(Đọc kịch bản văn học Chuyện nàng Kiều
của nhà văn Nguyễn Hiếu- Nhà hát kịch nói VN dựng 2016
Kiệt tác Truyện Kiều – Truyện thơ Nôm của Đại thi hào Việt Nam Nguyễn Du (1765 – 1820) từ lâu đã được chuyển thể sang loại hình sân khấu dân tộc cải lương (Đoàn Chuông Vàng dàn dựng, với những nghệ sỹ gạo cội lừng danh thể hiện: Kim Xuân (Thúy Kiều), Tiêu Lang (Kim Trọng), Mộng Dần (Thúc Sinh, Tuấn Sửu (Từ Hải)… làm say mê, thổn thức bao trái tim khán giả cả nước). Nhưng dựa vào cốt Truyện Kiều mà viết thành kịch nói hiện đại thì, ở Việt Nam, cho đến nay, có lẽ Nguyễn Hiếu là người đầu tiên. Cần ghi nhận và biểu dương, trước hết sự mạnh dạn dám đương đầu với thách thức nghệ thuật khó khăn, phức tạp này. Tuy nhiên, tác giả chuyển thể cũng có sẵn những thuận lợi khách quan và chủ quan làm đà, khích lệ. Chẳng hạn: Truyện Kiều vốn là 1 tác phẩm tự sự - trữ tình có cốt truyện rất hấp dẫn và giàu tính kịch, bởi những mâu thuẫn - xung đột (cả bên trong và bên ngoài) ngày càng gay gắt hơn, những tình huống truyện – kịch căng thẳng, đầy bất ngờ, những nút thắt và cởi nút đột ngột và thú vị, những đối thoại và độc thoại thể hiện tính cách nhân vật và mâu thuẫn giữa các nhân vật, trong nội tâm nhân vật rất sâu sắc và phong phú… Rõ ràng, đó là những yếu tố thuận lợi khách quan mà không phải bất cứ tác phẩm truyện thơ Nôm trung đại Việt Nam nào cũng đạt được. Nguyễn Hiếu là cây bút đã có những thành tựu và kinh nghiệm viết kịch nói và chuyển thể tác phẩm tự sự sang kịch khá thành công. Chẳng hạn các vở: Chu Văn An – Người thầy của muôn đời, Hàng rào mồng tơi gãy rập, Tàu hoang… và gần đây là Mạc Đăng Dung – Ông vua làng chài, Án Dâm Đàm.
Nguyễn Hiếu, cũng như bao người đọc Việt Nam khác, đã, đang và sẽ còn yêu mến, say mê thơ Truyện Kiều của Tố Như từ thuở ấu thơ:
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày (Tố Hữu)
cho đến tuổi bạc đầu. Nhiều đoạn, nhiều câu thơ Kiều bất hủ đã găm sâu vào trí nhớ, vào tâm não anh đến mức thuộc nằm lòng.
Đó là những thuận lợi chủ quan giúp nhà văn chuyển thể thành công tác phẩm vĩ đại này.
Trong cảm nhận của chúng tôi, nghệ thuật kịch Chuyện nàng Kiều của nhà văn Nguyễn Hiếu đã có những đặc sắc gì đáng lưu ý?
1. Phát hiện, khai thác chủ đề và thể hiện tư tưởng chủ đề
Đó là xuất phát điểm và linh hồn của kịch bản chuyển thể này. Kết quả đúng sai, mới cũ sẽ tạo ra sự mới mẻ, hiện đại, nhưng vẫn liền mạch không đứt quãng với truyền thống ông bà, hay ngược lại, kịch bản văn học sẽ chỉ là cái bóng mờ không đầy đủ, lũn cũn chạy theo, ăn theo tác phẩm thiên tài? Trong Khúc hát nàng Kiều, Nguyễn Hiếu, theo tôi đã chọn đúng, nhắm trúng vào 1 trong những chủ đề trung tâm của Truyện Kiều, chủ đề mà từ khi ra đời cho đến nay, trong các giới phê bình chuyên nghiệp và không chuyên đã chưa khám phá, đánh giá và chú ý đúng mức, bên cạnh các chủ đề xã hội, tâm lý, thi pháp… đã được đào rất sâu; chủ đề đã giúp tác phẩm kịch của anh hướng tới một tầm khái quát mới, một cái nhìn, một quan niệm không mới về cái đẹp nhưng lại vẫn tỏa ra sức hấp dẫn, cuốn hút người xem, người đọc hôm nay, vì nó vừa mang tính nhân văn, nhân đạo vĩnh cửu muôn đời vừa mang đậm tính thời sự - xã hội như một hiện thực nhỡn tiền đang nhức nhối trên đất nước ta trong 2 thập kỷ đầu thế kỷ 21 và một khát vọng vị tha cháy bỏng vì tương lai con người.
Chủ đề trung tâm và xuyên suốt ấy đã được 2 lần nhấn mạnh trong lời hát giáo đầu và kết thúc của Dàn đồng ca dẫn truyện kịch:
Cái đẹp dù bị dập vùi,
Vẫn ngẩng cao như hoa chờ ánh nắng…
… Tình yêu luôn bị dập vùi,
Muôn cái đẹp vẫn tơi bời gió sương.
Chuyện xưa ngân mãi tiếng chuông
Cuộc đời mãi mãi hương thơm bốn mùa.
Tiếc là về lời văn câu cuối cùng còn chung chung, mòn sáo; nhưng ở đây tôi chưa bàn về nghệ thuật đặt lời ca mà chỉ muốn nhấn mạnh tới sự nhạy bén, sâu sắc của tác giả kịch bản trong việc lựa chọn chủ đề tư tưởng, tạo nên linh hồn, ngọn lửa mới trong tác phẩm của mình.
Kịch Chuyện nàng Kiều của Nguyễn Hiếu sẽ đốt cháy nhiệt hứng của khán giả và người đọc từ ngọn lửa ấy, rung động, lay động tâm can người xem từ ánh sáng ấy mà anh đã kỳ công nhen nhóm và thổi bùng lên trong suốt 20 cảnh kịch nối liền một hơi, không nghỉ. Đó là ưu điểm sáng tạo tiếp theo của tác giả mà tôi sẽ làm rõ ngay sau đây.
2. Lược bỏ, chọn lọc và sáng tạo cốt truyện – kịch và nhân vật
Nguyễn Hiếu không tái hiện toàn bộ cốt Truyện Kiều lên sân khấu kịch nói hiện đại. Truyện - kịch được bắt đầu bằng cảnh Kiều – Kim tình tự taị phòng văn mà Kim thuê bên cạnh nhà Kiều. Theo lời đề nghị của Kim, Kiều đề thơ vịnh tranh, gẩy đàn, Kim thưởng thức, bình phẩm. Hai người cắt tóc, thề nguyền dưới trăng…Kim Trọng tạm biệt Kiều, ra về để xin phép song thân. Thằng bán tơ xuất hiện…và kết vở bằng cảnh Thúy Kiều trên chiến trường tan hoang, nguyền rủa và vung tay, đuổi Hồ Tôn Hiến, đoạn quỳ xuống, ôm đầu Từ Hải khóc nấc lên, thở than, kể lể, vấn tội mình; rồi nàng vật vờ đi lang thang khắp sân khấu, lướt qua hầu hết các nhân vật từng xuất hiện từ đầu vở, trong tiếng hát vừa não nùng, ai oán vừa hết lời tụng ca cái Đẹp bị dập vùi vẫn bừng sen của Dàn đồng ca.
Như vậy, so với cốt truyện, nhà viết kịch đã mạnh dạn lược bỏ khá nhiều tình tiết, chi tiết, tình huống, nhân vật vốn có trong Truyện Kiều.
Chẳng hạn: trong trường đoạn mở đầu, giới thiệu gia thế nhà Kiều, cảnh chị em Kiều đi chơi tết Thanh minh – hội Đạp thanh, Kiều viếng mộ Đạm Tiên… Bỏ hẳn những cảnh: Kiều tự tận ở sông Tiền Đường, đi tu lần thứ hai với sư Giác Duyên, Kim Trọng tìm tung tích Kiều, cảnh đoàn viên hội ngộ sau 15 năm, đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ… Trong trường đoạn lưu lạc hết nạn nọ đến nạn kia, cũng lược bỏ không ít…
Tuy nhiên, trong cảm nhận của chúng tôi, khi đọc kịch bản, thấy sự lược bỏ ấy không những không làm ảnh hưởng đến đường dây cốt truyện chủ yếu của Truyện Kiều, không làm chúng bị xuyên tạc hay méo mó đi; ngược lại, làm cho cốt truyện kịch Thúy Kiều trở nên mạch lạc, trong sáng, tập trung và nổi bật hơn, giàu tính kịch hơn bởi những cảnh được nhấn mạnh, bằng cách cụ thể hóa lời thoại hoặc hành động của nhân vật, đào sâu tâm trạng các nhận vật chính.
Ví dụ: nhân vật Thằng bán tơ trong truyện rất mờ nhạt, chỉ được hiện ra qua 1 dòng đưa đẩy, bán tín bán nghi: Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ, thì ở đây, trong kịch bản, nó hiện ra lồ lộ: cười nói, đi lại, hành động huênh hoang, táo tợn và trơ trẽn trước mắt người xem, rất hấp dẫn và thú vị. Đặc biệt là các cảnh cuối 17, 18, 19, 20, là kết quả sáng tạo giàu cảm xúc và suy tư của tác giả. Mâu thuẫn giữa các nhân vật: Kiều – Từ, Kiều - Hồ Tôn Hiến…, mâu thuẫn trong nội tâm Kiều, Từ Hải càng trở nên sống động hơn, bất ngờ hơn và hợp lý, hợp tình hơn.
Trong truyện, Kiều chưa bao giờ đàn cho Từ Hải nghe (nàng mới chỉ đàn cho Kim Trọng nghe (2 lần), Mã Giám Sinh, Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến); nhưng ở đây, tác giả chuyển thể đã dựa trên một nét tính cách của con người Từ Hải: Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo (anh hùng – nghệ sỹ) để sáng tạo ra một tình tiết khá quan trọng: Kiều đàn cho Từ Hải nghe với những dẫn dắt khá hợp lý.
Người xem có thể sẽ ngạc nhiên không ít và chắc chắn sẽ có những ý kiến khác nhau về sự thêm thắt có chủ ý này. Riêng tôi cho rằng đó là sự sáng tạo nghệ thuật có cơ sở, mạnh bạo và mới mẻ, góp phần làm rõ hơn tâm hồn, tính cách của Kiều, Từ. Và nếu nhìn từ lôgich tình huống cốt truyện – kịch và đặc điểm tính cách nhân vật thì cũng không có gì khiên cưỡng, gò gượng.
Các tình tiết, chi tiết cốt truyện – kịch của Nguyễn Hiếu, về đại thể, vẫn nương theo dòng thời gian của cốt Truyện Kiều, dù đã lược đi không ít tình tiết, chi tiết, nhưng vẫn không thấy bị đứt đoạn, khó theo dõi mà đã phần nào khắc phục được sự thuật - kể, trình bày tỉ mỉ, phức tạp diễn tiến dòng sự việc của 1 tác phẩm tự sự để thể hiện (phục dựng) một cách cô đúc, tập trung hơn trong 1 tác phẩm sân khấu kịch cần và chỉ được phép trình diễn trong thời gian dài nhất khoảng 3 tiếng đồng hồ. Thành công của tác giả là ở đó.
3. Giữ được linh hồn và phảng phất giọng thơ Kiều trong ngôn từ đối thoại của các nhân vật
Để tạo được hiệu ứng nghệ thuật trên, Nguyễn Hiếu đã vận dụng linh hoạt, đúng chỗ, đúng người, đúng tình huống… 6 thủ pháp cơ bản sau, từ dễ đến khó, giản đơn đến phức tạp:
+ Trích nguyên văn 1 đoạn thơ Kiều.
Ví dụ: Kiều (cầm đàn, hát trước lầu Ngưng Bích): Buồn trông cửa bể chiều hôm… Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
+ Trích nguyên văn bằng cách ghép các đoạn thơ Kiều ở những vị trí khác nhau thành 1 lời liền mạch.
Ví dụ: Kiều hát: Tóc tơ căn vặn tấc lòng/Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương…/Chén hà sánh giọng quỳnh tương/… Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan (ghép 4 câu trong 3 đoạn khác nhau thành 1 đoạn lời nhân vật)
+ Lồng thơ Kiều (đoạn, câu, ngữ, từ … vào trong lời nói (thoại và đối thoại của nhân vật) một cách tự nhiên.
Đây là biện pháp đựợc sử dụng nhiều nhất với mức độ khá nhuần nhuyễn. Ví dụ:
Kim Trọng: “Vãn sinh này sẽ về xin với mẹ cha chọn ngày lành tháng tốt, sắm sanh sính lễ, sang thưa chuyện với song thân của nàng để chúng ta có thể mãi mãi ở bên nhau. Đã nguyền hai chữ đồng tâm/Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai!”
Hoặc Thằng bán tơ (giễu nhại): “Tóc tơ căn vặn tấc lòng/vầng trăng vằng vặc giữa trời/Song song hai miệng… Hề hề! Thề với chả thốt! Thằng đàn ông đi thì tình yêu cũng tếch!!!”
Mụ mối: “Em biết thầy (MGS) là phú gia địch quốc. Em chỉ muốn nói là… Hàng nhà em đây là chim sa cá lặn, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh. Ấy là chưa kể còn cầm kỳ thi họa đủ mùi, /Cung thương làu bậc ngũ âm… Món gì cũng thạo, nghề nao cũng sành!... đấy ạ!”
+ Lồng thơ Kiều với thơ của tác giả trong lời hát của dàn đồng ca.
Ví dụ: “Và trời xanh, trời xanh kia hỡi!/ Hễ thấy má hồng là lại đánh ghen!/Nên vẻ đẹp đi liền với sự nhỏ nhen,/Sự hiểm độc luôn đi cùng ước vọng… Trong tay có sẵn đồng tiền/Dẫu rằng đổi trắng thay đen khó gì? Người đẹp, người xấu, cứ theo vàng mà suy/Lòng tốt, sự bạc ác tính theo cân, theo lạng…”
+ Thú vị hơn nữa là ở nhiều câu thoại của các nhân vật không hề trích dẫn, lồng ghép 1 từ, 1 ngữ, 1 câu Kiều nào cả, mà vẫn thấy phảng phất, bàng bạc hơi Truyện Kiều, giọng Truyện Kiều. Điều đó chứng tỏ người chuyển thể đã thuộc Kiều, ngấm Kiều sâu lắm.
Ví dụ: Kim Trọng: “Nàng nhìn vầng trăng trên cao kia… Đêm nay trăng tròn quá! Vầng nguyệt trên trời cao xanh kia hãy chứng giám lòng đôi lứa;…” Kiều (cầm kéo cắt dải tóc): “Chàng cầm lấy! Món tóc này của thiếp thêm một lần chứng cho lòng thiếp. Dười trăng, hai ta hãy cùng quỳ xuống…”
Thúc Sinh: “Không! Ta đã quyết rồi! ta không thể rời bỏ được nàng. Chắc nàng không tin ta, chỉ rằng những lời ta nói là trêu hoa ghẹo nguyệt chăng?...”
Hoạn Thư: “ Phu quân ta đã về! (Chỉ dàn đồng ca): Đứa nào hé nửa lời thì ta bẻ, răng, rút lưỡi, nhớ chưa? …”
Kiều: “Thiếp thiển nghĩ: dẫu sao Hồ Tổng đốc cũng là tướng triều đình. Nay đã khuất thân như vậy, thì ta nên chấp thuận.”…
Từ Hải: “Được! Nể lời phu nhân, ta cho sứ giặc vào!..”.
+ Ngay cả một vài đoạn thơ do tác giả sáng tác, đứng riêng hoặc lồng vào lời thoại của nhân vật cũng đượm hơi hướng thơ Kiều.
Ví dụ: “Đời buồn, buông nửa câu ca/Buồn như ta với hồn ta giã từ/Bâng khuâng nhìn ánh trăng lu/ Chàng về là lúc thiên thu xa chàng/Mây vần vụ, buổi chiều sang/ Trời hiu hắt gió đưa tang tình mình/Tang tình, là tính tình tang”…
4. Mạnh dạn sử dụng những thủ pháp của nghệ thuật kịch nói hiện đại trong sắp xếp bố cục, trình bày sân khấu, nhân vật dẫn truyện, khán giả và xây dựng nhân vật kịch…
+ Không chia màn, cảnh, lớp, không sử dụng chuyển cảnh, chuyển màn bằng cách kéo màn, hạ màn hoặc dùng ánh sáng thay đổi (tắt, bật đèn)… Toàn bộ diễn tiến của vở kịch chạy liền một mạch từ đầu đến cuối, chỉ có 1 lần kéo màn và 1 lần hạ màn. Các cảnh nối nhau bằng tiếng của Dàn đồng ca đứng ngay trên sân khấu. (Chúng tôi đã căn cứ vào dấu hiệu hình thức này, tạm phân chia vở kịch thành 20 cảnh nhỏ liên tiếp để phân tích, bình luận).
+ Dàn đồng ca gồm hầu hết các nhân vật phụ (Đầy tớ, kẻ buôn người, mụ Mối, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Giác Duyên, kỹ nữ, Khuyển Ưng, Khuyển Phệ, Thằng bán tơ, Bạc Bà, bạc Hạnh, gia nô, dân thường, lứa đôi vãng cảnh trong tiết Thanh minh…), các nhân vật chính sau khi tạm dừng vai diễn… Tới lúc cần ra vai diễn, các nhân vật này lại tiến ra sân khấu diễn một cách tự nhiên, như thường. Vị trí đứng của Dàn đồng ca khá linh hoạt, không cố định, cứng nhắc một chỗ: phiá sau hoặc một bên (phải, trái), hoặc vòng quanh sân khấu, tùy từng cảnh, với các nhiệm vụ sau:
- Hát chuyển cảnh, bình luận tình huống truyện kịch
- Phẩm bình, tỏ thái độ, cảm xúc, tình cảm với nhân vật
- bằng cách hát, hát – nói, nói như đọc kệ, đối thoại với nhau, đối thoại với các nhân vật, đối thoại với khán giả…
Thực ra thủ pháp sân khấu này không có gì mới mẻ (được sử dụng từ thời Sêcxpia – Phục Hưng, hoặc ở Việt Nam xưa, trên các sân khấu chèo sân đình, không có màn phông, cánh gà; người xem vây quanh tứ phiá và đóng luôn vai trò (người đế, tiếng đế, đối thoại với nhân vật khi bắt đàu ra vai, khi đang diễn). Nguyễn Hiếu đã vận dụng thủ pháp này một cách sáng tạo. Sáng tạo của nhà viết kịch là ở chỗ:
- Góp phần xóa nhoà hoặc chí ít cũng giảm thiểu khoảng cách giữa khán giả và truyện kịch cùng các tình huống, nhân vật trong kịch. Truyện kịch (với ít nhiều hư cấu, tưởng tượng) cũng là chuyện đời thường trong thực tế xã hội.
- Đồng thời, công khai một phần công việc của diễn viên, đạo diễn, nhà văn viết kịch bản (trong các vở Mạc Đăng Dung, Án Dâm Đàm) trước khán giả. Chẳng hạn, diễn viên cũng bê ngai vàng, vác vũ khí của nhân vật ra, vào sân khấu. Nhà viết kịch có những lúc tự trình bày quan niệm viết của mình với khán giả đang xem kịch, trò chuyện với họ…
- Hoạt động tích cực và có chủ định của Dàn đồng ca làm cho vở kịch nói hiện đại trở nên dân chủ hơn, cởi mở hơn, trong tinh thần đối thoại, tương tác đa chiều, với khán giả, ngay trong quá trình thưởng thức vở kịch.
Bởi vậy, tôi cho rằng vai trò của Dàn đồng ca trong các vở kịch nói, kịch chuyển thể gần đây, trong đó có vở chuyện nàng Kiều, là một thủ pháp nghiệp vụ sân khấu kế thừa - sáng tạo có chọn lọc, nâng cao từ kịch cổ điển phương Tây và kịch hát truyền thống Việt Nam. Và tác giả đã bước đầu thành công.
+ Tiếng đàn Thúy Kiều:
Khác tiếng đàn của Thúy Kiều trong Truyện Kiều là ở chỗ, tiếng đàn Tỳ bà của người con gái đầu nhà họ Vương trên sân khấu kịch nói hiện đại được thể hiện trực tiếp, do chính tay Kiều gảy (tất nhiên là hình thức, cử chỉ của diễn viên nhái theo tiếng đàn thật của nhạc công ngồi dưới, trong dàn nhạc phụ họa), kết hợp với lời ca của chính nàng, lời phẩm bình của khán – thính giả (nhân vật và Dàn đồng ca).
Thủ pháp đó cũng góp phần không nhỏ làm cho chất trữ tình – nghệ thuật âm nhạc trong Truyện Kiều và chất hiện đại của kịch hài hòa và nâng nổi nhau hơn với vai trò âm giai chủ đạo. Chỉ tiếc người chuyển thể đã bỏ qua, không tái hiện những câu thơ tuyệt bút của Tố Như, khi cụ miêu tả tiếng đàn Thúy Kiều trong lần đầu tiên nàng đàn cho Kim Trọng nghe: Trong như tiếng hạc bay qua… Đục như nước suối mới sa nửa vời/Tiếng khoan như gió thoảng ngoài/Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa. Hoặc tiếng đàn nhỏ máu năm đầu ngón tay và thái độ kỳ dị, quái lạ và dung tục của Hồ Tôn Hiến, khi nghe đàn: Nghe càng đắm, ngắm càng say/Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình; (Tố Hữu bình: Nguyễn Du đã giết chết Sở Khanh bằng 1 từ lẻn và Hồ Tôn Hiến bằng 1 từ ngây!) … cần được sân khấu hóa một cách cụ thể hơn, tập trung hơn. Có thể làm thế nào để cảnh hiện ra thật gần (cận cảnh đặc tả như trong điện ảnh).
+ Xoáy sâu tâm trạng tạo thành mâu thuẫn bên trong của nhân vật trung tâm Thúy Kiều.
Đây là một trong những dụng ý nghệ thuật quan trọng của tác giả kịch bản khi anh đặc biệt tìm cách cụ thể hóa tâm trạng đầy mâu thuẫn của Thúy Kiều trong những tình huống khác nhau theo chiều hướng tăng tiến (tâm trạng ngay trong buổi đầu thề thốt với Kim Trọng, trong buổi lũ sai nha tới hành hung vơ vét, trong cuộc mua bán với họ Mã, trong cuộc đối mặt với họ Sở, trong nhà Hoạn Thư, trong quân trung Từ Hải, đặc biệt là trong cảnh cuối cùng, đối mặt với Hồ Tôn Hiến, bên xác thân Từ Hải. Nếu trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ dùng ít câu tả nhanh gọn cái tâm trạng rất đàn bà, rất con người đời thường ấy:
Lễ nhiều, nói ngọt, dễ xiêu… Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này/Mặt nào trông thấy nhau đây?... thì trong kịch, Nguyễn Hiếu cụ thể hóa, chi tiết hóa tỉ mỉ hơn nữa để Kiều tự bộc lộ tất cả sự hối hận sâu sắc, đầy đau đớn về sai lầm, tội lỗi lớn nhất của đời mình, thẳng thắn phơi bầy cái tử huyệt, cái gót chân Asin rất đỗi mong manh của nàng, và không chỉ của nàng, mà của cả giới đàn bà, của cả lòai người nói chung: Sa ngã, mắc lừa bởi không đấu tranh nổi với cái lòng tham lam khốn nạn của mình trước ánh vàng lấp lánh và những lời nịnh nọt, ngọt nhạt của kẻ thù giấu mặt giả nai…, thậm chí cả tâm lý cầu an hưởng lạc, ước mơ hão huyền được thụ hưởng cuộc sống vinh thân phì gia (do người khác hứa hẹn) rất tầm thường của con người.
Về tâm trạng nhân vật Từ Hải, tôi vẫn thèm được nghe vang vọng trên sân khấu đoạn thơ đầy tính kịch, tả cái xung đột dữ dội trong lòng con người anh hùng cái thế:
Râu hùm, hàm én, mày ngài,… Dọc ngang, nào biết trên đầu có ai!
đấu tranh quyết liệt với chính lòng mình, với lý tưởng sống suốt đời của mình, trong hiện tại và trong tưởng tượng, trước những lời thủ thỉ, nỉ non của người vợ đẹp mà chàng hết lòng yêu thương, kính trọng và tin tưởng:
Hàng thần lơ láo, phận mình ra chi! Sao bằng riêng một biên thùy/Sức này đã dễ làm gì được nhau/Áo xiêm ràng buộc lấy nhau/Vào luồn ra cúi, công hầu làm chi?!...
Quyết liệt đến mức ấy, nhưng rồi đành buông xuôi, chuồi theo tiếng gọi của tình tri kỷ, tình yêu mê muội, đã làm mờ hết lý trí và… cởi giáp, lại còn nhờ Kiều cất thanh gươm báu (chi tiết sáng tạo của NH), sẵn sàng… đầu hàng, phản bội lại chính mình!!!
Tâm trạng và cuộc đấu tranh nội tâm kinh khủng ấy của nhân vật kịch cần được tái hiện chân thực, sâu sắc hơn nữa, nhấn mạnh, gây ấn tượng mạnh hơn nữa, bằng những thủ pháp riêng của thể loại kịch, trên sân khấu kịch nói hôm nay, để người xem lại một lần nữa, tự ngẫm rằng: Những cuộc đấu tranh với chinh bản thân mình, để giữ vững được bản ngã và niềm tin lý tưởng của mình mới là cuộc đấu tranh cam go, khó khăn nhất. Muốn thắng kẻ thù, trước hết phải chiến thắng chính bản thân mình!
Tính nhân văn - thời sự của tình huống truyện – kịch này là ở đó.
Riêng đoạn độc thoại trước anh linh Từ Hải, đối mặt với Hồ Tôn Hiến, trên chiến trường còn ngút trời lửa khói và tanh nồng máu oan:
Vì thiếp, vì thiếp mà…! Thiếp không ngờ ở bên cạnh người anh hùng của thiếp mà vẫn sa vào cạm bẫy …Vì sự tham lam, đê tiện của mình, thiếp đã giết chết chàng, giết người anh hùng, giết ước mơ trong lành, giết vẻ đẹp bình dị nhất của cuộc đời này!
Trong cảm nhận của tôi, đó là một trong những đoạn độc thoại sâu sắc, được đặt đúng lúc, đúng chỗ, hay, xứng là một bổ sung đích đáng cho Truyện Kiều, làm rõ hơn mối mâu thuẫn tâm trạng đang giằng xé, đau đớn tột cùng, căm uất tột cùng, ân hận tột cùng của nàng Kiều – nạn nhân thê thảm - kẻ đồng phạm ngây thơ, gây nên sự thất bại và cái chết của người anh hùng đất Việt Đông. Sau sự kiện bi thảm này, Thúy Kiều phải tự tìm đến cái chết như một sự chuộc tội với người tri kỷ, như một sự giải thoát vĩnh viễn. Bởi với nàng, khi ấy, không còn lý do gì để tồn tại ở trên cõi đời! Sông Tiền Đường – mồ hồng nhan và hồn ma Đạm Tiên đang nóng lòng chờ đợi người bạc mệnh, cùng hội cùng thuyền về hội ngộ… Đó là một tất yếu.
***
Đọc (xem) vở kịch nói chuyện nàng Kiều của Nguyễn Hiếu, khán giả yêu Truyện Kiều, yêu thể loại kịch nói và tôi có thể còn không ít điều băn khoăn, chưa thỏa mãn, muốn đổi trao, góp ý cùng tác giả và đạo diễn.
Chẳng hạn: kết kịch như vậy đã thỏa đáng chưa? Có sớm quá không? Bởi vì tới đỉnh cao nhất và cũng là vực thẳm sâu nhất của đời Kiều là chấm dứt ở trùng trùng sóng nổi trên sông Tiền Đường mới thật là trọn kiếp hồng nhan. Nếu kết kịch Thúy Kiều ở đó, tôi cho là còn bi tráng, hấp dẫn và hợp lý hơn dừng vở ở cảnh chiến trường, với thân xác vừa ngã ra của Từ Hải, trước nụ cười đắc thắng, đê mạt của Hồ Tôn Hiến và đồng bọn.
Hoặc một số câu hát, câu thơ mà Dàn đồng ca thể hiện: hình ảnh, lời văn có phần sáo cũ, dễ dãi, gây cảm giác quá chênh lệch khi đặt cạnh những câu lục bát như châu ngọc, như gấm thêu hoa của Nguyễn Du.
Ví dụ: Tình làm nên niềm vui/làm nên hoa đẹp, trên đời đầy hương ….Cuộc đời mãi mãi, hoa thơm bốn mùa.
Những câu văn vần nôm na như thế cần được gia công, trau chuốt, sửa chữa hoặc mạnh dạn cắt bỏ, (mặc dù mục đích chủ yếu của nó là dùng để dẫn truyện, đưa đẩy.)
Hay một chi tiết nhỏ cũng cần được cân nhắc khi đưa vào kịch, bởi nó trái ngược hẳn với Truyện Kiều, gây phản cảm với người đọc, người xem: Giác Duyên tu ở Quan Âm các trong vườn nhà Hoạn Thư?! Theo tôi, nên bỏ hẳn chi tiết vẽ rắn thêm chân mà chẳng có tác dụng gì này!...
Và tôi rất lấy làm tiếc, rằng tại sao trong Dàn đồng ca lại không có mặt nhân vật Nguyễn Du, với vai trò người kể chuyện như 1 MC thượng hạng đặc biệt! để các nhân vật, tác giả chuyển thể kịch bản và khán giả hôm nay được kính ngưỡng và trực tiếp chuyện trò, giao lưu với bậc Đại thi hào đất Việt?!... (như chính Nguyễn Hiếu đã từng xử lý thành công trong vở kịch lịch sử: Mạc Đăng Dung – Ông vua làng chài, với sự xuất hiện của Sử gia, Kịch tác gia và Mạc Đăng Dung, Nguyễn Bỉnh Khiêm…)
***
Nhìn chung, kịch nói chuyển thể Truyện Kiều: Chuyện nàng Kiều của Nguyễn Hiếu là một kịch bản văn học được viết công phu, với tất cả tâm huyết nghệ sỹ và tình yêu, niềm say mê vô hạn của tác giả đối với Nguyễn Du vĩ đại và Truyện Kiều bất tử. Kịch bản đã đạt được những thành công mới mẻ, chắc chắn, rất đáng ghi nhận vào nền sân khấu kịch nói đương đại Việt Nam như bên trên chúng tôi đã phân giải đôi điều sơ lược.
Tin rằng, dưới bàn tay tài hoa của các đạo diễn, diễn viên,… vở kịch sẽ được dàn dựng và biểu diễn thành công trên các sân khấu nhà hát kịch nước ta trong thời gian sắp tới để thỏa lòng khát khao và chờ đợi những hình tượng đã từ lâu trở thành quan thuộc, kính yêu trong lòng khán giả: Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh, Giác Duyên,… để cùng:
Lạy Vãi Giác Duyên, lạy Vua Từ Hải, lạy Tiên Thúy Kiều!
thưởng thức và chiêm nghiệm một lần nữa, câu chuyện:
Trăm năm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau,…/ Chữ tài liền với chữ tai một vần…/, Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài,…Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng…
qua những chặng đường mười lăm năm lưu lạc của nàng Vương Thúy Kiều, nhằm toát lên triết lý Truyện Kiều – triết lý Nguyễn Du, lại được phục sinh trên kịch trường Việt Nam đang mạnh mẽ trên con đường đổi mới./.
15/9/2016. ĐV