Với anh
Sáu con, anh vẫn ra đi, rồi nằm lại
Giấy báo tử về kèm sơ đồ mộ
Thấm thoắt gần hai mươi lần giỗ
Nơi ấy đâu còn như xưa…
/
Tên lạ một dòng suối hoang, một góc rừng
Thành quen thuộc với họ hàng, cô bác
Những cây hương mỗi lần chị thắp
Chắc thơm cây cỏ nơi xa
/
Chị vẫn kể về anh câu chuyện vắn dài
Lúc còn sống lam làm công việc
Mà cái đói, cái nghèo không khi nào hết
Đêm nằm nước mắt tràn mi
/
Ngày ra đi anh dặn những gì
Ở huyện đội viết vài dòng cho vợ
Nhắc cố làm ăn để con no đủ
Lớn lên theo học bằng người
/
Vụ tháng năm, rồi vụ tháng mười
Đồng làng mình năm thua, năm được
Chị vẫn kiên tâm theo hợp tác
Bát cơm khi đầy, khi vơi
/
Các cháu học lên, khôn lớn giữa đời
Đứa nào cũng biết lo, biết việc
Biết thương mẹ, thương nhau, lễ phép
Tấm ảnh anh treo trang trọng giữa nhà
/
Anh đang ở xa
Nhân ngày giỗ em viết bài thơ nhỏ
Theo khói hương gửi lòng về đó
Viếng hồn anh…
Nhân ngày giỗ anh: 3/9/1986
(Trích trong tập thơ “Hương lá” XB năm 1988)
Gửi anh
Có thể ở Vĩnh Ô (*)
Cây đã khác
Nắng đã nhạt
Mây đã bay đi hết
Trời không còn xanh như buổi ấy anh nằm…
/
Tháng năm
Không còn những đợi chờ
Không còn những ước mong
Anh yên lòng ở lại
Chị yên lòng vắng anh
/
Một chút nhớ mong manh
Trong đêm không trọn vẹn
Lo toan bề bộn
Sáu con…
/
Bình yên
Từ khi anh nằm xuống
Không thể khát khao
Không thể đòi tìm
/
Đêm im lìm
Ngày vắng lặng
Nén hương…Chị khấn
/
Dẫu rằng ở Vĩnh Ô
Cây đã khác
Mây đã bay đi hết
Trời không còn xanh như buổi ấy anh nằm…
(*) Thuộc huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng trị nơi anh tôi hi sinh
(Trích trong tập thơ “Tháng ba đến lớp” XB năm 1994
Vô danh
Anh không về đi, chị còn đây
Gần chục năm phải men giường tập đi như hồi bé
Bàn chân trần đồng cạn, đồng sâu, chợ Chuông, chợ Bụa…
Giờ tong teo xương thịt khô cằn
/
Anh không về đi, các cháu vẫn kia
Đứa lớn học hành trầy truội
Đứa tận trên rừng, đứa tận miền xa
Chị xót thương, cuối đời còn thơ dại
/
Anh không về đi…anh ở nơi nào
Đồng đội xưa ai quên, ai nhớ
Trong ngàn vạn tấm bia vô danh trên mộ
Đâu là anh tôi?
/
Ngày rằm, mùng một đặt đĩa hoa tươi
Nén hương thắp mỗi lần cúng giỗ
Em lại khấn anh trong đèn nhang mờ tỏ
Anh yên bình phù hộ cháu con
/
Đã hi sinh và biền biệt tháng năm
Cây cỏ, trời mây giữ anh nằm lại
Nỗi đau đi vào mãi mãi
Đi vào vô danh…
(Trích trong tập thơ “Một mùa hoa” XB năm 2003)
Thằng cháu
Chỗ đồng đội chôn anh
Gần bốn mươi năm ai nhận ra nữa
Chẳng còn ghi tọa độ
Chẳng còn bia mộ nào
Chẳng còn rừng, chẳng còn cây…
/
Cách mặt đất khoảng mấy gang tay
Anh còn lại những gì
Vài mẩu xương
Đất cuốn anh đi
Về cát bụi
/
Chẳng tìm thấy anh đâu
Cháu con lựa lòng an ủi
Mấy mươi năm gia đình ấm êm trở lại
Anh đã chịu yên nằm
Nơi nào đó…xa xăm
/
Đứa cháu đích tôn lấy vợ
Nó cười vui
Cứ để ông cháu nằm nơi ông cháu đã ở mấy mươi năm
Thương con cháu, hồn ông về phù hộ
Cho cả nhà…
(Trích trong tập thơ “Tạ ơn hoa hồng” XB năm 2007)
Đối diện
Bàn thờ kê trên đất
Ảnh thờ: Anh bộ đội binh nhất
Mũ, sao, quân hàm, quân hiệu đẹp tươi
Và nụ cười
Từ hơn bốn mươi năm trước.
/
Ngồi trước anh: Một bà lão già nua
Tóc bạc, áo nâu, gương mặt nhăn nheo
Người vợ
đã bảy mươi tròn
/
Giữa hai người:
Bảy cây nến, bảy điếu thuốc, bảy nén hương
Cháy
Đĩa xôi, con gà. hoa quả…
Những giọt nước mắt tuổi bảy mươi
Những lời cầu mong thảm thiết
Và bốn mươi năm đợi chờ, khắc khoải
Được đón anh về…
(Những ngày đi gọi vong anh ở Duy Tiên – Hà Nam 5/2011)
Anh về
Anh đi: Tuổi ba mươi
Anh về: Bảy mươi tư tuổi
Không đươc khênh linh cữu anh như bao nhiêu người già của làng
Con cháu nâng anh trọn đủ hai bàn tay bọc vải đỏ.
Những nén nhang cháy
Những giọt nước mắt rơi
Suốt dặm đường…
/
Hơn bốn mươi năm tha hương
Nơi anh nằm có đồi cây, suối nước
Có nắng khô rang không rõ những con đường
Có tiếng chim xa lắc
/
Hơn bốn mươi năm mắt chị đau dòng lệ
Chiu chắt nuôi sáu con
Vắt kiệt sức ốm nằm giường lê lết
Lại lần từng bước đi
Trong những cơn đau
Nhắm mắt còn mơ đón anh
/
Hôm nay anh về
Đồng đội những người còn, tóc bạc
Làng xóm quanh anh, bà con cô bác
Con cháu buồn vui, nước mắt, nụ cười
Thiếu chị
/
Điệu nhạc trầm hùng: Hồn tử sĩ
Một lần nữa tiễn anh…
( Tam Hưng những ngày đón anh về 5/2011