Qua ba tập thơ Giọt mưa bất chợt, Không dám tắt đèn và đừng múc cạn nỗi buồn của Nguyễn Thị ánh Huỳnh
Nếu trong tập thơ Không dám tắt đèn, người viết xưng tôi chân thành thú nhận cuộc định dạng không thành giữa một mớ cảm xúc lộn xộn :
Cái rời rã cái đâm chồi
Tôi ngồi định dạng lại tôi
Không thành
Định dạng
thì ở tập Đừng múc cạn nỗi buồn, như có một điều kì diệu, người xưng em đã định dạng mình rất thành công, chẳng khác nào người tu hành đắc đạo thành chính quả:
chuyện nọ xọ chuyện kia
càn khôn nhăng nhít
tơ lơ mơ
em tồn tại
đến giờ
một hôm
yêu
để hóa kiến
em bò lên vũ trụ
làm thơ
Tơ lơ mơ
Từ xưa đến nay, người phụ nữ, phận đàn bà vẫn thường bị coi là con ong cái kiến, bé nhỏ, phụ thuộc. Thì đây, người phụ nữ ấy nhận mình là kiến đấy thôi. Nhưng con kiến này có gốc người, nó biết yêu. Nó không bò bò loanh quanh miệng chén, cũng không leo cành đa, cành đào trong cái thế bế tắc hoặc luẩn quẩn ra ra vào vào. Con kiến này đã cả gan bò lên vũ trụ và làm thơ, cất lên tiếng nói dõng dạc chối bỏ thiên đường giả và đòi hạnh phúc đích thực cho mình, cho đồng loại. Người thơ kiến ấy có tên gọi Nguyễn Thị Ánh Huỳnh.
Có thể nói tập thơ Đừng múc cạn nỗi buồn là một tập thơ bứt phá thành công của Nguyễn Thị Ánh Huỳnh so với chính mình, và cũng là một tập thơ hay hiếm hoi, mới lạ về cảm xúc và tìm tòi cách phô diễn trong mặt bằng thơ của cả nước hiện nay. Tác giả không hề đăng đàn diễn thuyết tuyên ngôn cách tân nhưng bằng việc làm của mình, điềm nhiên khẳng định sự tìm tòi, đổi mới.
Hình ảnh người đàn bà, khi đơn lẻ một mình, xưng tôi, xưng em hay xưng chị, khi là một tập hợp của thế giới phụ nữ, là “những người đàn bà tất tả của hành tinh” ( Mùa trăng rụng, tập Không dám tắt đèn) là hình ảnh tập trung và chói sáng.
Những người đàn bà làm như không biết khóc chỉ quen cười
Giữ đất cho bằng để người đàn ông nhớ
Mà quay về
Không dám tắt đèn, tập Không dám tắt đèn (KDTĐ)
Những người đàn bà bị dìm bị dập xoáy suốt đời
Bởi sóng của khổ đau, đói nghèo, nô lệ
Đem tin cậy trao cho phù thủy
Đem tiếng cười gởi gắm cuồng phong
Không biết mình từ lâu đã nhập áo quan
Lênh đênh
Thủy táng
Cơn sóng khác, tập KDTĐ
Thật ra, người đàn bà ấy xưng tôi, xưng em hay chị, hoặc được gọi trong danh từ chung là người đàn bà quấn khăn đi lượm nắng trời, người đàn bà liêu điêu trước biển, người đàn bà viễn chinh… thì cũng chỉ là phân thân của tác giả, cũng đều là phận đàn bà mà Nguyễn Du đã từng xót xa, thảng thốt: Đau đớn thay phận đàn bà ( Truyện Kiều).
Người đàn bà ấy đã từng có một tình yêu mơ ước trong trẻo:
Tình yêu ư…long lanh giọt sương
Chỉ được ngắm thôi khi gần gũi
Lúc xa vời
Hư ảo để mà thương
Tự ru, tập Giọt mưa bất chợt ( GMBC)
Chị đã từng yêu say đắm, đã từng có những nụ hôn “bầm dập cả trăng non”, làm “tối mù trời đất” ( Nụ hôn), đã từng có những phút giây hạnh phúc bồng con cái như bồng nhật nguyệt ( Vẽ). Nhưng rồi cuộc đời tưởng như rất suôn sẻ, may mắn ấy có những bất ngờ:
Chưa có mối tình đầu
Chị đã lãnh mối tình cuối
Để thành bà nội
Hẹn hò
Thật ra, nào phải cứ nhiều mối tình mới là hạnh phúc? Cái điều bức xúc trong tâm trạng ấy chính là vì tưởng là hạnh phúc nhưng hóa ra bất hạnh, tưởng là thiên đường, nhưng lại là địa ngục. Nếu chưa đến mức ấy, thì cũng là lồng thếp vàng sơn son không chìa khóa, là thiên đường không lối ra, tù túng ( Nơi ngụ cư, tập GM BC). Người đàn bà ấy đã chối bỏ thiên đường dành cho mình:
Thiên đường tình nhân
Thiên đường làm vợ
Thiên đường làm mẹ
Thiên đường làm ô-sin trong nhà vừa phải kiếm tiền ngoài chợ
Thiên đường làm trâu bò
Thiên đường
Thật là kinh hoàng khi nơi được gọi là thiên đường mà không có mây trắng bay, không cỏ non, cây xanh, không sóng biển, không rạp hát, xi nê…tất cả đều bị cấm, bị đuổi khỏi thiên đường. Người đàn bà ấy đã hoảng hồn, kinh sợ, đã viện đến trời phật để xin cho mình không có kiếp sau để không phải vào nơi thiên đường ấy. Và “Đêm đêm trong giấc ngủ/ Chị chạy trốn thiên đường” ( Thiên đường).
Người đọc bắt gặp một nụ cười buồn, hài hước, chua chát của một vị nữ vương trong vương quốc thiên đường, cái ao tự do bé nhỏ:
Trong nhà có bà vua
Lên ngôi
Thành giẻ lau nhà
Vương quốc
Chổi cùn, rế rách
Làm vua không?
Vị nữ vương ấy được người ta xưng tụng, xu nịnh, tán dương “ sướng muốn chết”, nhưng sự thật thế nào. Hãy nghe lời người “sướng muốn chết” thanh minh, phản bác đượm vẻ mỉa mai:
Làm mẹ ba đứa nhỏ sướng muốn chết
Thành bà nội được làm ô sin sướng muốn chết
Sướng muốn chết khoảng trời xanh sau bếp
Mưa cho suối chảy trong nhà
Có khi trời xuống la đà nồi niêu
Sướng muốn chết
Người đàn bà vốn hiền lành ấy như bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh, che giấu những nỗi đau để có vẻ ngoài bình thản. Chị đã hơn một lần mượn hồn ốc:
…nhận vết cào gai
Lòng tưa máu để…vỏ ngoài bớt đau
Mượn hồn ốc, tập KDTĐ
Chị đã chắt chiu, gom góp niềm vui, quý trọng những ngày hằng sống:
Thôi ngày thương mến ngày chưa vắng
Xin chia nhau- dù ít ỏi tiếng cười
Mua sắm cho một mai, tập KDTĐ
Sự gắng gỏi tươi cười như trái ớt “ càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng” ấy đã gây ra sự hiểu lầm, ngay cả những người thân gần nhất. Họ tưởng rằng chị “cười hoài không biết khóc”. Chị đã phải nói với con, chỉ nói thầm thôi:
Con ơi mẹ khóc một đời
Không ai thấy chỉ soong nồi cảm thương
Cảm ơn khóc
Một đời khóc thầm” một mình mình biết, một mình mình hay” và chỉ có những vật vô tri cảm thông, chia sẻ. Chính vì thế mà người đàn bà ấy phải tìm đến thơ để giải tỏa, để những giọt nước mắt có nơi mà chảy:
…giấu nước mắt vào thơ
Cảm ơn giọt lệ bơ vơ làm người
Cảm ơn khóc núp trong cười
Cảm ơn nước mắt chết rồi còn tuôn
Cảm ơn khóc
Nước mắt chết rồi còn tuôn. Sự đau khổ tột cùng này gặp gỡ khát vọng yêu tột cùng của Xuân Quỳnh với trái tim “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” ( Tự hát).
Khi người đàn bà tỉnh thức là khi người ấy nhận thức lại thế giới, tự định dạng lại mình, và cũng xem xét lại tất cả những gì đã thành thói quen, đã thành lề thói, trói buộc. Sẽ không có gì ngạc nhiên khi sự phản tỉnh sẽ dẫn đến những phản ứng gay gắt. Mà gay gắt nhất là những gì tù túng, nô lệ. Mọi hình thức nô lệ sẽ bị phản đối kịch liệt, dù là dưới hình thức hào nhoáng “lá vàng làm con ở của mùa thu” ( Sướng muốn chết), hay trong sự trần trụi nô lệ của hầu bao:
Một đời nô lệ hầu bao
Một đời bỏ cái tào lao theo chồng
Chuyện tào lao
Nếu không là người phụ nữ làm thơ, không phải là người trăn trở về hạnh phúc thì có lẽ chị sẽ là người yên phận, dễ thỏa hiệp, dễ chấp nhận. Nhưng chị cần có “nhu cầu cười” và cần có “cảm xúc khóc” ( Bóng ngõ nhỏ, tập GMBC), mà những thứ đó lại không có hoặc quá ít. Chị cần trời xanh, trăng sáng, hoa nở, chim kêu nhưng các thứ đó bị coi là “tào lao” và “không ăn được”. Bởi vậy mà người đàn bà bị ám ảnh bởi cảm giác đói:
Mắt đói mắt
Tai đói tai
Môi đói môi
Mũi đói mũi
Da thịt đói da thịt
Linh hồn đói linh hồn
Chuyện tào lao
Sự đói khát triền miên đó, khi tỉnh thức tất yếu sẽ dẫn đến sự nổi loạn. Đầu tiên là nín lặng chịu đựng:
Chị nín thinh như bàn ghế nồi niêu
Mèo gào
Rồi đến việc đánh mất tình yêu “ Ngay trong nhà mình/ Chị không còn chỗ trú” và “ Trong đôi mắt anh/ chị không tìm thấy chị” ( Đồng tính). Thế là uổng phí cả một ước vọng “tập/ chết đuối/ trong gương/ để em/ được chết đuối/ trong mắt anh/ mãi mãi” (Chết đuối). Rồi chị ngoại tình với thiên nhiên, với sóng, với gió, với đất, với cỏ. Chị chờ đợi mùa thu ảo, đợi “một người chưa có thật” với hi vọng : “ Ngoài kia lông ngỗng đầy trời/ Mùa thu rắc lối cho người tìm em” ( Mùa thu ảo). Chị tẩy chay người tình , người phụ bạc:
Bông hoa tẩy chay ong bướm
Em tẩy chay anh, đất tẩy chay trời
Thiên đường là kẻ khác
Dịu dàng qúa dịu dàng không chịu nổi. Thi sĩ Nga đã viết câu thơ ca ngợi bản chất dịu dàng của phái nữ. Người phụ nữ nào cũng có thiên tính dịu dàng, và họ cũng muốn được dối xử dịu dàng. Sự dịu dàng là vũ khí, là phép màu kì diệu:
Ôi sự dịu dàng
Có thể biến sư tử thành nai
Thiếu dịu dàng
Con nai trong nhà ta có cơ thành sư tử
Dịu dàng ơi
Đến khi người phụ nữ đánh mất sự dịu dàng thì chỉ còn phẫn nộ và giông tố của sư tử :
Em nổi điên lên
xé đôi trời đất
xé anh thành muôn mảnh
Gió thất tình
Khi tình yêu bị phản bội, bị dối lừa thì chỉ còn sự thù hận và nguyền rủa. Thật cũng chưa thấy ai dữ dội như người đàn bà này, kiên quyết và dứt khoát như người đàn bà này:
Em căm thù anh
Tình yêu giết người
Em đã chôn anh
Trăm lần
Vạn lần
Trong nghĩ địa ngày tháng
Nấm mộ
Tuy vậy, vẫn thấy ở đây sự tôn trọng “kẻ thù”. Kẻ đó vẫn được gọi bằng anh và người nguyền rủa vẫn đủ bình tĩnh, sáng suốt để nhận ra rằng mình chính là nấm mộ chôn người tình nên anh ta vẫn có thể đêm đêm chui ra lần mò như tên ăn trộm.
Thật cũng chưa có ai kết án kẻ phụ tình nặng nề như người đàn bà này, khi tuyên án tội trạng tặng cái nhìn thuốc độc, biến con nai thành sư tử, biến cô gái nhà lành dịu dàng thành người đàn bà tàn ác ( Ai đã tặng cái nhìn thuốc độc?). Trong khi tuyên án nặng nề như thế, người đàn bà ấy vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra lỗi đồng phạm, lỗi tiếp tay của mình : “ ma ám em/ quỷ ăn thịt em[…] em ngu ngốc/ gật đầu ( Làm vua không?) và “đêm đêm / em rơi hết mắt/ giấc ngủ mù/ chiêm bao mù[…] tình yêu mù ( Đêm lưng lửng anh). Điều ấy càng làm cho chúng ta tin cảm xúc của chị hơn, bởi vì nếu không, những lời rủa nguyền nặng nề kia sẽ chỉ được coi là những lời bi phẫn của người quá đau khổ không còn sự kiểm soát của lí trí; chỉ có thể gợi cảm thông và cảm thông thôi.
Người đàn bà tỉnh thức, nổi loạn, nghiệt ngã ấy vẫn là một người đàn bà sáng suốt hiền lành trong bản chất.
*
Ngoài ấn tượng mạnh mẽ về người đàn bà tỉnh thức, thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh còn thể hiện một cách nhìn mới, một lối tư duy và phô diễn mới. Có thể tìm thấy sự sắc sảo trong những phát hiện:
Có sự im lặng làm ù tai
Có những tiếng ồn ào chữa bệnh điếc
Trời đói chim
Ai bảo bóng tối chứa âm mưu
Cái thiện dễ nảy mầm trong đêm
Cái ác hay nhân danh mặt trời
Cho em một li quỷ sứ
Chị còn muốn tranh luận với Giăng pôn Sác với mệnh đề “Thiên đường là kẻ khác” thay vì “Địa ngục là kẻ khác”. Vấn đề không phải là để phân thắng thua mà cái chính là để chị khẳng định:“Địa ngục là ta cát cứ mình” (Thiên đường là kẻ khác). Đối với nước mắt chị cũng phân chất và định lại giá trị:
Người mù
Có giọt lệ sáng
Người điên
Nước mắt tỉnh
Người ác
Không có nước mắt
Người ít khóc
Tim đau
Nước mắt
Chị phát hiện ra “con chim thời gian”, “con chim ăn sắc đẹp đàn bà” để lại “dấu chân thật thà trên gương mặt đàn bà nhàu nhĩ”, và bản thân mình cũng không là ngoại lệ:
…chim thời gian
đi qua đời em
để lại những dấu chân
biết khóc
Tình yêu
thích lên trán em
dấu ấn chim muông
Con chim thời gian
Chị viết về người tình đã chết, câu bé mười tám tuổi, vẫn đêm đêm trở về bên cạnh “ông nội của sắp nhỏ” và mong mỏi người “trùng tên” hãy đưa mình về ngày xưa ( Hãy đưa em về ngày xưa). Một cách diễn đạt bất ngờ mà thú vị, vì hai người “trùng tên” là một người của ngày xưa và một người của bây giờ. Cảm giác nuối tiếc thời xưa, thậm chí nuối tiếc hôm qua thôi là một cảm giác có thật, một cảm giác thường trực. Bởi thế mà năm xưa có thể “bẻ trăng sừng bò cho các con anh bú”, còn bây giờ thì chỉ còn trăng ( Trăng sừng bò). Năm xưa tình yêu ban đầu vui như gàu, bây giờ là kết thúc buồn như nước (Đừng múc cạn nỗi buồn). Thậm chí là hôm qua khác hôm nay. Vẫn buổi chiều đấy mà là buổi chiều không có hôm qua : Ôi những buổi chiều/ không có hôm qua/em vẫn còn anh/ mà góa những buổi chiều ( Buổi chiều không có hôm qua).
Bài ca thiên nga phát hiện chưa bao giờ con người mang tái tim thiên nga, dù họ nặng lời thề thốt. Đối thoại với bọ ngựa là những suy ngẫm sâu sắc về bản chất người, về phần Con và phần Người, phần rắn rết ma quỷ và phần phượng hoàng thần thánh ( như Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Bức tranh). Cái đẹp, Không ai dám lấy chị là sự tôn vinh, ngưỡng mộ cái đẹp, khẳng định cái đẹp vĩnh cửu…
Thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh đem đến một cái nhìn mới mẻ, một cách tiếp cận mới mẻ, một giọng điệu mới mẻ của một cây bút nữ. Đó là một cây bút hiếm hoi, độc đáo. Sự chân thành riết róng của chị là biểu hiện của một sức sống dào dạt, khao khát đấu tranh cho tình yêu và hạnh phúc đích thực của con người.
Hà Nội, 21/9/2008