảm hứng lịch sử, dân tộc, cộng đồng, cụ thể là cảm hứng về cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại thời chống Mỹ với chiến thắng oanh liệt, những mất mát tổn thất chi phối toàn bộ âm hưởng thế giới trường ca hôm nay. Điều dễ nhận thấy là các địa danh lịch sử được nhiều tác giả quan tâm, trong đó địa danh Trường Sơn xuất hiện ở hầu hết các thi phẩm. Có nhiều trường ca tập trung viết về hình tượng này là trường ca Trường Sơn của Nguyễn Anh Nông và Vạn lý Trường Sơn của Nguyễn Hữu Quý, Hành quân Trường Sơn của Nguyễn Minh Khang…Một điều dễ lý giải là Trường Sơn hùng vĩ gắn liền với cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai (Tố Hữu). Hầu hết những người lính thời chống Mỹ đều có kỷ niệm với Trường Sơn, đặc biệt là năm 2009 kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Binh đoàn Trường Sơn anh hùng gắn liền với huyền thoại Đường Hồ Chí Minh- nên cảm hứng về một thời đánh giặc hôm qua cộng hưởng với không khí đổi mới văn học, những thành tựu kinh tế- xã hội hôm nay… đã giúp các tác giả có những góc nhìn mới, những khám phá mới về hình tượng. Từ hình tượng mang tính chủ đạo này các nhà thơ đã đã giúp bạn đọc phần nào hình dung ra cả cuộc kháng chiến, dĩ nhiên âm hưởng bao trùm vẫn là anh hùng ca, tụng ca, hoan ca, nhưng bên cạnh đó còn có cả bi ca. Câu chuyện Hà Nội từ những này Toàn quốc kháng chiến năm 1946 đến chiến thắng lịch sử năm 1993(1975?) được Vương Trọng lấy làm điểm tựa viết nên Hà Nội của tôi thấm đẩm niềm tự hào cao cả. Địa danh Côn Đảo- “ địa ngục trần gian” vốn là nơi kẻ thù tàn sát, khủng bố những người cách mạng lại  trở thành nơi “ nhìn ra sức mạnh Việt Nam” để hôm nay nhà thơ Lê Thị Mây viết nên Tự khúc ánh sáng thật cảm động. Các địa danh nổi tiếng gắn liền với những chiến công thời chống Mỹ như Điện Hồng, Gò Nổi, Quảng Đà, Quảng Nam, sông Thu Bồn được tác giả Lê Anh Dũng viết lại lịch sử bằng thơ trong Dòng sông di sản. Có trường ca lấy cảm hứng từ một địa danh làng, qua đó khái quát nên sức mạnh chiều sâu văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam như như Âm vang Cự Nẫm của Trần Hải Sâm…Hình tượng thiên nhiên xuất hiện nhiều nhất là hình tượng dòng sông; chỉ tính riêng những tác phẩm lấy cảm hứng chủ đạo từ hình tượng này đã có: Nhật ký dòng sông( Nguyễn Trọng Bính), Con của phù sa (Ngọc Bái), Dòng sông di sản( Lê Anh Dũng)… Có thể lý giải thế này chăng, một là đặc điểm trường ca phù hợp với cấu trúc hình tượng, sông thường dài, có âm hưởng của sóng của gió…gợi những liên tưởng về sự kỳ vĩ, trường tồn. Hai là, văn hóa Việt Nam thuộc văn minh sông nước, hầu như ở nơi đâu trên đất nước này đều có những dòng sông, không chỉ chảy trong tự nhiên mà còn chảy cả trong tâm thức của mỗi con dân đất Việt…
Nhìn từ góc độ nhân vật dễ thấy hình tượng người mẹ hiện lên với tần số cao. Cố nhiên điều ấy cũng nói được phần nào giá trị tư tưởng, tinh thần nhân văn, lòng biết ơn…nhưng cái chính là ở tình cảm, tâm trạng, thái độ chân thành, ở cách diễn đạt cảm động của người viết. Nguyễn Hữu Quý trong trường ca Sinh ở cuối dòng sông có những câu thơ hay về mẹ: Cát đi mãi chẳng thành đường/ Tôi đi theo lối mẹ thường hát ru đến Vạn lý Trường Sơn với cách diễn đạt giản di hơn, hình tượng người cha, người mẹ hiện lên gần gũi mà thiêng liêng biết bao: Hạnh phúc là được giang rộng tay chân ngủ trên chiếc giường có giát tre cha chuốt óng thời gian và ăn bát gạo chiêm mẹ nấu cuối chiều bằng lửa bếp quê mùa. Một Ngôi nhà của mẹ(tên tập trường ca của Hoài Quang Phương), một hình ảnh  Bóng mẹ đổ dài theo đàn con ra trận ( Ru xanh áo lính- Tô Nhuần)…đều gợi lên ở người đọc những ấn tượngvề sự kỳ vĩ mà hết sức thân thương về  về người mẹ. Ở trên đời, còn ai lớn lao hơn Mẹ, vì: “ Chỉ mẹ mới cho ta hạnh phúc, chỉ mẹ mới có bầu trời cho cánh ta bay bổng, chỉ mẹ mới là dòng sông cho ta tắm mát cuộc đời, chỉ mẹ mới là nơi bình yên tin cậy, bão giông nào đều lòng mẹ chở che” ( Người làm ra cổ tích- Trần Nhương). Nếu người mẹ của Trần Nhương là người mẹ cụ thể thì người mẹ trong Đò trăng của Y Phương là người mẹ chung, người mẹ Việt Nam: Trên thế gian này đầy người/ Có ai đau khổ như mẹ tôi không/ Trước mặt là biển đông/ Sóng trào lên nước mắt… Trước năm 1975 trong trường ca của Thu Bồn, Nguyễn Khoa Điềm…là trường ca sử thi nguyên chất, nguyên khối; sau năm 1975 trong trường ca của Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu…chất sử thi có vơi nhạt đi chút ít để thay vào đó chất đời tư; đến trường ca hôm nay, vang cùng âm hưởng anh hùng ca là âm hưởng của bi ca tạo nên một hợp âm bi tráng khá đặc sắc mà trường ca trước năm 1975 không có. Chỉ đến hôm nay trường ca mới đủ độ lùi thời gian để nói đến những hy sinh mất mát mà chúng ta phải đánh đổi để giành độc lập tự do, mà trong chiến tranh người trực tiếp đón nhận những điều không mong muốn ấy là những người lính. Đặt vấn đề như vậy để chúng tôi đề cập hình tượng trung tâm của trường ca hôm nay: người lính. Hình tượng văn học này trước đây được miêu tả còn đơn giản thì nay được cải tạo, đổi mới cấu trúc bên trong để tạo ra sự phức tạp và đa chiều hơn nhiều. Trước năm 1975 người lính hiện lên với bút pháp lãng mạn bay bổng luôn tỏa hào quang chiến thắng, nay được miêu tả với bút pháp hiện thực tỉnh táo, nhân vật hiện ra thật hơn. Một hình ảnh người lính hành quân mệt mỏi rã rời trong Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái:
Chân trời
Vực thẳm
Ba lô sập mắt
Gió lặng hành quân.
Những ai đã từng là lính thời đánh Mỹ sẽ gặp lại kỷ niệm qua “ba lô sập mắt”. Anh bộ đội thời nay có lẽ còn nhiều kỉ niệm này: bộ đội đi hàng dọc qua đèo cao vực thẳm, mồ hôi túa ra, nhìn về phía trước chỉ thấy ba lô người đi trước sập vào mắt mình. Hay một số chi tiết đến độ ám ảnh: “ Hành quân/ Mắt người hấp hối/ Cơm sắn, canh rừng/Sống chết dửng dưng”, phải là một người trong cuộc từng trải nghiệm và từng chứng kiến những “ mắt người hấp hối” vì đói khát, vì phải chiến đấu triền miên, có khi cả tuần, cả tháng không được chợp mắt đến nỗi mi mắt bị căng cứng, mới có cách dùng từ “ đắt” như thế. Nguyễn Anh Nông trong trường ca Trường Sơn tái hiện bước hành quân khó nhọc của người lính qua câu thơ hai chữ nhiều thanh sắc với âm vực cao: Gió thốc/ Nắng xém/ Tóc cứng/ Miệng khát/ Họng rát/ Mắt chói/ Bụng đói… Và cái chết, có cách nói đến gai người, táo bạo nhưng có cơ sở: Nếu nấm mộ nối hàng thay cây cột số/ Đường Trường Sơn sẽ dài gấp bao lần( Mở bàn tay gặp núi- Nguyễn Đức Mậu)…Người ra trận thì như vậy còn người hậu phương cũng phải hy sinh, hy sinh hạnh phúc, tuổi trẻ cùng những khát khao của bản năng. Nhìn ở góc độ này Chiến tranh chín khúc tưởng niệm của Nguyễn Thái Sơn khai thác sâu vào miền tâm tưởng đầy day dứt âu lo khắc khoải và cũng đầy đam mê của những người phụ nữ: Những người đàn bà khao khát tình yêu/ da thịt có gai có lửa/ ong bay trong dạ/ kiến nhằn trong xương/ lan tỏa dạ hương/ rạo rực tê mê những vùng nhạy cảm/ cơ thể dao động run rẩy/ căng mặt trống / bỏng dây đàn/ gánh nước nửa đêm tưới đầm vườn nhãn/ xay vài thúng thóc/ giã nửa nong ngô…Chúng tôi cho rằng nói ra những điều ấy ở ngày nay là sự cần thiết, để thế hệ biết rằng cha anh họ đã phải trả giá tuổi trẻ, máu xương như vậy mới có ngày hòa bình yên ổn hôm nay, để họ suy ngẫm mà sống sao cho xứng đáng với lịch sử. Trên hành trình đổi mới của trường ca sau năm 1986 thì điểm thay đổi căn bản ở sự trả lại những gì vốn có của  cấu trúc hình tượng con người trong chiến tranh.
Với đặc điểm dung lượng lớn, dài về câu chữ, phong phú về chi tiết, sự kiện nên trường ca phải luôn tìm tòi tới những điểm tựa. Nếu điểm tựa trữ tình của trường ca sử thi là một câu chuyện, người viết sẽ men theo sườn cốt  truyện để thể hiện ý tưởng. Đó có thể là câu chuyện về lịch sử của một vùng đất ( Hà Nội của tôi- Vương Trọng), Dòng sông di sản- Lê Anh Dũng…), lịch sử của dân tộc( Đường tới mùa xuân- Lưu Xuân Tự…), có khi chỉ là câu chuyện của một người( Câu chuyện về người tù Cộng Sản- Tự khúc ánh sáng của Lê Thị Mây). Nguyên tắc lấy lịch sử làm nền để xây tòa tháp trường ca này không mới, dễ biến trường ca thành diễn ca lịch sử nếu tác giả không phải là người thợ tài hoa. Các nhà thơ rất ý thức được điều này nên ngoài cảm hứng về lịch sử đã chú ý khai thác các yếu tố văn hóa, hòa trộn chất liệu văn hóa với ý nghĩa lịch sử tạo ra một điểm tựa kép nâng đỡ thi phẩm. Đấy cũng là hai nguồn cảm hứng để tạo ra hai chủ đạo là âm hưởng tráng ca lịch sử hào hùng và âm hưởng trữ tình văn hóa dân gian sâu lắng da diết, bổ sung cho nhau, nâng đỡ nhau làm nên một sắc điệu riêng của trường ca hôm nay. Nổi lên như một niềm tự hào thiết tha trong trường ca hôm nay về văn hóa Việt Nam là việc xuất hiện dày đặc tên các địa danh đã đi vào lịch sử đánh Mỹ và thắng Mỹ của nhân dân ta. Tất nhiên địa danh chỉ là tên một vùng đất nào đó nhưng nhắc đến cái tên ấy là gợi nhớ đến một sự kiện lịch sử- đó là không còn là việc vô tình mà là một cách làm sống lại lịch sử, một cách ý thức về lịch sử. Điều này đã phần nào được chúng tôi nhắc đến ở trên và cũng không có gì đặc biệt, đáng chú ý hơn là sự xuất hiện các địa danh gắn liền với các truyền thuyết dân gian. Thực ra điều này cũng không mới, trong trường ca Mặt đường khát vọng( 1974) Nguyễn Khoa Điềm đã làm điều đó một cách xuất sắc. Khác chăng là ở Mặt đường khát vọng, điều ấy có ý nghĩa như một cách tự hào về lịch sử, còn trong trường ca hôm nay coi đó như một cách lý giải, cắt nghĩa lịch sử. Một cách lý giải bằng thơ: ngoài sự lãnh đạo của Đảng, của đường lối chiến tranh nhân dân, của ý chí, lòng quả cảm, sự thông minh… thì bề dày văn hoá cũng là một yếu tố quan trọng góp phần tạo nên sức mạnh vô địch Việt Nam. Người Việt Nam đánh giặc không chỉ bằng những gì có trong hiện tại mà có trong cả hôm qua, quá khứ tiếp sức cho hiện tại. Từ Vạm vỡ ngực trần Đam San/ Dịu dàng ánh mắt Hơ Nhí… gắn liền với Tây Nguyên hùng vĩ đến sự tích nàng Vọng Phu hóa đá  ở miền quê Lạng Sơn… là các biểu tượng về khát vọng chinh phục tự nhiên, khát vọng tự do…hay tình nghĩa vợ chồng, tình cảm anh em…đã được dân gian bất tử hóa, vĩnh cửu hóa để sống mãi trong tâm thức mỗi người dân xứ Việt. Bản thân truyền thuyết dân gian đã giàu chất thơ nên khi được đưa vào làm chất liệu nó càng phát huy giá trị, tăng cường thêm tính huyền thoại của trường ca.
Thế giới trường ca hôm nay thật đa dạng, phong phú về cách biểu hiện. Có tác phẩm viết theo thể lục bát truyền thống( như Hành quân Trường Sơn của Nguyễn Minh Giang dài 67 trang), có tác giả xen thể tự do với lục bát và thơ Đường luật, có người lại ưa thích thơ- văn xuôi, nhưng hầu hết là dùng thể thơ tự do vì nó thích hợp với sự miêu tả, sự chuyển tải cảm xúc, tâm trạng một cách phóng túng nhất. Có lẽ đặc điểm này tạo điều kiện cho một hệ quả: trường ca hôm nay đang cố gắng thay thế dần diễn ngôn sử thi bằng diễn ngôn đời thường để đưa chất đời tư vào tác phẩm. Đây là sự đổi mới tích cực, hợp quy luật vì theo lẽ thông thường càng xa chiến tranh thì “ khoảng cách sử thi” càng rút ngắn, bạn đọc không chỉ thích mãi một giọng anh hùng ca mà còn muốn nhiều giọng điệu khác. Biểu hiện của diễn ngôn đời thường là những câu hỏi, những lời cật vấn, những tâm trạng day dứt, băn khoăn…về cá nhân, về thân phận con người. Do vậy mà câu thơ có khi biến thành câu văn xuôi, văn xuôi mà vẫn có chất thơ, ví dụ:… Những cô gái gõ mõ chuông lương vương khói hương trong trường ca Phạm Tiến Duật- Thanh Thảo- Metro)
Có nhà phê bình quả quyết rằng thời này là thời của trường ca. Có thể là cực đoan  nhưng không phải là không có lý khi nhìn vào Giải thưởng 5 năm Bộ Quốc phòng ( 2004- 2009) thì có tới 7 trường ca mà chỉ có 2 tập thơ vào chung khảo. Còn tôi thì cam đoan rằng trường ca hôm nay đang đổi mới, đổi mới một cách quyết liệt, mà bài viết này phần nào là một sự làm rõ.
                        N.T.T
-----
(1) Từ điển thuật ngữ văn học- NXB Giáo dục, 2002 định nghĩa: Trường ca là tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình…