Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Uyliam Sao - món quà “Từ trên trời”

Hoàng Quảng Uyên
Thứ ba ngày 20 tháng 10 năm 2009 10:30 PM
 
 
Trung úy Uyliam Sao (William Shaw) phi công Mỹ, trong một chuyến bay trinh sát đã buộc phải nhảy dù xuống vùng ven thị xã Cao Bằng do động cơ máy bay hỏng. Lực lượng Việt Minh đã nhanh chóng tiếp cận, đưa phi công đi ẩn náu trước khi quân Pháp (sau đó là quân Nhật) kịp đến để thu “chiến lợi phẩm”. Viên phi công Mỹ đã được Việt Minh bảo vệ an toàn, chăm sóc tốt rồi được đưa lên Pác Bó gặp Bác Hồ. Mặc dù lúc đó sức khỏe Bác không được tốt, tình hình chuẩn bị tổng khởi nghĩa rất khẩn trường nhưng Bác vẫn quyết định tự mình đưa Trung úy Sao sang Vân Nam (Trung Quốc), giao cho sở chỉ huy không đoàn số 14 của Mỹ (đơn vị của Sao). Uyliam Sao - món quà “Từ trên trời” đã là điểm khởi đầu, là điểm nhấn quan trọng trong việc thiết lập quan hệ Việt - Mỹ cách đây 65 năm. Tác giả bài viết này bằng những tìm tòi, khảo sát riêng, “dựng lại” một cách trung thực, chính xác những gì đã xảy ra vào thời kỳ đó để thêm một lần thấy rõ tầm nhìn xa, trông rộng, tài trí ngoại giao và tấm lòng suốt đời vì dân, vì nước, không ngại hy sinh gian khổ, quyết chí giành độc lập, tự do cho Tổ quốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại.
Ngày 2/11/1944 (ngày 17/9 Giáp Thân)
Đó là một ngày đẹp trời, mây mỏng, gió nhẹ. Trên cánh đồng Bản Ngần lúa gặt đã gần hết, những đàn chim ngói sà xuống những đám ruộng trơ gốc rạ, nhặt những hạt thóc rơi vãi… Khoảng 3 giờ chiều, không gian bình lặng vùng nông thôn ven thị xã Cao Bằng bỗng nhiên bị tiếng động cơ máy bay gầm rú phá vỡ. Một chiếc máy bay (loại B-25) bay từ Thị xã lên Nước Hai rồi bay vòng lại, một tiếng nổ phát ra từ thân máy bay, máy bay chúc đầu lao xuống đám ruộng Nà Chú, vỡ thành 3 đoạn, phi công nhảy dù, rơi xuống Nà Thúm (Bản Ngần), cách chỗ máy bay rơi khoảng 500 m.
Tại thời điểm phi công nhảy dù có gia đình Đoàn Văn Cù đang gặt. Đoàn Văn Cù là hội viên thanh niên Cứu quốc lập tức chạy đến gần viên phi công. Viên phi công sợ hãi tháo đôi găng tay đưa cho Đoàn Văn Cù kèm một xấp tiền. Đoàn Văn Cù không nhận tiền, ra hiệu cho viên phi công đi theo mình vào ẩn nấp tại chân núi Khau Sầm (sau chùa Kỳ Sầm). Sau này, khi về đến Côn Minh, Sao - tên viên phi công thuộc phi đội 51, không đoàn số 14 của Mỹ đóng tại vùng Hoa Nam (Trung Quốc)  đã ghi lại những giây phút đầu tiên gặp người của Việt Minh trong một cuốn sách mỏng có tên Một Đông Dương thật sự dưới con mắt Trung úy Shaw: “… Trước khi nhảy dù, tôi đã chỉnh máy bay của tôi sao cho nó hoàn toàn vô dụng nếu rơi vào tay kẻ thù. Ngay khi tôi chạm đất một người Đông Dương trẻ tuổi bước tới mỉm cười, thân mật bắt cả hai tay tôi và ra hiệu tôi đi theo anh ta. Tôi đưa cho anh ta 600 Đô la Đông Dương. Anh ta nhất quyết không nhận tiền và trông có vẻ như bị xúc phạm. Tôi ngạc nhiên với thái độ của anh ta và cho rằng ngần ấy tiền là chưa đủ. Đó là một sai lầm lớn của tôi! Lúc đầu tôi nghĩ họ là những kẻ tham lam, nhưng trên thực tế hầu hết những người yêu nước Đông Dương lại rất đức độ. Họ giúp chúng tôi không phải vì tiền của chúng tôi mà vì tình yêu thương và tình bằng hữu. Họ biết rằng chúng tôi chiến đấu không chỉ vì nước Mỹ mà còn vì tự do và dân chủ của thế giới và cũng vì đất nước của họ nữa. Vì lý do đó mà họ coi bổn phận yêu nước của mình là giúp đỡ chúng tôi - những đồng minh của họ”.
Rõ ràng “người Đông Dương trẻ tuổi” Đoàn Văn Cù và sau đó là những “người Việt Minh” khác đã được đọc, được nghe phổ biến, tuyên truyền một tài liệu gồm tám bức tranh liên hoàn cỡ nhỏ vẽ và hướng dẫn cách cứu phi công. Đó là ấn phẩm của Báo Việt Nam độc lập - một bên vẽ là cờ Hoa Kỳ, một bên vẽ lá cờ Việt Nam ở giữa là câu thơ lục bát:
Quân đội Mỹ là bạn ta
Cứu phi công Mỹ mới là Việt Minh.
Đó là lý do vì sao vừa chạm đất người của Việt Minh đã chạy ngay đến cứu và không nhận tiền của Sao. Khi Sao được Việt Minh đưa đến chỗ an toàn thì bọn Pháp (và sau đó là Nhật) đến phong tỏa nơi máy bay rơi, cho tháo dỡ “chiến lợi phẩm” và tổ chức lùng sục, tìm kiếm viên phi công theo phỏng đoán của chúng, có lẽ đang lẩn quất trong rừng, tìm cách thoát về biên giới Việt Trung theo hướng án Lại, Quảng Uyên, Phục Hòa…
Trong tình hình truy lùng gắt gao của quân Nhật, Pháp như vậy việc bảo vệ an toàn cho viên phi công là một nhiệm vụ khó khăn nhưng tổ chức Việt Minh ở Bản Ngần, xã Vĩnh Quang (các ông Đoàn Văn Nhật, Đoàn Trọng Kiệt, Đoàn Văn Lệnh, Đoàn Văn Phác, Đoàn Văn Lâm…), đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. ở  nơi ẩn nấp, Sao được cung cấp xôi, thịt gà, trứng, chuối… rất đầy đủ và được bảo vệ nghiêm ngặt.
Sáng hôm sau, Đoàn Văn Nhật cho người đến làng Nà Toàn (cách Bản Ngần 5 km) báo cáo tình hình cho Nam Cường,  Bí thư chi bộ Nà Toàn. Ông Nam Cường báo cho ông Hoàng Tuấn Sơn, châu ủy viên châu Hòa An phụ trách tổng Hồng Việt. Ông Hoàng Tuấn Sơn cùng các ông Hùng Quốc (quê Bản Ngần) và ông Cường Linh (Bản Lằng) đến đón Trung úy Sao tại lều của ông Hà rồi chèo mảng ngược sông Mãng đưa Sao về khu căn cứ địa Lam Sơn.
Ông Hoàng Tuấn Sơn, sinh năm 1918, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Cao bằng, năm nay đã bước sang tuổi 92 nhưng vẫn khỏe mạnh, minh mẫn đã kể lại rất chi tiết chuyến đưa Trung úy Sao từ Nà Toàn lên khu căn cứ địa Lam Sơn, tôi chỉ ghi lại vài điểm chính: “Buổi tối, tôi đón Sao ở Nà Toàn để đưa sang Nà Tanh. Trời tối không dám dùng đèn, Sao thỉnh thoảng lại trượt ngã, xô vào tôi. Đến Nà Tanh tôi đưa Sao vào ngủ ở nhà chị Bích Sương, cán bộ phụ nữ Việt Minh xã. Chị Bích Sương đưa chăn bông cho Sao đắp, Sao không đắp mà trải ra làm đệm nằm. Ngày hôm sau chị Bích Sương ra thị xã mua cho Sao một đôi giầy vải và một chiếc đèn pin. Chân Sao to đi không vừa, phải khoét mũi giầy thò 5 ngón chân ra. Sao tặng chị Bích Sương một cuộn chỉ màu. Em trai chị Bích Sương đi bẫy chim ngói về hầm cho Sao ăn, lại làm cơm lam cho Sao mang đi. Trời tối, ăn cơm xong tôi đưa Sao xuống mảng (có lát ván để Sao nằm). Ngược sông Mãng đến Làng Đền, rời mảng lên bờ đi bộ qua núi Khắc Thiệu, đến làng Lam Sơn Thượng đã 2 giờ sáng, tôi đưa Sao vào nhà tôi nghỉ tạm, mờ sáng, lại đưa lên núi trú trên hang Ngườm Vài (sau nhà tôi). Tôi viết giấy gửi anh Tống (tức đồng chí Phạm Văn Đồng) và anh Lã (tức đồng chí Hoàng Đức Thạc- Bí thư liên Tỉnh ủy Cao, Bắc, Lạng)….”.
Bà Đàm Thị Sáng, vợ ông Hoàng Tuấn Sơn, sinh năm 1918, cán bộ lão thành cách mạng, nay vẫn khỏe, góp lời: “Nửa đêm nghe tiếng gõ cửa, nghe tiếng ông nhà tôi gọi, tôi mở cửa thấy ông Tây cao chạm cửa, tôi đưa vào nhà xếp cho ngủ ở buồng sau. Ông Tây ngủ mê nói rất to, tôi sợ bị lộ, gần sáng bảo ông nhà tôi đưa lên hang Ngườm Vài. Tôi thịt gà, nấu cơm, rang lạc… đưa cho ông Tây ăn. Ông Tây không biết cầm đũa, ra hiệu xin bốc, ông nhà tôi gật đầu”.
Nhận được tin báo, đồng chí Tống chuyển một lá thư cho Sao, Sao đọc rất phấn khởi. Đồng chí Tống cho người xuống đón Sao lên khu căn cứ, sau đó tổ chức đưa Sao lên Pác Bó theo chỉ thị của Bác Hồ. Lúc chia tay Sao cảm kích tặng ông Tuấn Sơn một khẩu súng Col và một đồng hồ nhưng ông Tuấn Sơn không nhận. Sao bảo “Khi nào đến nước Mỹ, tôi lại lái máy bay sang đây, tôi sẽ vẫy tay chào ông”.
Trong nhiều tài liệu có “kể” chi tiết, trong khoảng thời gian gần một tháng trước khi được gặp Bác Hồ, Sao như “người câm” vì khu căn cứ địa không ai biết tiếng Anh, tiếng Mỹ. Vậy thì ai đã viết thư cho Sao? Tôi gặng hỏi ông Tuấn Sơn, ông khẳng định việc Sao nhận và đọc thư là có thật, chứ không phải ông sáng tác! Tôi lục tìm trong các cuốn hồi ký cách mạng thì thấy có bài nói ông Cao Hồng Lãnh, sinh năm 1904, quê Hội An, Quảng Nam, mất năm 2007 (thọ 103 tuổi), biết tiếng Anh (ở trình độ khiêm tốn). Tôi nói điều này với ông Tuấn Sơn, ông xác nhận: “Phải, phải! Ông Cao Hồng Lãnh chúng tôi gọi là ông Cao Cẳng, ở Pác Bó gọi là ông Hoàng Khít, ông ấy có nói chuyện với Sao, nhưng dùng tay nhiều. Chính ông Cao Hồng Lãnh cùng ông Bằng Giang (sau này là Trung tướng, tư lệnh quân khu Việt Bắc) đưa Sao lên Pác Bó, có thể ông Cao Hồng Lãnh là người viết thư”.
Mười sáu ngày, năm mươi cây số!
Từ khu căn cứ địa Lam Sơn (Hòa An) lên Pác Bó khoảng 50 cây số, đi bộ từ sáng đến tối là đến nơi do vậy mà ngay sau khi Sao đến Lam Sơn, Bác Hồ đã nhận được báo cáo của đồng chí Tống, Người lập tức chỉ thị đưa Sao lên Pác Bó, bảo vệ thật an toàn. Sao nhớ lại: “Mười ngày sau, tôi nhận được lá thư và thông báo: Chúng tôi đã ra lệnh cho căn cứ địa của chúng tôi tại Cao Bằng tiến hành tất cả các biện pháp cần thiết để bảo vệ tính mạng ngài và hộ tống ngài ra biên giới Bắc Kỳ - Trung Quốc”. “Mười ngày” là theo cách tính của Sao kể từ ngày anh ta nhảy dù (ngày 2/11). Như vậy, trong 10 ngày đó Sao vẫn quanh quẩn ở khu vực Thị xã Cao Bằng và vùng Nước Hai (Hòa An), chứ chưa “tẩu thoát” qua biên giới Việt Trung như phỏng đoán của bọn Nhật, Pháp. Nhận được chỉ thị từ Pác Bó, đồng chí Tống đã cử Cao Hồng Lãnh, Bằng Giang và Thế An trực tiếp đưa Sao đi. Đoàn người lên đường vào giữa tháng 11, ngày nghỉ đêm đi, ròng rã 16 ngày, lên đến Pác Bó vào cuối tháng 11, đầu tháng 12. Bạn đọc có thể ngờ ngợ ở đoạn này và tự hỏi “đi liên tục trong 16 ngày mà chỉ được 50 km! Đi kiểu gì?”. Tôi xin được nói rõ, trong chỉ thị của Bác Hồ, Người đặc biệt lưu ý các đồng chí của mình đưa Sao đi vòng vèo qua nhiều vùng có phong trào Việt Minh mạnh, khí thế cách mạng đang lên cao để Sao có cảm nhận và tận mắt thấy phong trào Việt Minh, tổ chức Việt Minh trên lãnh thổ Việt Nam mạnh mẽ như thế nào. Sao sẽ báo cáo “tình hình thực tế” lên thượng cấp với nhận xét, chỉ có lực lượng Việt Minh mới có đủ sức mạnh và uy tín chống Nhật. Mỹ (và Đồng Minh) chỉ có thể hợp tác được với Việt Minh mà thôi”. Việc “đưa đi  vòng vèo” đã thực sự có hiệu quả. Trong cuốn nhật ký công bố tại Côn Minh, Sao đã viết những dòng đầy thiện cảm với Việt Minh “Trong 30 ngày chơi trò trốn tìm với quân Pháp và Nhật, những người yêu nước đã đưa tôi từ nơi ẩn náu này đến nơi ẩn náu khác. Họ cố gắng hết sức để tôi cảm thấy thoải mái. Bất cứ khi nào và bất cứ ở nơi đâu nếu có thể, dân làng cả Nam, Phụ, Lão, ấu đều tổ chức những buổi gặp mặt bí mật để chào đón tôi. Khi người chủ tọa dứt lời, tôi luôn luôn đáp lại với một câu ngắn gọn và đơn giản: “Việt Minh! Việt Minh!”. Sau đó họ đứng dậy đồng thanh nói “Hoa Kỳ! RooSevelt! Hoa Kỳ! RooSevelt!”. Các buổi gặp mặt kết thúc với những cái bắt tay thân thiện” và Sao quả quyết: “Việt Minh hùng mạnh thế nào tôi không biết, nhưng như những gì tôi đã chứng kiến thì tổ chức này rất được nhân dân ủng hộ. Đi đến đâu tôi cũng được dân làng chào đón với hai tiếng “Việt Minh! Việt Minh!” và họ làm tất cả để giúp những người yêu nước, cho dù có bị ngăn cấm và đàn áp. Tháng 12, những người bạn Đông Dương đưa tôi về Trung Quốc, trước khi chia tay họ dặn đi, dặn lại tôi phải gửi lời chào tốt đẹp nhất của họ tới quân đội và nhân dân Mỹ. Lần bắt tay cuối cùng họ hô to: “Hoa Kỳ muôn năm! RooSevelt muôn năm, tướng Chennault muôn năm!” và tôi hô to đáp lại “Đông Dương muôn năm! Việt Minh muôn năm!”. Tôi rất vui khi được quay trở lại và kể với đất nước tôi và những đồng minh của nó về tình hình thực tế tại Đông Dương…
Tôi khiêm nhường nghĩ rằng, vì nhiệm vụ dân chủ cũng như vì lợi ích chiến lược, chúng ta phải giúp đỡ phong trào chống Nhật, chống Phát xít của Đông Dương một cách có hiệu quả”.
Thế là quá đủ. Đây không phải là lần đầu, Việt Minh “đưa đi vòng vèo”. Trước đó, vào tháng 4/1941 tại Pác Bó, Lục Thượng Hiệu (cấp Thượng tá trong quân đội Tưởng Giới Thạch) được Trung tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh Đệ tứ chiến khu cử sang Việt Nam để thăm dò lực lượng ta, chuẩn bị cho “Hoa quân nhập Việt”. Bác Hồ đã chỉ thị “đón tiếp” “bố trí” cho Lục Thượng Hiệu đi khảo sát thực tế như sau: Cho nó đến một số nơi có phong trào để nó thấy rõ lực lượng của ta, nhưng không cho đi xa. Làm cho nó thật mệt để nó xin về nước sớm. Các đồng chí Vũ Anh, Lê Quảng Ba… đã thực thi kế sách của Bác Hồ thật hoàn hảo. Trong cuốn hồi ký Bác Hồ về nước đồng chí Lê Quảng Ba đã ghi lại việc này như sau: “Đồng chí Vũ Anh bàn với tôi dẫn nó đi ban đêm và loanh quanh trong khu du kích. Nhiều đêm thường là đi quanh co xuyên rừng, leo núi Lục Thượng Hiệu mệt mỏi ra mặt, tỏ ý muốn về nước sớm.
Đồng chí Vũ Anh nói:
- Đây mới là miền núi, chúng tôi muốn mời ông ở nán lại ít lâu nữa, để đưa ông xuống vùng đông dân, ông sẽ được tận mắt thấy khí thế phong trào đồng bằng…
Họ Lục gượng cười nhìn đồng chí Vũ Anh và tôi, vẻ phờ phạc nói gần như năn nỉ:
- Đa tạ tấm lòng tốt của các ông! Tôi không thể ở lâu được hơn nữa! Những điều mắt thấy tai nghe đã đủ cho tôi viết tốt bản báo cáo gửi lên tướng Trương Phát Khuê. Xin các ông cho tôi về ngay, viết phác xong bản báo cáo tôi sẽ đưa cho các ông xem và cho ý kiến. Hơn nữa, nếu đi xa hơn, nhỡ gặp tai biến gì, thì không ai có thể thay tôi mà báo cáo tình hình về Trung Quốc được. Mong các ông thông cảm và thuận tình cho.
Sau đó Lục viết một bản báo cáo dài ca tụng phong trào Việt Minh”.
(Cũng xin nói thêm, nhờ bản báo cáo của Lục Thượng Hiệu mà Trương Phát Khuê “hiểu” và có cảm tình với Việt Minh, để Trương mời Bác Hồ tham gia cải tổ Việt Nam độc lập Đồng minh hội ở liễu châu năm 1943 - ngay sau khi Bác ra tù).
Nhớ lại chuyến đưa Sao về Pác Bó, gặp Bác Hồ, đồng chí Cao Hồng Lãnh đã kể lại với đồng chí Hoàng Quốc Việt: “Lúc ấy, tôi thấy Bác như đang sửa soạn đi đâu vì vai Bác đeo xắc cốt, tay cầm gậy chống. Tôi đưa Sao đến trước mặt Bác. Nhìn Sao, Bác tươi cười bắt tay anh ta, kéo anh ta ngồi xuống cạnh mình và nói chuyện hết sức thân mật:
- Quê anh ở bang nào thuộc nước Mỹ?
Nghe Bác hỏi bằng tiếng Anh rất chuẩn, Sao ngạc nhiên, nở nụ cười rạng rỡ, đáp:
- Thưa ông, tôi ở Tếch Zát.
- Anh đã có vợ chưa?
- Thưa ông, tôi đã có vợ.
- Anh có muốn về Mỹ, về gặp lại vợ không?
- Thưa ông, rất muốn.
 - Chúng tôi sẽ trao trả ông cho lực lượng không quân Mỹ tại Trung Quốc.
- Thưa ông, nếu được như vậy quả là niềm vinh hạnh đối với tôi.
Rồi Bác bảo anh em bố trí nơi ăn, chốn ở chu đáo cho anh ta. Khi về chỗ nghỉ, Sao hết lời ca ngợi “Ông cụ”, rằng: “Ông ấy nói tiếng Anh nghe rõ quá, lại đối xử thân mật như cha tôi vậy”. Sau khi gặp Bác, tinh thần Sao phấn chấn hẳn lên. Mấy hôm sau Bác bảo các cô gái địa phương kiếm chỉ thêu chữ “chúc mừng” (Greeting) trên mảnh lụa trắng tặng Sao. Nhận tặng phẩm, Sao xúc động đến rơi lệ. Anh ta không ngờ tại nơi rừng núi heo hút này lại có người đối xử với anh ta văn minh như thế”. (Đường Bác Hồ chúng ta đi - trang 51 - 52).
Có thể xác định một cách chi tiết rằng, khi Sao đến Pác Bó, Bác Hồ đang rất bận và sức khỏe còn yếu vì vừa mới trở về sau 2 năm bị tù đầy, kìm giữ ở Quảng Tây. Ngày 20/9/1944 vừa đặt chân trở lại Pác Bó, Bác liền ra Chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa do liên Tỉnh ủy Cao-Bắc-Lạng trù tính, sẽ diễn ra vào tháng 10, tháng 11. Bác tổ chức lại lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, chuẩn bị cho Nam Tiến, ra chỉ thị thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân…. việc nào cũng cần thiết, cũng cấp bách, cũng quan trọng cả. Việc Trung úy Sao “đột nhiên xuất hiện”, buộc Bác phải thay đổi “kế hoạch”, “lịch trình” công tác. Với tầm nhìn thấu cõi, Bác Hồ nhận ngay ra rằng viên phi công Mỹ từ trên trời là một món quà mà thời cơ đã ban tặng, có thể sử dụng như một giấy giới thiệu, giấy thông hành để Bác trở lại Trung Quốc thiết lập mối quan hệ với Đồng Minh (trước mắt là Mỹ), tìm sự hậu thuẫn, sự hợp tác với Đồng Minh trong cuộc chiến với phát xít Nhật (và Pháp), giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, khi cơ hội khởi nghĩa đã đến rất gần. Không cần phải suy nghĩ, tính toán nhiều, sau khi để lại nhiều kế hoạch, chỉ thị, kế sách cho các đồng chí của mình, Bác Hồ đã trực tiếp đưa Sao từ Pác Bó sang Côn Minh mở ra một cánh cửa bang giao mới. Một chuyến đi khổ ải, nguy hiểm đầy bất trắc và… ly kỳ!
Pác Bó - Côn Minh “Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!”
Buổi sáng ngày Bác Hồ đưa Sao đi, đất trời Pác Bó bỗng trở nên đẹp hẳn lên với nắng vàng rực rỡ - hành lý và thực phẩm là chiếc chăn chiên cũ, mỗi người một bộ quần áo để thay, một ống tre đựng thịt băm sào với muối ớt mặn (lương khô Việt Minh), một chiếc ca tráng men. Bác mang theo một số tiền quan kim. Đoàn người chia làm 3 tốp: Một tốp đi trước dò đường, tốp giữa dẫn phi công, tốp sau để chặn hậu. Đồng chí Phùng Thế Tài và Đinh Đại Toàn luôn đi cùng Bác, bảo vệ và phục vụ. Thường thì ngày đi, đêm nghỉ nhưng nhiều hôm, ngày nghỉ đêm đi để tránh quân Pháp, Nhật lùng sục, bủa vây phải đi đường vòng, trèo đèo, lội suối rất khổ sở. Trên đường đi, Sao được đi ngựa còn Bác và anh em đi bộ. Sao luôn được cung cấp xôi, thịt gà còn Bác và anh em ăn cơm nắm với thịt băm nấu mặn. Khi ngủ Sao được bảo vệ từ xa.
Sau 5 ngày đi bộ trên đất Việt Nam và Trung Quốc, đến Tịnh Tây. Trần Bảo Thương, quân đoàn trưởng của quân Tưởng đóng dọc biên giới biết đã “Nẫng tay trên” Trung úy Sao, tự “nhận trách nhiệm” đưa Sao về Côn Minh bằng ô tô, máy bay. Đột nhiên mất chỗ dựa, mất “giấy giới thiệu”, “giấy đi đường”, tình thế trở nên cực kỳ bi đát nhưng Bác vẫn không nản chí, tiếp tục thực hiện kế hoạch đã đề ra: Đi Côn Minh theo đường Tịnh Tây - Bách Sắc. Cuộc hành trình gian khổ gần 1 tháng trời. Bác gầy yếu, xác xơ vì nhiều lần lên cơn sốt cao do quá kham khổ; quá tiết kiệm trong ăn uống. Đáng lẽ phải ăn cơm 5 hào, thì Bác “chỉ dám” ăn loại 2 hào. Đáng lẽ đi đường bằng Bác lại đi đường núi… Tuy thế Bác vẫn đến Côn Minh. Bác đến ở nhà ông bà Tống Minh Phương, việt kiều đang làm ăn sinh sống tại Côn Minh. Bà Trần Thị Việt Hoa (vợ ông Tống Minh Phương), năm nay đã gần 100 tuổi nhưng vẫn khỏe, trí nhớ tốt. Bà hào hứng kể những giây phút đầu tiên Bác đến và những kỷ niệm về Bác: “Tôi đang lúi húi trong bếp thì có một ông cụ mặc quần áo và đội mũ lính Tàu Tưởng, đi đôi dép rách, ngoài khoác chiếc chăn sợi sờn cũ cứ thế đi thẳng vào nhà tôi… cả nhà nhộn nhịp hẳn lên, cụ Lê Nhuận Chi, anh Phạm Việt Tử, anh Tống Minh Phương (chồng tôi) tíu tít, mỗi người một việc với thái độ cẩn trọng, bí mật.
Theo kế hoạch từ trước, chúng tôi sắp xếp cho cụ nghỉ trên căn gác, tuy chật chội nhưng cũng đủ để kê một giường cá nhân và chiếc bàn nhỏ. Khi tôi lên gác gặp cụ, nhìn cụ gày gò mà thương quá. Sau đó cụ bị sốt cao, có người bảo phải đưa cụ đi bệnh viện, nhưng ông cụ nói: “Như thế dễ bị lộ, ở nhà dễ xoay xở hơn”. Chúng tôi đi mua thuốc ký ninh về tiêm cho cụ, vài ngày sau thì cụ dứt cơn sốt. Khi sức khỏe đã khá, cụ xuống nhà dưới đứng bán hàng, thường từ 2 giờ đến 4 giờ chiều hằng ngày. Mới đầu chúng tôi không đồng ý, nhưng cụ bảo: “Như thế này mới khỏi bị lộ”. Cụ biết nhiều thứ tiếng, nói chuyện rất hay nên cửa hàng luôn đông khách vào ra, nhất là khách Tây. Ông cụ đi đôi giầy vải đã rách toạc cả, nhưng dứt khoát không cho chúng tôi mua đôi mới để thay. Tôi nghĩ cách, mua một đôi giầy vải mới về, chờ lúc ông cụ đi ngủ, tôi đem lên thay vào chỗ đôi giầy cũ, giấu biệt đôi giầy cũ đi. Sáng hôm sau cụ phải đi đôi giầy mới. Lúc xuống nhà gặp tôi cụ nói vui: “Tôi chịu thua cô rồi!”. (Báo Công an nhân dân 19/8/2008).
Khai mở quan hệ Việt - Mỹ.
Khi Bác Hồ đến Côn Minh thì Sao đã lên đường về Mỹ nhưng đã kịp để lại báo cáo về việc được Việt Minh cứu thoát, về phong trào lớn mạnh của Việt Minh và bày tỏ tình cảm sâu sắc với Việt Minh và cá nhân Bác Hồ. Như vậy là mục đích qua Sao để dặp Sê Nôn đã không thành. Tình thế một lần nữa trở nên quá khó khăn, nhưng Bác vẫn không “bỏ cuộc” mà kiên trì chờ đợi và tìm cách tiếp cận trong hy vọng monh manh. Sự kiện Sao nhảy dù và được Việt Minh giải cứu có lẽ chưa đủ gây ấn tượng mạnh với các tướng lĩnh Mỹ tại Côn Minh vì trước Sao đã có 2 phi công Mỹ được giải cứu trên lãnh thổ Việt Nam, mà cuộc giải cứu mới nhất là ở Hải Phòng vào tháng 10/1944, một máy bay Mỹ bị bắn rơi ở Hải Phòng, viên phi công tên là Ray Marshall nhảy dù, được một người nông dân cứu thoát, đưa từ Hải Phòng về Long Châu. Trong thời gian chờ đợi Bác đã tranh thủ gặp gỡ kiều bào ở Vân Nam, nắm tình hình hoạt động của các tổ chức, cá nhân yêu nước đang hoạt động tại Côn Minh. Người cũng thường xuyên lui tới phòng thông tin chiến tranh (OWI), tìm hiểu và nghiên cứu tài liệu. Raveholt, phóng viên chiến tranh có mặt tại Côn Minh kể: “Ông Hồ vẫn ở đâu đó và vẫn tới phòng thông tin chiến tranh tại Côn Minh để đọc tạp chí Time và bất cứ tài liệu nào mới khác mà họ có. Ông bắt đầu hay lui tới OWI từ mùa hè năm 1945, đọc các tin chiến sự và đàm đạo với những người Mỹ ở đó. OWI rất ấn tượng bởi vốn tiếng Anh, sự thông tuệ và mối quan tâm rõ ràng của ông Hồ với nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh”.
Và tại OWI Sác lơ Phen (Charles Fenn) đã xuất hiện. Cái bắt tay của Hồ Chí Minh với Phen đã khởi động lại việc xúc tiến thiết lập quan hệ Việt Mỹ - công việc mà Sao chưa kịp làm vì phải trở về Mỹ trước khi Hồ Chí Minh đến Côn Minh. Sác lơ phen là thành viên OSS - cơ quan tình báo chiến lược Mỹ (tiền thân của CIA) - ông sinh năm 1909 tại Anh, di cư sang Phi La Đen Phi A, từng là phóng viên ảnh tại Trung Quốc của hãng AP - là người trực tiếp điều khiển nhóm tình báo đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam khi đó. Cấp hàm của ông ta chỉ là Trung úy, nhưng quyền hạn, uy tín, trách nhiệm của ông ta lớn hơn nhiều. Phen đã kể lại cuộc gặp đầu tiên vào ngày 17/3/1945: “Hồ Chí Minh tới gặp cùng một người trẻ hơn là Phạm Văn Đồng (có lẽ phen đã nhầm với ông Phạm Việt Tử, cán bộ cách mạng đang hoạt động ở Côn Minh, thường cùng đi với Bác Hồ trong các cuộc đàm phán với người Mỹ - Hoàng Quảng Uyên). Hồ Chí Minh cho biết đã từng hội kiến với Hall, Glass và Desihou, ba quan chức của OSS, nhưng kết quả chẳng đi đến đâu”. Cuộc gặp hôm đó không đạt được kết quả cụ thể nào nhưng đã để lại cho Phen “rất ấn tượng bởi cách nói chuyện khúc chiết và sự điềm tĩnh như đức phật của ông Hồ Chí Minh”. Điều đó đã góp phần dẫn tới cuộc gặp giữa Trung tướng Claiơ Sê nôn (Claire chennault) - tư lệnh không đoàn 14 của Mỹ đóng tại Côn Minh với Hồ Chí Minh ngày 29/3/1945. Phen đã ghi lại buổi gặp gỡ này trong nhật ký: “Chennault nói với Hồ Chí Minh rằng ông ta rất cảm kích trước việc viên phi công được cứu thoát, Hồ Chí Minh đáp, ông luôn vui lòng giúp người Mỹ và đặc biệt là tướng Chennault - người mà ông ngưỡng mộ. Họ trao đổi về không đoàn hổ bay. Chennault rất hài lòng vì Hồ Chí Minh biết tới nó, chúng tôi nói đến chuyện cứu sống thêm nhiều phi công nữa… Hồ Chí Minh nói ông muốn một tấm ảnh của Chennault. Chẳng có điều gì Chennault  thích hơn là tặng ảnh của mình vì vậy ông ta nhấn chuông và Doreen (thư ký của Chennault) bước vào. Đúng lúc đó, một cô gái khác đưa tới một tập ảnh bóng loáng cỡ 8 x 10. “Ngài chọn đi” - Chennault nói. Ông Hồ lấy một cái và hỏi liệu Chennault có thể vui lòng ký vào bức hình không? Doreen đưa ra một chiếc bút packer 51 và Chennault viết vào mặt sau ảnh: “Thân ái, Claire L. Chennault”. Ra khỏi văn phòng của Chennault chúng tôi kéo nhau đi trong bầu không khí sống động của Côn Minh”.
Kết quả cuộc gặp là người Mỹ sẵn sàng ủng hộ Việt Minh thiết bị liên lạc (cùng người sử dụng), vũ khí, thuốc men (và cả tiền nữa). Sê Nôn đã tặng Hồ Chí Minh 6 khẩu súng ngắn, một số thuốc men, một khoản tiền. Hồ Chí Minh cám ơn, chỉ nhận thuốc men, vũ khí. Không nhận tiền. Những món quà tặng đã được chuyển dần về Việt  Nam bằng đường bộ và đường không. Vào tháng 7/1945 nhiều quân nhân Mỹ đã nhảy dù xuống Tân Trào cùng quân trang, quân dụng đủ trang bị cho một đại đội. Đại đội  Việt Mỹ được thành lập ngay sau đó do Đàm Quang Trung làm đại đội trưởng, Tho mas làm tham mưu trưởng, tiến về tham gia giải phóng Thái Nguyên , rồi tiến về Hà Nội… Kết quả có vẻ “khiêm tốn” này, sau đó đã trở nên rất quan trọng trong mối quan hệ Việt Mỹ.
Kết quả như thế không phải là quá ít. ở đây, không thể đòi hỏi Sê Nôn tuyên bố này nọ, “công nhận” Việt Minh, đứng về phe đồng minh chống phát xít. Ông ta không đủ thẩm quyền, nhưng những thỏa thuận cùng sự giúp đỡ trên thực tế đã chứng minh một điều: Việt Minh là lực lượng chống xâm lược duy nhất của Việt Nam mà Đồng Minh (thông qua không đoàn số 14 của Mỹ) có thể cộng tác vì cuộc đấu tranh chung. Gián tiếp xác nhận Việt Minh thuộc phe đồng minh chống xâm lược, điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định trong bản Tuyên ngôn độc lập lịch sử đọc ngày 2/9/1945: “Một dân tộc đã anh dũng chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan dạ đứng về phe đồng minh chống phát xít  mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”. Xét trên khía cạnh đó, mối quan hệ Việt - Mỹ (xa hơn, rộng hơn là mối quan hệ giữa Việt Nam và Đồng Minh) được thiết lập tại Côn Minh là một thắng lợi ngoại giao của Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, tiếc rằng mối quan hệ đó tồn tại quá ngắn do lợi ích lớn của Mỹ chi phối, khiến Mỹ đã chọn con đường khác!
Mặt trận ngoại giao mà Chủ tịch Hồ Chí Minh mở ở Côn Minh khởi đầu từ việc giải cứu Trung úy Sao tới những hành xử tài tình của Người đã để lại những ấn tượng sâu sắc cho nhiều người Mỹ. Sê Nôn nhìn nhận cuộc giải cứu hết sức tích cực, ông ta đã báo cáo cấp trên rằng: “Sự an toàn tức khắc và vụ tẩu thoát sau cùng của Shaw là nhờ một tổ chức bản xứ tên là Đông Dương độc lập hội. Tôi nhiệt liệt ủng hộ việc duy trì mối quan hệ tốt đẹp với bất kỳ tổ chức nào tại Đông Dương thuộc Pháp giúp đỡ một cách có hiệu quả việc giải thoát lính Mỹ, có thể yêu cầu sự trợ giúp cho nước đó, bất chấp thái độ chính trị của họ”. Và Sê-Nôn nhấn mạnh: “Đối với Việt Minh, việc giải cứu Shaw thực sự là chiếc chìa khóa thần kỳ”. Còn Phen, ngay từ lần gặp đầu tiên với Hồ Chí Minh đã thực sự  “tâm phục, khẩu phục”: “Rõ ràng Hồ Chí Minh đã trở thành bậc thầy trong giao thiệp với người Mỹ, thậm chí cả những người Mỹ gốc Anh”. Và rằng “buổi sáng hôm đó tôi cảm thấy đôi cánh của bậc thiên tài đã chạm vào tôi”. Và Phen cũng không quên đưa ra một nhận xét mang tính hình tượng: “Cuộc giải cứu Trung úy Shaw là chiếc chìa khóa thần kỳ mở toang cánh cửa kiên cố”.
 Sao - chiếc chìa khóa thần kỳ, theo cách nói của Sê-Nôn và Phen nếu không có con mắt của bậc thiên tài Hồ Chí Minh nhận ra thì giá trị chẳng là bao nhiêu. Nhìn ra chiếc chìa khóa thần kỳ đã là tài tình nhưng tài tình hơn là dùng chiếc chìa khóa đó như thế nào để mở được cánh cửa vào lâu đài tráng lệ của mối bang giao tầm quốc tế. Hồ Chí Minh đã làm được, làm tốt việc đó. Lịch sử càng ngày càng chứng minh rõ điều đó.
Sáu mươi nhăm năm, ngoảnh lại!
Sáu mươi nhăm năm đã trôi qua kể từ ngày Sao nhảy dù xuống Nà Thúm (Cao Bằng) trở thành “món quà”, “giấy giới thiệu”, “giấy thông hành”, “chiếc chìa khóa thần kỳ”… để Chủ tịch Hồ Chí Minh thiết lập mối quan hệ Việt - Mỹ, tôi đi tìm những nhân chứng còn sống như ông bà Hoàng Tuấn Sơn - Đàm Thị Sáng, Đoàn Văn Lâm… và cả những “nhân chứng” tài liệu trên sách báo. Một buổi sáng, tôi nhờ ông Lâm, bà Hoanh, những người tận mắt nhìn thấy máy bay rơi và phi công nhảy dù, chỉ đích xác địa điểm máy bay rơi, ông bà đưa tôi ra đám ruộng của nhà ông Đoàn Ngọc Lệnh (bí danh Bình Dương) chỉ vào đám ruộng lúa đang lên xanh mơn mởn: “Máy bay rơi chỗ này”. Chỉ thế! Không hơn! 65 năm rồi còn gì sót lại? Đám ruộng nhỏ này ngày trước nằm sát bìa rừng rậm, nay con đường quốc lộ đi qua chỉ cách có 200 mét. Tôi đứng trên bờ ruộng khá lâu mà không biết mình định tìm gì, định kiểm chứng cái gì! Tôi đến chùa Kỳ Sầm, đi ra phía sau chùa tìm nơi ngày xưa Việt Minh “dấu” Sao ở đó, cũng chẳng còn bụi rậm, cây cao nào, tất cả đều quang quẻ. Tôi lại đi ra bờ con sông Mãng nhìn những bè mảng đang trôi để tìm lại hình ảnh chiếc bè mảng đã từng chở Sao từ Nà Tanh lên Lam Sơn - chẳng thể tìm được! Nhưng có sao, những chiếc mảng ấy đủ để tôi lùi lại 65  năm trong tưởng tưởng. Vâng tất cả chỉ là tưởng tượng, nhớ lại mà thôi.
Có một điều gần như trở thành bản chất cố hữu của người Cao Bằng “Làm được nhưng nói không được”. Có thể trên mảnh đất Cao Bằng có quá nhiều sự kiện, di tích liên quan đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì một sự kiện nhỏ như việc máy bay Mỹ rơi, phi công nhảy dù trôi dần vào quên lãng là chuyện bình thường. Chẳng cần cắm mốc, dựng bia, phục dựng trên thực địa và cả trên sách báo!?
Còn người Mỹ thì sao? Họ không quên. Bằng chứng là vào năm 1993 - người cháu của Trung úy Sao, lúc đó 38 tuổi, đã đến Bản Ngần, đến chùa Kỳ Sầm tìm những dấu tích xưa, những ân nhân của người ông, để làm một điều gì đó nhưng chẳng gặp được một ai! Kể cũng lạ thật! Người cháu chỉ gặp ông Bùi Đức Ga người coi chùa để hỏi chuyện và tặng 10.000 đồng Việt Nam (lúc đó mua được mấy tạ gạo). Bố ông Ga là ông Bùi Châm là người coi chùa vào lúc Sao nhảy dù.
Còn Phen - người trực tiếp làm cầu nối cuộc gặp Hồ Chí Minh với Sê-Nôn, trực tiếp tham gia thực hiện các thỏa thuận Việt - Mỹ đã có chuyến trở lại Việt Nam sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ (1995) đã có cuộc gặp gỡ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp để hồi tưởng những ngày khó khăn trước Cách mạng Tháng Tám 1945 với câu chuyện giải thoát Trung úy Sao năm 1944. Rồi sau đó là cuộc gặp tại Mỹ giữa 2 nhóm các cụ cựu binh thuộc OSS và cựu binh Việt Minh để ôn lại lịch sử trước một cử tọa đông đảo… và rồi những người đã “can dự” vào sự kiện cuối năm 1944, đầu năm 1945 như Pátty, Thomas, Frans Tan, Mác Shin… đều đã viết sách về sự kiện đó với những ấn tượng sâu sắc với sự nuối tiếc: Giá như thời ấy, người Mỹ nhìn nhận đúng Việt Nam, Hồ Chí Minh thì đã không có cuộc chiến khốc liệt 30 năm giữa 2 dân tộc có thời đã là đồng minh của nhau.
Ngày nay, sau sáu mươi nhăm năm có nên gợi lại, có nên cắm một cái mốc trên thực địa ghi nhận, lưu giữ sự kiện khởi đầu quan hệ Việt - Mỹ (hoặc cao hơn là nơi khởi đầu nền ngoại giao cách mạng). “Đề xuất” như vậy có vẻ viển vông (và hồ đồ nữa). Nhưng có sao! Trong cái viển vông, hồ đồ đó ít ra cũng có 1/1000 là thực tế, là có giá trị. Mà biết đâu 1/1000 đó còn có  giá trị hơn, đúng đắn hơn 999/1000 còn lại. ấy là sự mầu nhiệm của cuộc đời.
Cao Bằng ngày 15/9/2009
     Hoàng Quảng Uyên
Bài tham gia cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.