Trang chủ » Tản văn

SOS Sông Trèm

Đường Văn
Thứ hai ngày 24 tháng 12 năm 2012 7:22 PM


(Tản văn)

Quê hương tôi bên dòng sông Nhuệ,
Bãi dâu mươn mướt xanh bờ…
                       (Lời bài hát: Người con gái Việt (1958). Nhạc: Lân Tuất; Lời: phỏng thơ: Anh Thơ)
 
 Bao lâu nay, tôi vẫn tưởng đó là sáng tác của Đỗ Nhuận hoặc Đoàn Chuẩn… viết từ thời tiền chiến hoặc kháng chiến chống Pháp. Và tôi cũng chưa bao giờ thuộc quá 2 câu đầu! Cho đến khi xem chương trình Sao mai – Điểm hẹn (2007), nghe giọng nam cao Lê Anh Dũng hát rất hay bài này; lại đến lần tranh luận vụn với ông bạn văn cùng làng… vào Google tra cứu, mới tường: ca sĩ lừng danh đầu tiên thể hiện bài ấy là Trần Khánh. Còn dòng Nhuệ Giang, thì hiển nhiên, đã gắn bó với tuổi thơ tôi biết bao ấm lạnh, ngọt bùi…
 Sinh thời, có lần bố tôi kể: Con sông Đào chảy qua phía tây làng Trèm được Tây (Pháp) cho thi công vào đầu những năm 10 - 20 thế kỷ trước, sau trận vỡ đê Liên Mạc năm 1915; (khi đó cụ chưa ra đời; cũng chỉ nghe thân phụ kể lại). Cầu Sông – Cống Liên Mạc bắc qua đầu nguồn sông Đào thì tác giả thiết kế là một nữ kiến trúc sư Pháp tài hoa. Cầu – cống được xây dựng vào khoảng 1924; không biết hoàn thành năm nào!? Tôi tò mò hỏi: - Thế tại sao người ta gọi là sông Nhuệ? Ông cụ cười, chậm rãi phân giải với thằng bé con tọc mạch: - Gọi thế là lầm! Vì sông Nhuệ là dòng sông trời đào (thiên tạo) cỡ trung bình ở đồng bằng Bắc Bộ, nối sông Hồng với sông Đáy, chảy qua tỉnh Hà Tây (cũ). Còn đoạn sông nhân tạo thẳng tắp, dài cỡ trên dưới 20 km, nối sông Cái (Hồng) từ ngã ba Chùa Hoàng (xã Liên Mạc) – xóm Ngõ Đồng (nay là thôn Đại Đồng, xã Thụy Phương), đưa nước sông Mẹ nhập vào sông Nhuệ phía trong mạn Hà Đông; điều tiết lưu lượng của 2 sông. Gọi là sông Đào, vì nó do con người tạo ra. Nhưng không hiểu sao và từ bao giờ đoạn, nhánh sông này lại được gọi luôn thành sông Nhuệ, nhập với sông Nhuệ?!  Ấy, chuyện đặt tên, chuyển tên, nhập tên…có khi lạ lùng thế đấy! Ví như tên Cầu Sông – Cầu (cống) Liên Mạc - Cầu (cống) Chèm… gọi thế nào cũng đúng, đều chỉ chiếc  cầu – cống đầu tiên trong hệ thống cầu – cống bắc qua sông Đào. Cái tên thực nôm na, dân dã: cầu bắc qua sông, gọn lại thành danh từ riêng Cầu Sông! - Nhà tôi ở gần Cầu Sông - Cống Trèm. Chỉ cần nói với khách lạ lần đầu hỏi thăm về làng tôi như thế, là đủ! Vừa cầu vừa cống. Trên cầu, dưới cống, lưỡng lợi, bề thế, chắc chắn mà trang nhã, duyên dáng. Cách đây hơn nửa thế kỷ, có anh sinh viên ĐHSPHN về thực tế lao động ở quê tôi 2 tuần, khi chia tay đã cảm tác, lưu luyến tặng lại một bài thơ dài tả cảnh quan làng Thụy. Đến nay, tôi vẫn còn lõm bõm 2 câu:
Cầu Liên Mạc, cái tên quen thuộc,
Cống  5 ô đưa nước sông Đào…
 Hồi kháng chiến 9 năm, thực dân Pháp cho xây án ngữ đầu cầu phía bên kia một cái boongke (bốt) kiên cố để ngày đêm lũ Tây trắng, Tây đen súng ống lỉnh kỉnh kiểm soát người qua lại, hòng chặn đứng sự thâm nhập của Việt Minh từ phiá Đăm, Kẻ, Mạc, Hoàng sang Chèm, Vẽ, Noi, Cáo... Bốt Cầu Sông, một thời trở thành mối đe dọa và cái gai cần phải nhổ trong mắt nhân dân và du kích 3 làng. Ít năm sau hòa bình, cái bốt bê tông cốt sắt nửa nổi nửa chìm ghê gớm ấy, bị dân làng san phẳng.
 Hằng ngày, không kể người đi đường thập phương, vài bốn lượt dân làng tôi đi, về qua Cầu Sông xuống dưới đồng làm lụng và lên làng, về nhà. Chiều chiều, tôi thường dắt con bò sừng cán bèo, mình hổ, đủng đỉnh đi chăn thả, lững thững qua cầu. Hôm thì chăn ở lòng sông bên kia, buổi lại cho gặm cỏ ở rệ sông bên này. Vấn đoạn chạc giang lên đầu, quanh cặp sừng nghềnh nghễnh, mặc chú bò mải mốt gặm những mảng cỏ xanh rờn nơi triền sông, tôi tìm một vườn sắn, hoặc bụi chuối râm mát, ngồi sệp trên cỏ, giở Tây Du hay Tam Quốc ra, đọc cho mấy thằng bạn mục đồng cùng trang lứa cùng xúm xít lắng nghe. Đọc - nghe mải mê đến nỗi có bận bò đi ăn quá xa, lạc xuống tận khu xưởng gốm chum chĩnh. Có lần bò lạc, phá nát cả  vườn dây lang của cụ Ba Kha, bị cụ bắt bò, bắt đền. Tất nhiên, chiều tối hôm ấy, bố tôi phải nói khó với cụ chủ, rằng sẽ dạy bảo cháu. Thật là con dại cái mang! Thằng bòi Tạo là tôi không ít lần đã bị bố quật vài roi, quắn đít. Nhưng cũng có buổi chiều cuội trời, tôi nằm ngửa trên đống đá hộc, ngắm trời, ngắm sông. Kìa, đám mây trắng quái nào đang ngẩn ngơ bay? Này, có con thuyền chở cát vàng của ai đang lặng lẽ, êm ả xuôi phiá cầu Noi, cầu Diễn? Thấy thơ thới mà bâng khuâng buồn, cái buồn tuổi mới lớn, không hiểu vì sao tôi buồn…! Có trưa nắng nóng, lũ quỷ sứ mục đồng chúng tôi nghịch ngợm, chơi đùa trận giả trong vườn phi lao bên kia sông. Chơi chán, nhảy xuống sông bơi lội, bắt cá, mò trai ì ùm. Lại nhớ sáng mưa chăn bò cùng anh bạn lớn tuổi mê thơ. Hai anh em để bò ăn dọc rệ sông, trong tầm mắt, rồi chui vào lều vó bè của một lão ngư cùng xóm nằm chơi, trò chuyện. Anh bạn bỗng cất giọng khàn đục, ngâm nga mấy câu thơ Bầm ơi!(Tố Hữu): Mưa phùn ướt áo tứ thân/Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu! Hai gã chăn bò trông ra màn mưa xuân giăng giăng kín mặt sông, che mờ cả Cầu – cống Liên Mạc già nua, nhìn từ hạ lưu. Lòng trẻ chợt nao nao, ngùi ngùi, dâng dâng nỗi buồn, xót xa thương mẹ mình chẳng khác chi bà bầm Phú Thọ thời chống Pháp. Kỷ niệm tuổi thơ gắn với sông Đào - sông Nhuệ, với Cầu - cống Trèm - Liên Mạc, với tôi, càng nhớ càng nhiều, càng buồn càng nhớ. Khó kể, viết hết trong một bài tản văn – đoản văn như thế này. Âu cũng là tiện đâu nhớ đó, ghi đó… mà thôi!
 Chỉ mấy chục năm, từ tuổi niên thiếu đến trưởng thành của tôi, cảnh quan vùng sông Đào - sông Nhuệ đã trải qua biết bao biến đổi. Xa xăm, cuối những năm 50, đầu 60 thế kỷ trước, bờ sông bên này mọc lên trạm bơm trung thủy nông Thụy Phương đồ sộ, hiện đại nhất vùng, có lẽ chỉ kém đại thủy nông Bắc Hưng Hải bên Xuân Quan (huyện Gia Lâm). Nhìn 4 cỗ máy bơm điện, môtơ đặt đứng, ống dẫn nước to đùng, không bằng cao su như vòi voi mà ghép bằng cống bê tông, đường kính hơn 1m, chạy vo vo. Nước từ sông chảy vào gian bể ngầm dưới đáy, luồn chéo lên ngầm dưới mặt đường, ùa vào cửa mương chứa cuồn cuộn, ùng ục, ngầu phù sa mát lạnh,… thật thích mắt và khâm phục. Mương dẫn dòng chảy qua thôn Đồng, qua Cổ Nhuế, vào Mễ Trì, tỏa sang Hà Tây rồi xa đâu nữa… tới điểm tận cùng của hệ thống tưới tiêu?! Tiếp liền là sân kho HTX nông nghiệp Hải Phong, ngày mùa vàng rộm những đống lúa, đống rơm ngất nghểu. Tiếng đập lúa lên cối đá chàn chạt, nhịp nhàng. Mấy năm sau là tiếng máy tuốt phì phì, ầm ầm. Thóc bay rào rào, thơm nức. Điện đèn tròn sáng rực. Rổn rảng tiếng cười nói, trong những buổi làm đêm, chia lúa, bình công… khí thế làm ăn tập thể XHCN ở làng tôi (và nông thôn khắp miền Bắc hồi ấy vui lắm, phấn khởi lắm!). Không ít những đêm trăng tỏ, trăng mờ, lũ trẻ con nghịch ngợm ma lanh tìm mọi cách chui lủi, trốn vé vào xem phim (chiếu bóng) hoặc văn công cải lương các đoàn Chuông Vàng, Kim Phụng về diễn tại sân kho, bên bờ sông Đào. Từ Vụ án Từ Thu Ảnh (Trung Quốc ) đến Câu chuyện Trầm Thanh (Triều Tiên) qua Sông Đông êm đềm, Đất vỡ hoang (Liên xô)… Nghe Tiêu Lang và Kim Xuân, Mộng Dần và Tuấn Sửu diễn Kiều, Tùng Ngọc và Lệ Thanh ca Hồng Kiều diễm sử, lòng trẻ cứ mê đi! Sao mà hay thế! đẹp thế, thần tiên thế! Ước gì lớn lên, cũng xin vào văn công!!! Lại nhớ đến nao lòng mối tình đầu thời chanh cốm với cô gái làm dây nan làng bên, để trong đêm không ngủ, bỗng vụt lóe 4 câu mơ hồ, thoang thoảng:  
         Nõn nường, muôn muốt cắp cuốn nan thanh/
         Vu vơ chuyện ròn sân kho chiếu bóng?
          Mỗi đứa một đầu đan, đêm gió lộng/
         Cầu Sông mở cống, sóng dào tình xanh…
 Kế bên sân kho là khu chuồng trại chăn nuôi HTX, suốt ngày đêm ủn à ủn ỉn lợn to, lợn bé ngàn ngạt trong những dãy chuồng mới xây bốc mùi thum thủm kinh niên. Ống khói Nhà máy bê tông Trèm như chọc vào mây xanh, len qua những cụm khói trắng vật vờ. Sau Nhà máy Cơ khí đúc gang là cửa ngõ trường trung cấp Nông Lâm, mà khóa đầu tiên, có vị TBT Đảng CSVN về sau, từng là học viên ở đây. Hằng tối thứ bảy, lũ trẻ thường rủ nhau ăn cơm sớm, rồi kéo rồng rắn vào sân khu nhà 8 mái xem phim truyện, xem văn nghệ miễn phí. Tan về, bước thấp bước cao trong gió rét, trên con đường đất gồ ghề sống trâu dọc dải lòng sông, bãi chuối âm u, hoang vắng, cứ ghê ghê, rờn rợn. Nhưng rồi tối thứ bẩy tuần sau lại vẫn hào hứng rủ nhau đi xem tiếp. Bờ sông bên kia bắt đầu là dốc ông Bàn (tên ông công nhân bảo vệ Cầu Sông thời đó), khu cửa hàng mậu dịch mua bán tre, nứa, nhà máy chế biến phân Mêtan (CH4). Lối rẽ xuống Cầu Đồ, Đồng Vườn. Dọc bờ sông, những đống đá hộc xếp khối chữ nhật lớn phòng chống lụt khiến tôi liên tưởng đến bát trận đồ Khổng Minh. Dưới nữa: xưởng ngói - chum – chĩnh. Xa xa, vườn phi lao (vườn thông?!). Rồi chênh vênh Cầu Noi (Cổ Nhuế)… Sông Đào, cho đến những đầu những năm 80 thế kỷ trước, mùa nước lên, những lần mở cống nâu rực một màu nước phù sa cuồn cuộn, hăm hở như chú ngựa lồng phi mãi về phiá tây nam. Từ thu đông cho đến tận muà xuân năm sau, hầu hết thời gian là nước cạn. Liu riu, lăn tăn một dòng trong êm ái vẫn đủ nước cung cấp cho các mương, kênh thủy lợi 2 tỉnh Hà Nội, Hà Tây (cũ) và sinh hoạt của cư dân dọc đôi bờ. Tắm táp, giặt giũ, rửa rau, vo gạo, gánh nước về đổ vại, đổ chum dùng dần. Mỗi lần vung tay đập bèn bẹt chiếc chiếu cói vang mặt sông thì cũng thường văng vẳng trong tôi tiếng chày đập chăn, áo rét của cô gái Trung Hoa bên bờ Trường Giang, bên chân thành Bạch Đế, cửa ngõ vào đất Thục, trong bài Thu hứng của Đỗ Phủ: Thành Bạch chày vang bóng ác tà. Mỗi buổi trưa nắng gắt hay chiều nắng nhạt, lũ trai làng Trèm thích ùa ra sông Đào bơi lặn, rỡn đùa, thách nhau bơi vài vòng qua sông, thi nhau xem ai lặn xa hơn. Khi nằm ngửa trên mặt nước êm ái, mát lạnh, nhắm mắt, hướng lên bầu trời thăm thẳm, thì mấy câu thơ ríu rít Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh lại vang trong trí nhớ: Quê hương tôi có con sông xanh biếc/Nước gương trong soi tóc những hàng tre/Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè/Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng… Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi! Nhưng có lẽ sông Đào – sông Nhuệ quê Trèm tôi, dù trong đến mấy cũng không bao giờ mang màu xanh biếc như dòng Trà Khúc miền Trung mà con sông Đào miền Bắc trong trắng, trong hồng, màu trong mang dấu vết phù sa của Nhị Hà – sông Mẹ. 
 Sông Đào – sông Nhuệ xưa, dòng sông tuổi thơ thân yêu, êm đềm, lặng lẽ quê Trèm chúng tôi, dòng sông hiền hòa, xinh xắn hầu như chỉ còn trong ký ức thi thoảng buồn, nhớ miên man của lớp người già ưa hoài cổ!
 Nói vậy không có nghĩa là sau gần 1 thế kỷ ra đời và tồn tại, sông Đào - sông Nhuệ đã hoàn toàn biến mất hoặc hóa cánh đồng, nơi làm nhà cửa, nơi trồng ngô khoai như sông Lấp trong thơ Tế Xương. May chưa đến nỗi thế! Nhưng thật đau lòng, cũng như hàng chục dòng sông lớn, nhỏ trên đất nước ta, sông Nhuệ - sông Đào quê tôi đang ốm nặng, đang hấp hối vì ô nhiễm, đang quằn quại đau đớn, ngắc ngoải vì cạn nước, vì lòng đáy dâng cao phù sa, đất bùn, phế thải đủ loại… Đã từ lâu, sông Đào – sông Nhuệ tự mình lên tiếng báo động SOS!!! Ai đời sự lạ đã nhiều lần xảy ra: nước sông chảy ngược!  Dòng nước đục lờ, xam xám, thum thủm, tanh ngòm lại từ sông Nhuệ - sông Đào đổ lại vào sông Cái - sông Hồng! Thượng nguồn hóa hạ lưu?! Phải vì đã lâu lắm đoạn sông gần chùa Hoàng -cầu Liên Mạc vắng bóng những chiếc tàu cuốc nạo vét đáy, xoang xoảng, cần mẫn suốt ngày đêm? Rồi thay thế những chiếc tàu hút cát, bùn hòa nước lõng bõng, đổ tràn qua mặt đê thành mảng đồng cát chạy dài hết con dốc bên kia sông. Những tàu ấy đâu rồi? Để mùa thu đông nước cạn, sớm chiều, lũ trẻ con làng tha hồ chạy chơi, đá bóng trên đáy sông bùn phù sa cứng lại như mặt sân kho, sân nhà. Nhìn dòng sông bị thu hẹp, đầy ứ dần lên theo năm tháng, dù hai đoạn bờ thượng nguồn từ cống Liên Mạc 1 (cũ)  tới cống Liên Mạc 2 (mới) đã được kè, xây bằng xi măng - đá hộc, chênh vênh, mỏng manh đến thảm hại! Từ Cơ Khí xuôi đến Cầu Noi, cầu Diễn và xa hơn nữa … thì hỡi ôi! tới hàng trăm chiếc cống đại tuôn nước thải không qua xử lý, từ các nhà máy, xí nghiệp hai bên bờ chảy thẳng xuống sông, lúc ào ào, khi rỉ rích… ngày đêm, không ngừng. Những đàn cá hám ăn cuối cùng thích tụ lại nơi khoảng nước gần miệng cống kiếm mồi, thành mồi ngon cho mấy ông ngư phủ quê tôi quăng cần đợi giật. Nhưng những đàn cá dại dột ấy cũng ngày một thưa thớt dần vì người câu thì ít, vì nhiễm độc thì nhiều. Vắng hẳn những chiếc vó bè kẽo kẹt, ròng ròng nước, chiếc giỏ đại nặng chịch, ũng oẵng cá quẫy. Cụ chủ vó, mặt đỏ bừng vì rượu, vì phấn khích, lưng trần cánh phản nâu bóng, hai tay bơi bơi mái chèo tí xíu như 2 chiếc đũa cả khủng, quạt nước hai bên, lướt chiếc thuyền tôn hay thuyền nan bé tẻo teo từ lều ra vó đổ cá. Những cốn bè gỗ, tre nằm im lìm, dập dềnh theo sóng như đàn trâu mộng biếng lười nghỉ ngơi sau vụ cày xuân… Bây giờ thì quanh năm, bốn mùa, sông vắng ngơ, vắng ngắt. Trưa hè chang chang nắng như càng gắt bỏng, ngột ngạt hơn. Chiều thu mù mịt sương bay là là mặt sông lặng lẽ, buồn hiu hắt. Ô tô, xe máy vun vút qua cầu. Bụi mù. Đường đê 2 bên sông trải nhựa ápfan phẳng lỳ. Mỗi năm, vào những lần mở cống mùa nước lên, ngắm dòng nước đục ngầu, cuồn cuộn chảy ào ạt qua 5 cửa cống, vỗ ào ạt vào thành đá xi măng, (những đợt mở nước hiếm hoi), chợt thấy mát lòng mát dạ, cứ muốn để mãi những giọt nước li ti bắn vào mặt, vào tóc một cách sung sướng, ngây ngất. Còn suốt 12 tháng, chỉ lưu cữu dòng nước đen, bốc mùi xú uế, lười nhác, lờ đờ, ngái ngủ của dòng sông sớm già nua, cạn kiệt, đã và đang bị đủ loại chất phế thải bức tử làm cho ô nhiễm nặng nề. Nghe nói có dự án cải tạo môi trường, biến khu vực sông Nhuệ, đoạn thượng lưu thành khu du lịch sinh thái vùng Tây bắc Thủ đô. Nhưng mới chỉ là… nghe nói…! Hay đó cũng là một trong nhiều dự án treo - vấn nạn dự án hiện nay ở nước ta, không biết bao giờ mới được thực thi?! Nếu được, thì một trong những hạng mục đầu tiên, tôi hình dung, là phải nạo vét tận đáy, trả lại mặt bằng đáy nguyên thủy cho sông Đào – sông Nhuệ; và bịt ngay lập tức, triệt để, tất cả mọi cửa cống đổ ra sông, phạt thật  nặng nếu các chủ sở hữu, dù cơ quan nhà nước hay cá nhân, không tuân thủ nghiêm túc quy trình xử lý nước thải.
 Hơn chục năm lại nay, mỗi lần đứng trên lan can tầng 3, tầng 4 nhà mấy ông bạn, hướng về phía tây, ngắm dòng sông Đào - sông Nhuệ úa tàn, uể oải, mỏi mệt, đẫn đờ như người đàn bà sản hậu thiếu máu trong nắng nhạt chiều đông, nghe đâu đây hồn sông Trèm đang thiểu não, thều thào và thao thiết mấy tiếng: SOS! tôi lại thở dài, thầm bẻ câu ca dao cổ mà ngậm ngùi, băn khoăn… Song vẫn lại le lói tin tưởng vào điều kỳ diệu của Con Người, của Nhân dân, của Dân Trèm trong thế kỷ 21- thế kỷ của tri thức và sáng tạo, sáng tạo ra hiện tại và cả tương lai:
Bao giờ sông Nhuệ lại trong,
Để cùng sông Nhị vang lừng khải ca?!
Cưỡi thuyền lên tận Ngân Hà!...

Hạ tuần tháng 12 – 2012.
ĐV