Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

KHI THƠ DỞ LÊN NGÔI

Trần Mạnh Hảo
Thứ ba ngày 12 tháng 1 năm 2010 6:38 AM
 
TNc: Bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo là ý kiến phản hồi về cuộc thi thơ trên VNQĐ. Việc giải thưởng có những ý kiến đánh giá khác nhau là chuyện bình thường. Do vậy TNc đưa bài lên như một góc nhìn khác về cuộc thi và không nhất thiết là quan điểm của bản web.

( Báo động về một cuộc thi thơ giết thơ )
 
Cuộc thi thơ văn của tạp chí Văn Nghệ Quân đội hai năm 2008-2009 vừa được báo chí loan tải ( 7-01-2010) đã kết thúc và thành công rực rỡ. Thậm chí có trang web www.lethieunhon.com còn tung hô hai nhà thơ được giải A về thơ là Nguyễn Linh khiếu và Nguyễn Thanh Mừng là “hai trạng nguyên thơ” (!)
Công bằng mà xét, quả là cuộc thi thơ này đã “thành công rực rỡ” với bài thơ hay “Thời đất nước gian lao” của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến ( giải B) và chùm thơ hay ba bài của nhà thơ Nguyễn Thị Ánh Huỳnh ( giải C)  : “Trời đói chim”,”Mùa thu ảo”, “Sóng”…
Có lẽ, ban chấm giải cuộc thi thơ văn lẫy lừng này cân nhắc khá kỹ lưỡng nên giải truyện ngắn không có trạng nguyên, chỉ có bảng nhỡn, cử nhơn, tú tài mà thôi. Riêng giải thơ đã phát hiện được hai tài năng là hai trạng nguyên : Nguyễn Linh Khiếu với hai bài viết về bội đội và chiến tranh cách mạng : “Những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở Sơn Mỹ”, “Hoa mộc miên” và Nguyễn Thanh Mừng với bài thơ văn xuôi khá dài viết về các chiến sĩ hải quân hi sinh ngoài biển đảo : “Hào phóng thềm lục địa”. Chúng tôi xin mạn phép bàn về ba bài thơ của hai trạng nguyên thơ này.
Chúng tôi đã đọc đi, đọc lại ba bài thơ “giải A” trạng nguyên này đến hơn mười lần mà vẫn cứ thấy 32 câu thơ của Nguyễn Linh Khiếu và 108 câu thơ của Nguyễn Thanh Mừng không thể gọi là thơ, trừ hai câu này của Nguyễn Linh Khiếu còn tạm gọi là thơ : “ người xa nhà rượu ngô như lửa đêm đông/thanh vắng vẳng tiếng hoa tầm tã”( Hoa mộc miên biên giới)
Nhiều lần trong các bài phê bình thơ, chúng tôi đã viết : trong thơ có nói nhưng chỉ là những câu nói suông thôi thì không thể gọi là thơ. Ba bài thơ của hai tác giả trạng nguyên thơ trên chỉ là những câu nói tầm thường, bình thường được xuống dòng liên tù tì thì sao có thể gọi là thơ ?
Chúng tôi xin trích bài “Những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở Sơn Mỹ” của Nguyễn Linh Khiếu :
Đây là khổ thơ thứ nhất, không thấy câu nào gọi là thơ : “một sớm mai miền Trung thanh bình/cây cối tốt tươi đang mùa đơm hoa kết trái/tôi thấy những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở Sơn Mỹ/ nước mắt ròng ròng tội nghiệp họ níu ríu ôm nhau”
Đây là khổ thứ hai cũng chẳng tìm thấy câu nào là câu thơ : “những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở chứng tích Sơn Mỹ/những da trắng da vàng da đen da đỏ/họ đến từ đâu trên trái đất này/có ai người Mỹ người Pháp người Nhật người Tàu và người Hàn quốc/chiến tranh để lại đất này biết bao chứng tích đau thương”
Đây là khổ thứ ba của bài thơ cũng chẳng tìm thấy một câu thơ nào, toàn là những lời nói tầm thường : nói toẹt ra : “buổi sáng một giải miền Trung nắng gió thanh bình/những thiếu nữ ngoại quốc ôm nhau thảm thiết/nơi đây một buổi sáng lính Mỹ đã tàn sát 504 người dân vô tội/xác của họ vẫn nằm rải rác quanh đây/hồn của họ vẫn xếp hàng quanh chứng tích/mắt của những người bị giết vẫn nhìn ta im lìm”
Đây là khổ thứ tư (khổ cuối cùng) của bài thơ, cũng chẳng tìm thấy một câu thơ :”những thiếu nữ ngoại quốc đứng khóc ở chiến tích Sơn Mỹ/có ai là người Mỹ người Pháp người Nhật người Tàu và người Hàn Quốc/ còn khóc được là còn trong sạch/nước mắt có ngăn được tội ác/nước mắt có xoa dịu chứng tích đau thương”
Cái gọi là “bài thơ” trên của Nguyễn Linh Khiếu không có tứ, không có hình tượng, hình ảnh tượng trưng nào, không có nghĩa bóng ( nghĩa ẩn- đa ngữ nghĩa) chỉ có những câu nói chăm xuống dòng, sao có thể gọi là thơ ? Hay là vì chúng tôi người trần mắt thịt, không có “long nhãn” như các vị trong ban chấm giải nên không thấy cái hay tuyệt vời của bài tấu được gọi nhầm là thơ trên đây ?
Xin quý vị cùng chúng tôi xét tiếp bài thơ được giải A thứ hai của Nguyễn Linh Khiếu : “ Hoa mộc miên biên giới”. “Bài thơ” này Nguyễn Linh Khiếu lấy tứ ( đạo thơ) của các bài thơ :”Hai sắc hoa ti gôn ( TTKH) “Máu và hoa” ( Tố Hữu), “Thời hoa đỏ” ( Thanh Tùng), “ Mồ anh hoa nở” ( Thanh Hải)…làm tứ thơ của mình. Chủ đề máu nở thành thành hoa đã thành quá sức sáo mòn trong thơ kim cổ; nay Nguyễn Linh Khiếu lặp lại rằng anh đến biên giới gặp các chiến sĩ biên phòng, thấy hoa mộc miên đỏ rực và phát hiên ra : máu của các chiến sĩ biên phòng từ nghìn năm nay đã nở thành hoa ! Nhưng nếu sự lặp lại hình tượng trong thơ của những nhà thơ khác nơi Nguyễn Linh Khiếu được viết bằng xúc cảm, làm mới lại bằng hình ảnh …thì nó đã đi một nhẽ. Đằng này, với lối viết “nói toẹt ra”, Nguyễn Linh Khiếu đã “có công”đóng góp vào kho tàng thơ dở một bài thơ quá dở. Cái gọi là “bài thơ” này của Nguyễn Linh Khiếu còn quá tệ ở chỗ ngôn từ của anh quá cũ, quá sáo mòn ( sáo cũ), nghe rất “cải lương” : “rực đỏ tâm can”,”một trời biên viễn”,”ròng rã ngàn năm”,”ngàn năm tê tái”…Chúng tôi không muốn làm khổ bạn đọc bằng cách trích lại những câu nói tầm thường năng xuống dòng này trong “ Hoa mộc miên biên giới” được mạo nhận là thơ (!)
Xin quý bạn đọc cùng chúng tôi xét tiếp “bài thơ” giải A :”Hào phóng thềm lục địa” của một “trạng nguyên thơ” khác là nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng, chủ tịch hội văn nghệ tỉnh Bình Định. Nguyễn Thanh Mừng đã từng có thơ hay. Chúng tôi từng có bài khen ngợi một tập thơ của Nguyễn Thanh Mừng cách đây khá lâu. Nay Nguyễn Thanh Mừng bỏ giọng thơ chân mộc vốn có là sở trường của mình để thử bút qua loài thơ sở đoản là thơ chính luận, thơ lý sự, thơ làm dáng cách tân, làm dáng uyên bác. Xin trích mười “câu thơ hiện đại”- theo trường phái  “nói toẹt ra-phi hàm xúc” trong bài “ Hào phóng thềm lục địa” của Nguyễn Thanh Mừng để quý bạn đọc xét xem nó có phải là thơ hay không :
”Chúng tôi đã lùa rất nhiều hình ảnh sang trọng của đại dương trút vào vần điệu xôm trò của những bữa tiệc thơ/Nào yến sào ngọc trai nào đồi mồi san hô nào cánh buồm tung mây ra khơi vào lộng/ Tuy nhiên hoa thả xuống nghĩa trang trong lòng biển Đông/Và câu chữ dâng lên linh hồn các anh-những người lính biệt tăm giữa sóng cao gió rộng/Dường như hãy còn quá mỏng/Dù điều ấy,có thể các anh không quan trọng/ Giữa trập trùng tình thế nguy nan các anh vật lộn cùng bão tố đại dương/ Sau dòng điện nghẹn ngào về bộ chỉ huy gửi lời chào vĩnh biệt/Chúng tôi vẫn trùm chăn đọc sách/Chúng tôi vẫn mở vi tính làm thơ…”
Nguyễn Thanh Mừng cứ kể lể dông dài vớ vẩn như thế suốt 108 lần xuống dòng, với một giọng điệu giả cầy cách tân, làm dáng hiện đại, uốn éo, cầu kỳ, ngô nghê, sáo mới…một cách rất khó chịu, tịnh chẳng thấy câu nào có thể gọi là câu thơ ?
Chúng tôi chẳng đặng đừng mà viết bài báo nhỏ này để hỏi ban chấm giải thơ cuộc thi thơ hai năm ( 2008-2009) của tạp chí Văn Nghệ quân đội rằng, các vị mở cuộc thi này nhằm thi thơ hay hay là thi thơ dở? Nếu là mục đích cuộc thi chọn lấy thơ hay làm giải nhất ( giải A) thì cuộc thi thơ này đã thất bại hoàn toàn. Còn nếu mục đích của cuộc thi này nhằm chọn lấy thơ dở, tôn vinh thơ dở thì quý vị đã thành công mỹ mãn.,.
Sài Gòn ngày 10-01-2010
T.M.H.
 
 Link đọc kết quả cuộc thi trên VNQDD