Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

Hồ Chủ tịch với Đền Hùng

Phạm Bá Khiêm
Thứ hai ngày 18 tháng 8 năm 2014 7:32 PM

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ liệt xuất của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Người là sự kết tinh của truyền thống dân tộc và tinh hoa thời đại. Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình. Người đã giành cho Đền Hùng sự quan tâm và tình cảm đặc biệt. Người đã về thăm Đền Hùng hai lần.

Lần thứ nhất : Ngày 19/9/1954 sau chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử “ Lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn Đền Hùng làm nơi gặp gỡ, nói chuyện với cán bộ Đại đoàn Quân Tiên phong (Sư đoàn 308 – Quân đội nhân dân Việt Nam). Không phải ngẫu nhiên mà trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, việc tiếp quản thủ đô đang là một nhiệm vụ mới mẻ đối với Chính phủ và quân đội ta, có ý nghĩa to lớn đối với nhân dân Việt Nam và dư luận toàn thế giới. Bác đã chọn Đền Hùng là di tích lịch sử đặc biệt của dân tộc mà mỗi người Việt Nam khi nhắc đến cội nguồn, bao giờ cũng dùng hình ảnh “con Rồng cháu Tiên” “ Con Lạc cháu Hồng”; coi đó là niềm tự hào cho hồn thiêng sông núi, cho tinh hoa và giống nòi của dân tộc mình.

Đền Hùng còn là nơi hội tụ của của con cháu người Việt Nam trong ngày Giỗ Tổ, là điểm hẹn trong tâm tưởng để mỗi người được tự bày tỏ sự thành kính, niềm tôn vinh của mình đối với tổ tiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người am tường lịch sử nước nhà, trân trọng quá khứ luôn kế thừa và phát huy những giá trị di sản văn hóa của tiền nhân. Chính vì ý nghĩa thiêng liêng đó mà Người đã chọn thăm Đền Hùng ngay sau khi hoàn toàn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược Việt Nam.

Đại đoàn quân tiên phong có vinh dự được gặp Bác. Đây là một trong những đại đoàn chủ lực đầu tiên của quân đội ta. Trong kháng chiến chống Pháp Đại đoàn đã lập nhiều chiến công xuất xắc, có trung đoàn thủ đô đánh địch hai tháng trong lòng Hà Nội, chặn đứng tấn công của kẻ thù để Trung ương rút lên Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ. Việc tiếp quản thủ đô là nhiệm vụ nặng nề , trong giai đoạn mới đòi hỏi phải có sự khôn khéo trong việc tuyên truyền đường lối chính sách của Đảng và Chính phủ đối với nhân dân.

Cuộc gặp gỡ của Bác với đại đoàn tại Đền Hùng để ôn lại truyền thống dựng nước hào hùng của Tổ tiên, động viên, cổ vũ, nhắc nhở và giáo dục cán bộ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ, xứng đáng với truyền thống vẻ vang của dân tộc. Vì vậy sự chuẩn bị của Bác rất công phu. Hành trình của Người đi từ Đại Từ - Thái Nguyên về Đền Hùng, sau đó lại từ Đền Hùng trở về Đại Từ. Được bố trí hợp đồng chặt chẽ với cơ quan văn phòng quân uỷ Trung ương, Bộ Tư lệnh Đại đoàn quân tiên phong và cơ quan văn phòng Phủ Chủ tịch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đi ô tô mang biển số KT.032 ( KT là kí hiệu của Ban kiểm tra; 032 là Bí danh của văn phòng Phủ thủ tướng). Cùng đi trên xe với Bác có đ/c lái xe (của văn phòng phủ Thủ tướng; có người nói là đ/c Nguyễn Văn Ngọc tức Nên) đ/c Đinh Văn Cẩn (người phục vụ, nấu ăn) đ/c Dũng bảo vệ và nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định.

Xe đi từ Đại Từ (Thái Nguyên) – Đoan Hùng. Bác vào thăm một đơn vị bộ đội tình nguyện Việt Nam mới ở Lào về, đóng ở đồi Chân Mộng – Phù Ninh. Sau đó đến thị xã Phú Thọ, Bác dừng xe nói chuyện với hai thương binh rồi vào thăm Tỉnh ủy Phú Thọ đóng ở Thanh Hà. Đón Bác tại văn phòng tỉnh ủy có đ/c Phạm Dụ - chánh văn phòng Tỉnh ủy; đ/c Trần Lưu Vỵ, Bí thư ban cán sự kiêm Chủ tịch ủy ban hành chính thị xã Phú Thọ và một số đồng chí khác. Buổi tối hôm đó Bác đến Đền Hùng. Người nghỉ lại đêm 18/9/1954 tại Đền Giếng.

Sáng ngày 19/9/1954 Bác đi thăm các Đền. Đến cây vạn tuế trước của chùa Thiên Quang, Bác nghe đ/c Song Hào, Bí thư Đảng ủy - Chính ủy Đại đoàn quân Tiên phong; đ/c Thanh Quảng, Chánh văn phòng quân ủy Trung ương báo cáo với Bác về tình hình của đại đoàn và kế hoạch đưa bộ đội về tiếp quản thủ đô Hà Nội, Bác qua Đền Trung; rồi lên Đền Thượng - Người đọc những dòng chữ Hán khắc trên quả chuông treo ở cây đại phía cửa cạnh bên trái đền. Sau đó Người chụp ảnh kỷ niệm ở phía trước đền Thượng.

Khi thăm xong các đền trên núi Nghĩa, Bác xuống đền Giếng chờ bộ đội. Khoảng 9h có cán bộ của 3 trung đoàn: Trung đoàn 102 ( Trung đoàn thủ đô); Trung đoàn 36; Trung đoàn 88 (Tu Vũ) và một số tiểu đoàn trực thuộc của Đại đoàn đi từ 5 hướng ( từ núi Thằn Lằn ( Vĩnh Phúc), từ Gia Thanh (Phù Ninh), từ Trại Cờ ( Hiệp Hòa, Bắc Giang), Từ Đại Từ (Thái Nguyên) và từ Phùng ( Hà Nội). Ngoài ra còn có cán bộ đoàn văn công đại đoàn và nhà báo Nguyễn Khắc Tiếp - phóng viên báo quân đội nhân dân đi cùng.

Bác ngồi trên ngưỡng cửa, đ/c Song Hào và đ/c Thanh Quảng ngồi trên bậc lát gạch, các đ/c cán bộ khác ngồi dưới sân đền (số lượng khoảng gần 100 người).

Bài nói chuyện của Bác đã được chuẩn bị những nội dung chính từ trước. Bác căn dặn và nhắc nhở bộ dội phải thường xuyên học tập, rèn luyện đạo đức, giữ nghiêm kỉ luật, thực hiện tốt chính sách dân vận, giữ vững lập trường giai cấp… Người căn dặn “ Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước được khẳng định trong câu nói của Người có ý nghĩa vô cùng to lớn, đã định hướng cho các nhà khoa học Việt Nam trong việc nghiên cứu về thời đại Hùng Vương. Làm sống dậy sức mạnh truyền thống của tổ tiên không chỉ bằng sự thức tỉnh lòng yêu nước thương nòi, lòng tự hào về tổ tiên về cội nguồn mà quan trọng hơn là đã chỉ ra một hướng đi mới cho các nhà khoa học nước ta, để sau đó có những công trình, những thành tựu khoa học có tính đột phá, để chứng minh thời đại Hùng Vương là thời kỳ có thật trong lịch sử dân tộc. Sự kiện đó đã mở ra một trang sử mới trong việc nghiên cứu, xây dựng một thiên sử vàng truyền thống Việt Nam phong phú, liên tục và khoa học.

Lời dạy của Bác còn có ý nghĩa sâu sắc là sự tổng kết khoa học về quy luật tồn tại và phát triển của lịch sử dân tộc, dựng nước đi liền với giữ nước. Điều đó có tác dụng giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức dân tộc, cội nguồn và tinh thần đại đoàn kết, vì đó là nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, chi phối toàn bộ quá trình phát triển của lịch sử dân tộc, là động lực cổ vũ lớn lao nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh, công bằng, dân chủ và văn minh.

Lần thứ 2 : Ngày 19/8/1962 Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng trong hoàn cành đất nước bị chia cắt. Miền Bắc đang khôi phục phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội, là hậu phương vững chắc chi viện cho cách mạng miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Nhân dịp Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ tổ chức mít tinh kỷ niệm cách mạng tháng 8/1945, Bác đến thăm, dự mít tinh và nói chuyện với Đảng bộ và nhân dân Phú Thọ.

Người đến thăm Đền Hùng, thắp hương viếng Tổ vào khoảng 9h. Cùng đi với Bác có đ/c Nguyễn Văn Trân, Bí thư Trung ương Đảng, Bộ trưởng – Bộ công nghiệp nặng, đ/c Nguyễn Khai ủy viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương Đảng. Lên đến đền Hạ, các đ/c bảo vệ sợ Bác mệt, xin Bác nghỉ lại và mời Bác xuống núi. Bác nói : “ Leo núi phải lên đến đỉnh, cũng như người làm cách mạng không được bỏ dở chừng, đã đi phải tới đích”. Khi lên đền Trung gặp một toán bộ đội đi viếng Tổ, Bác hỏi có mấy cấp, mấy bậc không trả lời được, Bác nhắc: quân sự là phải quan sát địa hình. Lên đền Thượng khoảng 11h trưa. Bác cùng đoàn nghỉ trưa, ăn cơm nắm với dưa cà ở cửa ngách Đông nam đền Thượng. Trước khi về Bác căn dặn các đ/c lãnh đạo tỉnh Phú Thọ “ phải chú ý bảo vệ, trồng thêm hoa, cây cối để Đền Hùng ngày càng trang nghiêm và đẹp đẽ, thành công viên lịch sử cho con cháu sau này đến thăm ”.

Lời dạy của Bác, vừa mang tính tổng kết, vừa có tính định hướng phát triển quy hoạch Đền Hùng trong tương lai, đã trở thành kim chỉ nam cho biết bao tư duy, tình cảm và hành động của các thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau, biết trân trọng quá khứ, giữ gìn đạo lý truyền thống dân tộc, bảo vệ cảnh quan môi trường sinh thái, kế thừa và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.

Hơn nửa thế kỷ trôi qua, những di tích lưu niệm với sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Đền Hùng đã được Đảng và Nhà nước ta trân trọng gìn giữ. Những hiện vật gốc tại di tích gắn liền với hoạt động của Bác như quả chuông Bác đã xem, cây đại treo chuông, cửa ngách Đông nam đền Thượng, chùa Thiên Quang – cây vạn tuế, cửa đền Giếng được bảo vệ chu đáo giữ nguyên giá trị gốc.

Tại bảo tàng Hùng Vương đã giành một vị trí trang trọng để giới thiệu về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng thông qua những bức ảnh tư liệu gốc của nhà nhiếp ảnh Đinh Đăng Định. Nhiều cuộc hội thảo khoa học về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Đền Hùng được tổ chức nhằm xác định ý nghĩa lịch sử, đặc biệt là xác định giá trị tư tưởng và định hướng của Người đối với sự tồn tại, bảo vệ khu di tích Đền Hùng; xác định việc gắn biển đề ở chùa Thiên Quang, đền Thượng, đền Giếng, dưới chân núi Nghĩa Lĩnh thiêng liêng, xây dựng bức phù điêu có hình tượng Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ Đại đoàn quân Tiên phong. Năm 2001 bức phù diêu này đã được Bộ quốc phòng xây dựng. Đây một công trình có quy mô hoành tráng được ghép từ 83 khối đá xanh có trọng lượng 253 tấn, cao 7m, rộng 12m, không kể phần đế móng, đặt trang trọng trong diện tích hơn 4.000 m2.

          Khu di tích lịch sử Đền Hùng là khu di tích đặc biệt của quốc gia. Bản thân di tích đã là một tài sản có ý nghĩa lớn lao và vị trí quan trọng trong tâm thức của dân tộc Việt Nam. Sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm Đền Hùng 2 lần, giành cho Đền Hùng sự quan tâm và tình cảm sâu sắc càng làm tăng thêm giá trị và ý nghĩa văn hóa của khu di tích. Di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đền Hùng là một trong những di tích có vị trí lịch sử lớn trong hệ thống các di tích lưu niệm về Chủ Tịch Hồ Chí Minh ở Phú Thọ. Nghiên cứu di tích lưu niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Đền Hùng giúp chúng ta hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kiệt xuất của cách mạng Việt Nam, có tác dụng giáo dục truyền thống đối với các thế hệ Việt Nam. Lời căn dặn ân cần, chí thiết của Người đã, đang và sẽ mãi mãi hành trình cùng dân tộc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dựng nước luôn xong hành với bảo vệ và xây dựng đất nước. /.

 

LỜI NGƯỜI TỪ MÙA THU NĂM ẤY

          Trung tuần tháng 9 năm 1954, khi đang ở Tuyên Quang để học tập chủ trương của Đảng, chính sách của Chính phủ về nôi quy nhập thành trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội, tôi được đồng chí Ngô Minh Loan – Cục trưởng Cục bảo vệ gọi lên giao nhiệm vụ cùng đồng chí Lại Xuân Thát – Chính trị viên tiểu đoàn sau này là Ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy –Trưởng công an Nam Hà; “ Sang ngay Bộ Tổng tham mưu gặp anh Thành ( Hoàng Văn Thái) lấy công lệnh và giấy tờ cần thiết dùng xe Zép của tôi (Cục trưởng ) đem theo bốn đồng chí Ttung đội đến 2 bến phà Bình Ca và Đoan Hùng lấy một chiếc phà tốt, cho một cán bộ lấy ca nô dợi sẵn tại bến bờ phía Tuyên Quang đến, giao cho một đồng chí chờ sẵn trên đường; thấy đoàn xe chiếc đi đầu có đồng chí Thanh Quảng phó văn phòng Tổng quân ủy ngồi thì cho cả đoàn xuống phà qua sông ngay và chờ sẵn ở đó đón đoàn về bất cứ lúc nào. Sau đó đến ngay khu vực quanh Đền Hùng, tìm các thôn quanh đền nơi nào thuận tiện đi lại, vào một nhà dân bình thường, mượn 1 chiếc giường hoặc phản sạch sẽ trải chiếu sẵn sàng, đề phòng phải ngủ lại, để 1 người ở lại đó, 1 người ra đường đón”. Làm xong việc bố trí tại 2 bến phà chúng tôi đến ngã ba Phú Hộ vào 1 gia đình bần nông, ở thôn gần đường, thuận tiện đi lại, mượn 1 chiếc phản gỗ trải sẵn chiếu, để anh Thái ở lại đó tôi ra ngã ba Phú Hộ chờ; nhưng đến sẩm tối cũng không có đoàn xe có anh Thanh Quảng ngồi, sau đó có một đoàn xe con khác cũng đi nhưng cũng không thấy đồng chí Thanh Quảng gọi; mà đèn kxa qua chói chẳng nhìn được gì. Vừa sốt ruột, vừa lo lắng tôi và anh Thái bổ đi tìm. Xuôi xuống gần đến Hạc Trì trông ra xa xa phía chân đồi có ánh đèn, bọn tôi xộc vào (sáng ra mới biết đó là đền Giếng , Khu di tích lịch sử đền Hùng). Vừa vào cổng thì anh Thanh Quảng vội đi nhanh ra ngoài ngăn chúng tôi lại nói nhỏ: “Đến rồi! Đang nghỉ trong đền, các anh về nghỉ sáng mai báo chô đội đến đây sớm”.

          Ra về nằm trằn trọc mãi không ngủ được, chợp mắt nào lúc nào không biết, sáng bật dậy đã hơn 6 giờ, rửa mặt, mặc quần áo đi ngay vào đền tầm khoảng 7 giờ sáng. Thấy Bác hồng hào khỏe mạnh mặc bộ đồ gụ ngoài khoác chiếc áo đại cán, quần vén lên đến gối, ung dung thảnh thơi ngồi trên ngưỡng cửa đền ngắm cảnh thiên nhiên mùa thu miền trung du miền sớm mai. Chúng tôi mừng rỡ khôn xiết, tiến lại gần Bác giơ tay lên vành mũ, vừa cúi đầu hô to “ Lậy Bác ạ!”. Bác giơ tay ra hiệu nhận lễ và hỏi: “Sáng nay bộ đội đã ăn cơm chưa?” Anh Thát trả lời: “ Dạ thưa Bác tối hôm qua..” Bác khoát tay ra hiệu và nói : “ Bác hỏi chú, bộ đội đã ăn sáng chưa, không hỏi chú tối hôm qua? Anh Thát líu tíu chư trả lời được, tôi đỡ lời “ Dạ thưa Bác chưa ạ !”. Bác nói “Sáng rồi các chú còn nhiều việc phải chuẩn bị. Bác cũng có việc của Bác, các chú kêu bộ đội đến đây để Bác nói chuyện”. Tuân lời Bác chúng tôi đi nhanh ra cổng để gọi, vừa hay anh em bộ đôị từ các đơn vị cũng đang đi đến. Khoảng hơn 7h, đoàn cán bộ do đ/c Vũ Yên, tham mưu trưởng đại đoàn phụ trách có mặt đầy đủ tại sân đền và các bậc lên đền, chăm chú ngắm nhìn Bác kình yêu rất trân trọng không rời mắt. Do điều kiện sân đền quá hẹp, các bậc từ sân lên đến hè quá cao đến 5 – 6 bậc; bàn, ghế không có và mải ngắm Bác chưa biết tập hợp thế nào để nghe Bác nói chuyện. Tôi nhanh nhẹn nhặt mẩu gạch non gần đó khoanh một vòng tròn chếch xung quanh Bác và thưa: “ Thưa Bác chúng cháu ngồi quanh Bác như thế này ạ”. Quan sát một chút tỏ ý đồng tình Bác gật đầu giơ tay ra hiệu cho bộ đội ngồi xuống. Đồng chí Vũ Yên ngồi bậc thềm cuối cùng chính diện trông lên Bác. Đồng chí Song Hào và đồng chí Thanh Quảng còn đứng trong đền sau lưng Bác, Bác quay lại bảo đồng chí Song Hào: “ Chú ngồi đây (mặt hè phía bên phải Bác), chú Thanh Quảng ngồi đây (mặt hè phía bên trái Bác)”. Tôi còn đứng xem bộ đội ngồi xong chưa và chỉ chỗ cho một vài đồng chí đến sau. Thấy vậy Bác nhìn tôi nói: “ Còn chú, chú ngồi chỗ kia (Bậc thềm thứ hai từ mặt hè xuống về phía phải đồng chí Song Hào)”. Tôi vội ngồi xuống.

Sau mấy phút ổn định chỗ ngồi Bác mở đầu bằng câu hỏi : “Các chú có biết đây là đâu không ?”. Nhiều đồng chí đồng thanh trả lời: “ Thưa Bác đây là Đền Hùng ạ !, đây là nơi thờ Hùng Vương ạ !”. Bác giơ tay ra hiệu im lặng và hỏi câu thứ hai : “Hùng Vương là người như thế nào với nước ta ?”. Bẵng đi vài phút chưa có ai trả lời, đồng chí Vũ Yên đứng dậy nói : “Thưa Bác ! ngày xưa…” Bác giơ tay ra hiệu cho đồng chí Vũ Yên ngồi xuống, rồi Bác nói : “ Đúng đây là Đền Hùng, thờ các Vua Hùng, Vua Hùng là người đã sáng lập ra nước ta, là tổ tiên của dân tộc ta. Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước !”. Mọi người xúc động được nghe lời dạy bảo ân cần sâu sắc của Bác, nguyện ghi lòng tạc dạ không bao giờ quên.

Tiếp đó Bác nói : “ Hơn tám năm gian khổ chiến đấu do Đảng lãnh đạo, được nhân dân đùm bọc, giúp đỡ, bộ đội và dân quân du kích dũng cảm đánh giặc; ta đã giành thắng lợi, quân Pháp phải cút khỏi miền Bắc nước ta, ta có nhiệm vụ về tiếp quản Hà Nội thủ đô của cả nước và những thành phố khác nữa ! Nhiều năm các chú ở nông thôn và rừng núi, nay về thành phố nơi tạm chiếm của địch, đồng bào ta nhiều năm bị địch hành hạ, cưỡng bức, rất khổ, có người bị dịch bắt buộc hoặc vì cuộc sống phải làm việc cho địch. Khi vào tiếp quản đóng quân trong thành phố các chú phải :

1.     Gần gũi dân, tôn trọng dân, làm tốt công tác dân vận giải thích cho đồng bào hiểu chủ trương, chính sách của Chính phủ, không nghe kẻ xấu, yên tâm tiếp tục làm ăn, giúp đỡ Chính phủ, giúp đỡ bộ đội và cán bộ. Không được coi những người dân sống trong vùng địch tạm chiếm là đi theo địch mà xa lánh họ.

2.     Thành phố có đèn điện, máy nước và nhiều thứ khác nữa có thể các chú chưa biết phải nhờ đồng bào chỉ bảo để biết cách sử dụng cho an toàn, tiết kiệm và giữ gìn vệ sinh cho tốt.

3.     Về thành phố cũng phải tổ chức học tập quân sự, chính trị, chính sách, học canh gác, tuần tra trong thành phố, giữ nguyên kỷ luật, ra ngoài phải đi theo tổ ba người, khi đi xin phép, khi về báo cáo, tối đến phải tập hợp “kêu tên” (Bác nói tiếng Nghệ An - tức là điểm danh), hàng tuần, hàng tháng phải họp lại kiểm điểm phê bình và tự phê bình, phải đề cao cảnh giác. Các chú đã qua nhiều năm chiến đấu, không bị ngã vì hòn tên mũi đạn của địch, nếu kém cảnh giác có khi bị ngã vì “ viên đạn bọc đường”.

4.     Tiếp quản là một việc rất mới, nhiệm vụ nặng nề các chú phải gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ, chú nào có thành tích báo cáo lên chỉ huy để tặng huy hiệu của Bác cho chú ấy, chú nào có thành tích to hơn báo cáo để Chính phủ tặng huân chương.

Nói đến đây Bác bộc hai nắm huy hiệu của Bác giao cho đồng chí Song Hào phát cho mỗi người một chiếc.

Khoảng gần 9h, Bác nói : “ Thời gian tiếp quản đã đến gần, còn nhiều việc phải chuẩn bị cho tốt. Bác còn có việc của Bác. Bác chúc các chú hoàn thành tốt nhiệm vụ”.

Đến đây bộ đội nhanh chóng ra về; Bác nán lại ít phút nghỉ ngơi và trao đổi thêm gì đó với hai đồng chí Song Hào và Thanh Quảng ; Chúng tôi chờ ở cổng rồi cùng Bác ra chỗ để xe. Bác lên xe đi trước, chúng tôi chào và nhìn theo xe Bác. Xe đi khuất chúng tôi mới lên xe, thu quân về Cục, báo cáo Cục trưởng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Sự kiện trên diễn ra đã hơn 50 năm mà tôi vẫn thấy như là mới hôm qua. Thăm lại Đền Hùng, tôi đã xác định được vị trí Bác ngồi nói chuyện với Đại đoàn quân Tiên phong năm ấy chính là Đền Giếng trong khu di tích lịch sử Đền Hùng. Xin cảm ơn anh Đinh Đăng Định, nhà nhiếp ảnh tài hoa đã ghi lại được tấm hình quý giá này và hôm nay bức ảnh được phóng to trưng bày tại Bảo tàng Hùng Vương trong khu di tích lịch sử Đền Hùng với tiêu đề : “Ngày 19 tháng 9 năm 1954 Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với cán bộ đại đoàn quân tiên phong tại Đền Giếng trong khu di tích lịch sử Đền Hùng trước khi về tiếp quản thủ đô Hà Nội; Người căn dặn : Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

                                                                          Tháng 8 năm 2006

( Ghi theo lời kể của đại tá Tống Xuân Đài – cán bộ quân đội đã nghỉ hưu tại Hà Nội).

NHÀ VĂN VÀ TÁC PHẨM