(TBKTSG) - Từ đầu thế kỷ 20, một trí thức nổi tiếng là Hoàng Cao Khải trong cuốn Việt sử yếu (viết năm 1914) đã nhận xét rằng bao đời nay, người Việt mình thường tỏ ra thạo sử Trung Quốc hơn sử Việt. Từ các sĩ phu và quan lại, tình hình này lan ra đến đông đảo dân chúng.
Có thể giải thích hiện tượng này bằng chế độ thi cử ngày xưa. Người ta chỉ cho thi Bắc sử. Và các trường học - dù là chốn Quốc tử giám của triều đình hay lớp học tự phát của một ông đồ nghèo ở một làng quê hoang vắng - đâu đâu người Việt cũng hình dung cuộc đời này qua các trang sử từ đời Trụ Kiệt đến đời Đường Tống...
Trong khi đó thì bên phần Nam sử, một vài bộ như Toàn thư, Cương mục, Việt sử tiêu án, Lịch triều tạp kỷ... mà ngày nay ta tự hào, thật ra là quá ít ỏi và chưa bao giờ được mang lưu hành rộng rãi và đưa ra giảng dạy.
Đến thời chúng ta, tình hình lại đi theo một hướng khác, nhưng kết cục vẫn như xưa.
Những bộ sử thời nay do Nhà nước chỉ đạo biên soạn. Sự định hướng về dân tộc tỏ ra quá mạnh, thậm chí tôi còn muốn nói thẳng là lâu nay chúng ta chẳng chú ý gì đến lịch sử các dân tộc khác, và đó là một nhược điểm, nó hạn chế ngay sự hiểu biết của chúng ta khi muốn quay về nhận diện chính mình.
Thế nhưng tại sao thanh thiếu niên cũng như nhiều người lớn tuổi vẫn thuộc, và qua phim ảnh, thấy thích sử Tàu hơn sử ta?
Nhiều người cho rằng sở dĩ như vậy là vì người Trung Quốc có nhiều tiền hơn, làm ra những thước phim mùi mẫn hơn.
Không, không phải vậy, hoặc lý do chủ yếu không phải vậy.
Cái lỗi trước hết là ở chính những cuốn sử đã viết, trong đó hạt nhân là khái niệm sử mà chúng ta đang sử dụng.
Ở những trang sử Trung Quốc, không chỉ có những ông vua, khi là minh quân khi là bạo chúa chuyên chế, như Càn Long, như Tần Thủy Hoàng, mà còn có Tào Tháo gian hùng, Bao Công hiểu rõ tình đời đen trắng, Kỷ Hiểu Lam chăm chỉ học hành, Bạch Cư Dị sau khi đổi việc quan được dân chúng lưu luyến đưa tiễn... Đủ loại sắc thái nhân văn khác nhau nối tiếp hiện ra trong bộ mặt con người Trung Hoa, được vẽ trong những trang sử ấy. Và đằng sau đó là hình ảnh của cả xã hội trong suốt chiều dài thời gian mà mặc dù chúng ta khi thì căm ghét, khi thì ghê rợn, song bao giờ cũng thấy hấp dẫn, đã biết rồi còn muốn biết nữa.
Quay trở lại với những gì được viết trong các bộ sử Việt Nam, mà khuôn mặt tiêu biểu thì thấy rõ nhất trong các sách lịch sử đang dùng ở các trường phổ thông và đại học. Đây tôi không nói về những gì đã xảy ra trong đời sống lịch sử ngàn năm của dân tộc, tôi chỉ muốn nói cái nó còn được ghi trong sách vở và truyền tụng giữa các đời.
Ở những trang sử ta viết cho ta, trên cái nền là một ít sự kiện nghèo nàn, không có những con người mà chỉ có những hình nhân với một vài lời lẽ, hành động đôi khi cũng ấn tượng, nhưng quá nghèo nàn, đơn sơ. Đọc những trang viết khô khan cằn cỗi đó, thật không hình dung ra trong hàng chục thế kỷ qua, cộng đồng chúng ta đã ăn ở, sinh hoạt ra sao, quan hệ với nhau thế nào. Lại càng không thể từ đó rút ra những gợi ý về kiếp làm người của mình hôm nay. Bởi những bài học mà người viết sử gửi kèm chỉ là những kiến thức chính trị nông cạn, hời hợt, đến với người ta theo lối áp đặt gượng gạo.
Sức phản cảm mà nó gây ra trong lớp trẻ thật ra là điều nhiều người đã thấy từ lâu rồi, chẳng qua tất cả cố tình làm ngơ vì biết rằng vô phương cứu vãn.
Cái lỗi không phải chỉ là do mấy người soạn sách giáo khoa. Cái lỗi ở đây là của những người làm sử. Và suy đến cùng là sự hạn chế, nếu không muốn nói là nghèo nàn, kém cỏi trong ý thức lịch sử của cả xã hội.
Vấn đề là ở tư duy lịch sử của người Việt.
Chúng ta là một cộng đồng mải chinh chiến hơn là xây dựng. Trong quá khứ, chúng ta dành quá ít thời gian và tâm trí để suy nghĩ về chính mình, tìm sự thật về chính mình... Đó không chỉ là tình hình có thật trong cuộc sống của người Việt từ lúc khởi nguyên và kéo dài suốt vài trăm năm gần đây, mà cũng là của thời đương đại.
Trong hoàn cảnh nước sôi lửa bỏng của chiến tranh và cách mạng, nền sử học vốn rất còi cọc yếu đuối hôm nay chỉ dồn sức vào làm cho được nhiệm vụ trước mắt là giáo dục mọi người sẵn sàng ra trận, chứ sức đâu mà đáp ứng nổi cái nhu cầu tự nhận thức, cũng tức là nhu cầu soi lại quá khứ để xác định tương lai.
Ngay trong cái phần tốt đẹp nhất của nó, nền sử học mà chúng ta có cho đến hôm nay là một thứ sử học của tồn tại mà không phải là một thứ sử học dành cho một cộng đồng muốn phát triển. Tóm lại là vậy.
Cái việc lớp trẻ hiện nay từ chối sử học thật ra có một tác dụng tích cực. Đã đến lúc chúng ta phải nghĩ tới một thứ sử khác, sinh động hơn, có hình ảnh con người nhiều hơn. Nghịch lý cuối cùng chỉ là trong khi những đòi hỏi đã cấp bách lắm rồi, thì những điều kiện cần thiết không biết bao giờ mới hội tụ đủ.