SM: Nhà văn Hoàng Quốc Hải là nhà tiểu thuyết lịch sử đương kim sung sức với hai bộ tiểu thuyết đồ sộ về hai thời đại Lý- Trần có tựa đề “TÁM TRIỀU VUA LÝ” và “BÃO TÁP TRIỀU TRẦN” gồm 10 tập, dung lượng trên 6.500 trang với khoảng thời gian gần 400 năm. Có thể mượn lời của nhà văn, nhà giáo dục Phạm Toàn để nói về ông: “ Chỉ những nghệ sĩ chân chính mới có nỗi đau phải đào sâu vào khoa học lịch sử chẳng kém một nhà sử học ưu tú nhất. Song họ lại hơn đời ở một nỗi ưu tư nên họ mới làm ra được tác phẩm nghệ thuật có đề tài lịch sử”.
Nhân việc phía Trung Quốc đang rầm rộ gây hấn ở Biển Đông, vi phạm thô bạo quyền chủ quyền trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước ta, nhóm phóng viên Sống Mới đã có cuộc trao đổi với ông về tình hình thời sự nóng hổi này. Qua những cứ liệu lịch sử quý giá, cũng như những phân tích của nhà văn Hoàng Quốc Hải, chúng tôi hy vọng sẽ cung cấp tới độc giả những thông tin có ích và xác thực để mỗi người Việt Nam hiểu được rõ quyền lợi của quốc gia và trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà Trung Quốc đã và đang tìm cách chiếm đoạt, cũng như bản chất tàng ẩn phía sau sự ngông ngạo của Trung Quốc trong thời gian gần đây.
PV: Thưa nhà văn Hoàng Quốc Hải, mới đây Trung Quốc cho một đoàn tàu cá với 30 chiếc tầu lớn, trong đó có cả tầu hậu cần vào đánh bắt cá và khuấy đảo vùng biển thuộc quyền chủ quyền và đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Trường Sa, lại nữa Công ty dầu khí Hải Dương của Trung Hoa (CNOOC) (China National Oil Corporation) mời thầu 9 lô dầu khí cũng trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của VN; trước tình hình đó chẳng hay nhà văn có quan tâm?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Thưa các nhà báo, sao lại nói “có quan tâm”? Mà phải nói trách nhiệm mỗi công dân phải làm gì đây trước việc ngoại bang đe dọa đến sự toàn vẹn lãnh thổ trong đó có chủ quyền biển đảo của chúng ta. Việc Trung Quốc đưa một đoàn tầu cá hùng hậu (cũng có thể là tầu hải quân trá hình) vào diễu võ dương oai tại vùng biển thuộc chủ quyền của nước ta, thực chất là một hành vi khiêu khích nghiêm trọng. Điều trớ trêu là Trung Quốc vừa ra lệnh cấm đánh bắt cá trên biển Đông (cấm trái phép cả trên vùng biển Việt Nam) từ 16 tháng 5 năm 2012 đến 1 tháng 8 năm 2012 thì 12 tháng 7 năm 2012 chính họ lại vi phạm cái gọi là “lệnh cấm” đó. Điều này chứng tỏ cái mà Trung Quốc nói hoàn toàn trái ngược với cái mà Trung Quốc làm. Đoàn tầu cá 29 chiếc vỏ thép, mỗi tầu 140 tấn cùng với tầu hậu cần kiêm chỉ huy 3.000 tấn được chia thành hai biên đội 6 tốp, hình thành một hạm đội đánh bắt. Thực chất đây là một cuộc diễn tập quân sự trá hình và cũng là đòn cân não nắn gân đối phương
Còn việc Công ty dầu khí (CNOOC) Trung Quốc mời thầu 9 lô dầu khí nằm sâu trong thềm lục địa Việt Nam, lô gần nhất chỉ cách đảo Phú Quý hơn 50km, đó không còn là hành vi khiêu khích, mà nó nằm trong âm mưu thôn tính thuộc về quốc sách của Trung Hoa xuyên suốt từ cổ đại tới nay.
PV: Có phải nhà văn muốn nói đến vùng biển tranh chấp giữa Trung Quốc với ta.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Không, giữa ta và Trung Quốc cùng các nước như Malaysia, Philippines, Brunei chưa đàm phán để xác định vùng chồng lấn. Chỉ vùng chồng lấn đó mới gọi là vùng tranh chấp. Còn việc Trung Quốc cho ngư dân vào đánh bắt cá và mời thầu 9 lô dầu khí trong vùng thuộc quyền chủ quyền tức vùng đặc quyền kinh tế của ta là hành vi xâm lấn, nếu chưa muốn nói là xâm lược. Đó là một âm mưu thâm độc, tạo ra tranh chấp trong vùng không có nhân tố tranh chấp rồi đòi thương lượng. Thật chẳng khác chuyện cổ tích kể về một con chó sói trong lúc đói rét, năn nỉ xin đặt nhờ một cái chân vào trong ngôi nhà của thỏ để sưởi ấm. Khi đặt được một chân, sói dùng toàn thân xô cửa vào nhà, liền đó đuổi thỏ đi và nhận đó chính là nhà của mình. Thỏ cãi lại. Sói chồm lên cắn chết thỏ rồi ăn thịt.
PV: Đề nghị nhà văn nói rõ hơn về quốc sách tạo ra vùng tranh chấp của Trung Quốc.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Phải nói hầu hết các nước có chung biên giới với Trung Quốc đều bị Trung Quốc gây hấn và bị mất đất về tay Trung Quốc. Hùng mạnh như nước Ấn Độ mà năm 1962, Trung Quốc gây ngòi nổ làm bùng lên cuộc chiến tranh biên giới Trung -Ấn. Kết thúc chiến tranh, Trung Quốc chiếm được của Ấn Độ 50.000 km2. Cho tới nay Ấn Độ luôn đòi lại vùng đất bị Trung Quốc chiếm mà vẫn chưa đòi nổi một xăng ti mét, và hận thù giữa hai nước Ấn-Trung vẫn chưa có cách nào hóa giải.
Lấy ngay như nước ta làm ví dụ. Rõ nhất là cổng Nam Quan giáp với Đồng Đăng của nước ta. Cổng đó được người Trung Hoa xây từ đời nhà Minh thế kỷ 15. Trải năm thế kỷ nó vẫn tồn tại trấn giữa một đường biên dài và không xảy ra tranh chấp. Nhưng qua cuộc chiến tranh xâm lược của Trung Quốc đánh Việt Nam vào tháng 2 năm 1979, tới nay chiếc cổng đó đã nằm sâu trong đất họ và cách đường biên giới tới mấy trăm mét. Và người Trung Quốc lý sự rằng hiệp ước Pháp- Thanh phân định biên giới, việc đo đạc không chính xác! Vả lại Hiệp ước Pháp-Thanh thì mãi 1885 mới ký, chẳng có liên can gì đến biên giới trước đó.
Hoặc Bãi Tục Lãm trên sông Bắc Luân huyện Móng Cái (Quảng Ninh), Thác Bản Giốc thuộc huyện Trùng Khánh (Cao Bằng), trước chiến tranh biên giới năm 1979, nó hoàn toàn thuộc phần đất Việt Nam, không hề có tranh chấp. Ấy thế mà sau chiến tranh biên giới, người Trung Quốc nhận chằng là của họ. Trên phương diện quốc gia, họ cù nhầy cò cưa gây căng thẳng trên nhiều tuyến biên ải, tới khi “Bãi Tục Lãm” chia đôi, Thác Bản Giốc” chia đôi. Sự cực kỳ phi lý ấy, thử hỏi có khác gì truyện con chó sói xin sưởi nhờ một chân trong nhà con thỏ?
Trở lại vấn đề Biển Đông tức Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam. Theo Công ước về Luật biển UNCLOS của Liên Hiệp quốc 1982 mà Trung Quốc và Việt Nam đều ký kêt, thì vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường lãnh hải của mỗi quốc gia là quyền tài phán thiêng liêng bất khả xâm phạm của quốc gia đó. Ấy thế mà Trung Quốc nhảy vào đến tận sân nhà người ta mà cãi cối, nhận bừa theo kinh nghiệm truyền đời trên đất liền của họ với mục tiêu là tạo ra vùng tranh chấp.
Việc bất minh này nếu ta không làm quyết liệt, vạch trần sự gian dối đến liều lĩnh, sự ngạo mạn đến trơ trẽn về mặt pháp lý và cả đạo lý cho nhân dân Trung Quốc và toàn thế giới biết, chắc sẽ dẫn đến hậu quả tai hại về mặt chủ quyền. Và nếu điều đó xảy ra thì đương thời không chỉ mắc tội với tổ tông mà muôn đời sau hậu thế còn nguyền rủa.
PV: Thưa nhà văn, sở dĩ có sự gây hấn với các nước láng giềng về lãnh hải, là do Trung Quốc căn cứ vào đường 9 đoạn mà thế giới gọi là đường lưỡi bò trên bản đồ do Trung Quốc tự vẽ. Vậy xin nhà văn giải thích đường 9 đoạn hình thành trên cơ sở nào, và như Trung Quốc biện bạch là do từ trong lịch sử lâu đời, từ thời Hán, Đường, tổ tiên họ đã phát hiện ra vùng biển đảo này, do đó họ có quyền chiếm hữu.
Nhà Văn Hoàng Quốc Hải: Từ trước năm 1946, trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hoàn toàn không có yếu tố nước ngoài mà chỉ có người Việt Nam chiếm hữu từ thế kỷ 17, tới cuối thế kỷ 19 người Pháp xâm chiếm Việt Nam thì quyền chiếm hữu hai quần đảo này thuộc về người Pháp. Họ thay mặt chính phủ Nam triều quản lý.
Năm 1939, quân Nhật đổ bộ lên chiếm một phần đảo Hoàng Sa và hàng loạt đảo Bành Hồ, Mã Tổ, Đài Loan, Hải Nam của Trung Quốc vừa làm bàn đạp tấn công lục địa Trung Hoa, vừa khống chế bờ tây Thái Bình Dương đối chọi với Mỹ đang thống lĩnh bờ đông Thái Bình Dương. Ngay trong thời gian quân Nhật chiếm đóng Hoàng Sa, thì phía người Pháp và cả người Việt vẫn điều hành trạm khí tượng và cây đèn biển trên quần đảo này. Năm 1945 các nước phát xít Đức - Ý - Nhật đầu hàng Đồng Minh, Trung Hoa dân quốc do Tưởng Giới Thạch đứng đầu nằm trong thành phần của Đồng Minh, nên được phân công giải giáp quân đội Nhật, trong đó có phần lãnh thổ Bắc Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Đến đầu năm 1950, quân Trung Hoa dân quốc đã rút lui khỏi vùng đảo này. Còn đồn binh của quân Pháp vẫn đóng trụ trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên đầu năm 1956, Trung Hoa dân quốc lại tái chiến đảo Ba Bình thuộc Trường Sa, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa chiếm đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa; cả hai bên Trung Hoa đều chiếm đóng trái phép một phần lãnh thổ do Việt Nam quản lý liên tục suốt từ thế kỷ 17.
Đường 9 đoạn trên bản đồ do Trung Quốc vẽ hiện nay là kế thừa đường 11 đoạn do một người thuộc chính quyền Trung Hoa dân quốc tự vẽ ra từ năm 1947, nghĩa là từ sau khi họ tiếp quản phần đất mà người Nhật thua trận để lại.
Lai lịch tấm bản đồ này rất mơ hồ, nó không có xuất sứ lịch sử, không có giới hạn địa lý theo kinh độ, vĩ độ và tọa độ. Sở dĩ hiện nay nó chỉ còn 9 đoạn là do hai đoạn trùm lên Vịnh Bắc Bộ của Việt Nam, sau khi đã phân chia giữa Việt Nam và Trung Hoa thì người Trung Hoa lại tự xóa đi 2 đoạn.
Trung Quốc không hề có một bằng chứng lịch sử nào khả tín như sử sách của họ có ghi chép cụ thể về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, hoặc có thực tế chiếm hữu và khai thác; hoặc chí ít là bia chủ quyền; điều có thể thuyết phục nữa là bản đồ hành chính hoặc bản đồ địa lý quốc gia. Tất cả những yếu tố tối thiểu để chứng minh quyền làm chủ của Trung Quốc trên hai quần đảo này đều không có. Mà tất cả chỉ là những căn cứ vu vơ. Ví như: “Trung Quốc đã hành xử chủ quyền biển Nam Trung Hoa từ thời nhà Tống (960 -1279). Hoặc “Thời Minh Vĩnh Lạc (1403 – 1427), hạm đội của Trịnh Hòa đã đi khảo sát tại vùng biển Đông Nam Á…”
Đúng là Trịnh Hòa có đem quân đi giễu võ dương oai tại vùng Đông Nam Á, nhưng không vẽ được bản đồ, không có dấu ấn gì ghi chép tại mấy nước này, trái lại khi quân của Trịnh Hòa tiến vào Trảo Oa (Java) bị dân địa phương đánh đuổi giết chết tới 170 người Trung Quốc, khiến Trịnh Hòa phải tháo lui. Và sang đời Minh Tuyên Đức thì nhà Minh phải bãi bỏ chương trình rất tốn kém của Trịnh Hòa.
Còn như “Hoàn Cầu thời báo” nói: “Trung Quốc đã hành xử chủ quyền biền Nam Trung Hoa từ thời nhà Tống” thì quả là họ nói liều và họ chẳng hiểu gì về lịch sử cha ông họ. Ta nhớ, trước cuộc xâm lăng Đại Việt năm 1076, triều đình nhà Tống bàn đến nát nước. Các đại thần nhà Tống rất sợ giao chiến với người Giao Chỉ ( Xưa họ gọi nước ta là xứ Giao Chỉ). Lễ bộ thị lang Vương Thiều đã tranh biện kịch liệt với bọn người hiếu chiến và khẳng định “Chớ nên gây việc binh đao với người Giao Chỉ”. Còn Triều Bổ Chí, một văn quan thì dâng sớ trần tình mọi nhẽ can ngăn Vương An Thạch và Tống Thần tông chớ nên gây chiến với người Giao Chỉ. Bởi nhẽ người Tống không quen thạo đường biển. Ông nói: “Quân Tống nhát sóng, hơi có gió đã sợ rồi, không biết sẽ chiến đấu làm sao? Còn người Giao Chỉ, họ giỏi thủy chiến. Từ xưa truyền lại rằng người Việt lặn xuống nước đục thuyền địch lật úp. Đỗ Mục nói họ có kẻ đi chìm dưới đáy bể tới năm mươi dặm mà không thở…”
Phải nói nhà Tống là một thời đại yếu hèn, hết bị nước Kim đến nước Liêu, nước Hạ chèn đánh. Nhà Tống vừa phải cắt đất cầu hòa vừa phải triều cống. Vua Tống còn bị vua nước Kim bắt phải tôn gọi bằng bá phụ, trong khi Kim Thái tông mới có 12 tuổi. Sự suy thoái triền miên ấy dẫn toàn bộ nước Trung Hoa vào vòng thống trị của người Mông Cổ tới cả trăm năm. Trận quyết chiến cuối cùng năm 1279, quân Mông Cổ dìm chết 10 vạn quân Tống trong Vùng biển Nhai Sơn, tể tướng nhà Tống là Lục Tú Phu phải cõng vua Tống nhảy xuống biển tự tử.
Thử hỏi một đất nước như thế làm sao mà “hành xử chủ quyền” được trên “biển Nam Trung Hoa”?
PV: Nhân sự kiện người Trung Quốc quấy rối trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam với chính sách tựa như “ngoại giao pháo hạm”, nhà văn có thể chứng minh bằng các tài liệu của phía Trung Quốc, rằng từ xưa chưa bao giờ hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền Trung Hoa và tình trạng họ chiếm đóng Hoàng Sa và một phần Trường Sa được thể hiện như thế nào?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Mới đây tiến sĩ Hán- Nôm Mai Ngọc Hồng vừa hiến Bảo tàng lịch sử Việt Nam tấm bản đồ lãnh thổ Trung Quốc Hoàng Triều trực tỉnh địa dư toàn đồ do Nhà Xuất bản Thượng Hải ấn hành năm 1904, ghi rõ cực Nam của Trung Quốc là đảo Hải Nam.
Nên nhớ đây là bản đồ “địa dư toàn đồ” nên không có thể nhầm lẫn hoặc bỏ sót một địa danh nào. Vả lại nhóm làm bản đồ gồm các học giả nổi tiếng của Trung Quốc và các chuyên gia phương Tây hợp tác. Thêm vào đó sách “Trung Quốc địa lý học giáo khoa thư biên soạn năm 1905, xuất bản năm 1906 có ghi: “Phía Nam từ vĩ độ Bắc 18độ13’ tận cùng là bờ biển Nhai Châu (Hải Nam)… Vậy là cả bản đồ chi tiết về lãnh thổ và sách giáo khoa của người Trung Quốc đều xác nhận Hải Nam là đất tận cùng giáp biển. Tuyệt nhiên không thấy có tên Hoàng Sa, Trường Sa xuất hiện trên bản đồ này.
Cái tên Tây Sa (tức Hoàng Sa) và Nam Sa (tức Trường Sa) mới chỉ xuất hiện trên thư tịch Trung Quốc từ năm 1947. Và mãi tới năm 1980 ngày 30 tháng 1, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới lần đầu tiên đưa ra văn kiện có hệ thống đầy đủ của Bộ Ngoại giao về chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam mà phía Trung Quốc gọi là Tây Sa và Nam Sa, trong khi Việt Nam đã chiếm hữu và khai thác liên tục từ thế kỷ 17 cho tới khi Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm.
Thật ra hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 20, Việt Nam chỉ gọi một cái tên chung là Hoàng Sa (tức đảo cát vàng) hoặc Vạn Lý Trường Sa (một bãi cát dài vạn dặm).
Ta có thể tham khảo thêm một số bản đồ cổ của Trung Quốc ví như “Dư địa đồ” bản đồ của Trung Quốc vẽ đời Nguyên của Chu Tự Bản, được thu nhỏ trong sách “ Quảng Dư Đồ, quyển 1” của La Hồng biên soạn năm 1561, phần cực nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam.
Trong “Hoàng Minh đại thống nhất tổng đồ” quyển 1 của Trần Tổ Thụ đời Minh soạn năm 1635, phần lãnh thổ cực nam của Trung Quốc ghi là đảo Hải Nam.
Trong danh mục bản đồ các đời mà Trung Quốc vẽ hiện còn lưu giữ trong “Bắc Kinh tứ khố” còn vô vàn, nhưng chẳng có một chiếc nào đả động đến Trường Sa, Hoàng Sa của Việt Nam hoặc Tây Sa, Nam Sa như Trung Quốc gọi.
Trên đây tôi chỉ nêu ba tấm bản đồ tiêu biểu của Trung Quốc, do người Trung Quốc vẽ qua các thời đại Nguyên, Minh, Thanh từ thế kỷ 14 đến đầu thế kỷ 20. Ngoài ra còn vô số các bản đồ do các nhà truyền giáo phương Tây, các nhà thám hiểm, nhà buôn vẽ đều ghi nhận đảo Cát Vàng thuộc về nước Đại Nam.
Vài chứng cớ nữa nói lên người Trung Quốc thừa nhận đảo Cát Vàng (Hoàng Sa) là của Việt Nam.
Vào năm 1895 tầu Bellona của Đức bị vấp đá ngầm và chìm tại quần đảo Hoàng Sa, đánh tín hiệu cấp cứu cho Hải Nam mà không được đáp ứng. Trước đó, năm 1890 tầu Himeji của Nhật Bản cũng bị đắm ở Hoàng Sa, gởi tín hiệu cho Hải Nam đều không được phía Trung Quốc cứu hộ. Trái lại ngư dân của họ lại từ Hải Nam ra hôi của như đồng và các hàng hóa khác. Nhân hai sự vu này chính phủ Anh gởi công hàm phản kháng. Phía Trung Quốc tuyên bố chính thức là quần đảo này không thuộc về Trung Quốc.
Xa hơn nữa trong “Phủ biên tạp lục” nhà bác học Lê Quý Đôn có đoạn viết:” Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chánh đường, huyện Văn Xương, Quỳnh Châu (đảo Hải Nam) gửi cho Thuận Hóa nói rằng:” Năm Kiền Long thứ 18 (1758-tương đương với thời Chúa Nguyễn Phúc Chu ở Đàng Trong) có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh đội Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, ngày 7 đến đến Vạn lý Trường Sa tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để hai tên giữ thuyền, bị gió giựt đứt dây thuyền dạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đây xét thực đưa trả về nguyên quán. Nguyễn Phúc Chu sai cai bạ Thuận Hóa là Thúc Lương hầu làm thư trả lời”
PV: Thưa nhà văn trên đây ông đã nói về sự cưỡng chiếm phi pháp và ngộ nhận phi lý của nhà cầm quyền Trung Quốc đối với hai quần dảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam. Vậy xin ông nói việc Việt Nam xác lập chủ quyền trên hai quần đảo này như thế nào để độc giả trong và ngoài nước hiểu cho thấu đáo.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Thật ra, ta có vô vàn tài liệu ghi chép rất cụ thể ngày tháng năm Chúa Nguyễn, sau này là các vua triều Nguyễn sai lập Hải đội Hoàng Sa trong đó có nhiều việc như đo đạc các đảo, đo đạc thủy triều, hướng gió, lập miếu thờ thần, trồng cây dựng bia chủ quyền, khai thác các hải sản quý như hải sâm, đồi mồi… thu gom các hàng hóa và vật dụng do các tầu thuyền nước ngoại gặp nạn dạt vào đảo. Quý hơn nữa là các châu bản ví như các chiếu, cáo, dụ, sắc, có chữ ký và con dấu của nhà vua sai phái công việc ở Hoàng Sa, hoặc các biểu tấu của mấy tỉnh ven biển tâu báo về công việc có liên quan đến Hoàng Sa được nhà vua phê duyệt và ký. Cũng có nhiều sắc khen đến Hải đội Hoàng Sa hoặc các cá nhân mẫn cán có công trong Hải độ Hoàng Sa này được vua ký sắc khen tặng. Những bản đó gọi là châu bản, hiện còn lưu trữ khá nhiều và các giấy tờ được vua ban khen trong các gia đình lưu giữ như bảo vật truyền gia cũng không phải là hiếm.
Ngoài ra còn các tài liệu do người Pháp đo đạc, khảo sát trên hai quần đảo này từ năm 1933, kể cả nhật ký của những người Pháp, người Việt làm việc trên đảo này từ trước cho đến ngày 20 tháng 1 năm 1974 là ngày quân xâm lược Trung Quốc dùng lực lượng hải quân áp đảo cưỡng chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa từ tay quân lực Việt Nam cộng hòa
Ngoài ra còn có nhiều ghi chép, kể cả bản đồ do người ngoại quốc viết và vẽ về quần đảo Hoàng Sa. Chỉ tiếc trong tay ta có cả đống tư liệu vô cùng phong phú, mà không hiểu do cản trở gì lại không được phổ cập trong các trường học và cho mọi người dân Việt Nam đều được biết về hình hài Tổ quốc mình. Hơn nữa còn làm tài liệu cho nhân dân thế giới biết được thực hư, phải trái, nếu không cứ để cho người Trung Hoa nói bừa, nói bậy rồi tới lúc lộng giả thành chân, ta có hối cũng không kịp.
Tài liệu lịch sử thì nhiều không thể trích hết ra đây cho được, tôi chỉ xin giới thiệu hai bản sách phổ cập nhất là “Phủ biên tạp lục” quyển 1 của học giả Lê Quý Đôn có nói kỹ về phủ Quảng Ngãi và đảo Cát Vàng (Hoàng Sa)
Thứ nữa là sách “Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn soạn. Viện sử học dịch, Nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản gồm 5 tập. Trong đó tập 2, quyển 8 là phần tỉnh Quảng Ngãi, mục “Núi Sông” có nói về “Đảo Hoàng Sa”. Cuối sách, phần phụ lục, lại nói riêng về “quần đảo Hoàng Sa”.
Lại nữa, các sách Đại Nam thực lục; Lịch triều hiến chương loại chí; Việt Nam hội lệ sự điển; Việt sử thông giám cương mục… đều có nói khá kỹ về quần đảo Hoàng Sa.
Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có đoạn ghi như sau: “Phủ Quảng Ngãi huyện Bình Sơn có xã An Vĩnh ở gần biển, ngoài biển về phía Đông Bắc có nhiều cù lao, các núi linh tinh hơn 130 ngọn, cách nhau bằng biển, từ hòn này sang hòn kia hoặc đi một ngày hoặc vài canh thì đến. Trên núi có chỗ có suối nước ngọt. Trong đảo có bãi cát vàng dài ước hơn 30 dặm, bằng phẳng rộng lớn, nước trong suốt đáy. Bên đảo có vô số yến sào; các thứ chim có hàng nghìn hàng vạn, thấy người thì đậu vòng quanh không chạy. Bên bãi vật lạ rất nhiều. Ốc vân có ốc tai voi to như chiếc chiếu, có ốc xà cừ để khảm đồ dùng, đồi mồi thì rất lớn…”
Các thuyền ngoại phiên bị bão thường đậu ở đảo này. Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đấy tha hồ bắt chim, bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tầu ( các tầu buôn bị đắm) như là gươm, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, sừng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ…Đến kì tháng 8 thì về, vào cửa eo, đến thành Phú Xuân để nộp” (phủ biên tạp lục, tập 1, trang 119-120 nhà xuất bản khoa học xã hội 1977).”
Và sách Đại Nam nhất thống chí tập 2 tờ 369-370 ghi: “Đảo Hoàng Sa ở phía đông cù lao Ré huyện Bình Sơn từ bờ biển Sa kì đi thuyền ra, thuận gió thì độ 3-4 ngày đêm có thể đến nơi. Có đến hơn 130 đảo nhỏ cách nhau hoặc 1 ngày đường, hoặc mấy trống canh.
Trong đảo có bãi cát vàng, liên tiếp kéo dài không hết hàng mấy ngàn dặm, bằng phẳng, rộng rãi, tục gọi “Vạn lý trường sa”….
Hồi đầu bản triều đặt đội Hoàng Sa có 70 người, lấy dân xã An Vĩnh sung vào, hằng năm cứ tháng 3 là ra biển tìm kiếm hải vật, đến tháng 8 thì do cửa biển Từ Hiền về nộp; lại đặt đội Bắc Hải do đội Hoàng Sa kiêm quản, để đi lấy hải vật ở các đảo. Phía đông đảo Hoàng Sa gần phủ Quỳnh Châu đảo Hải Nam nước Thanh (tức Trung Quốc). Đầu đời Gia Long, phỏng theo lệ cũ đặt đội Hoàng Sa, sau lại bỏ.
…Năm Minh Mệnh thứ 16 (1836) sai thuyền công, chở gạch đá đến đấy xây đền, dựng bia đá ở phía tả đền để ghi dấu và tra hột các thứ cây ở ba mặt tả hữu và phía sau. Binh phu đắp nền miếu đào được lá đồng và gang sắt có đến hơn 2000 cân”.
Qua đây, ta biết từ thời các chúa Nguyễn đến các triều đại nhà Nguyễn, việc quản lý Hoàng Sa đều do Nhà nước chỉ huy, trong đó có việc đo đạc, vẽ bản đồ, lập miếu, dựng bia, gieo hạt, trồng cây và khai thác sản vật. Tất cả những yếu tố trên đáp ứng đầy đủ các điều kiện chiếm hữu mà Ủy ban pháp luật của Liên hiệp quốc soạn thảo trong Công ước về luật biển UNCLOS 1982. Phía tranh chấp với chúng ta, nằm mơ cũng không có được một dòng chứng tích để làm chứng lý cho việc xác lập chủ quyền chiếm hữu.
PV: Thưa nhà văn tình hình Biển Đông hiện nay rất nguy hiểm, có người ví nó như một kho thuốc súng chờ nổ. Vậy báo chí Trung Quốc đang tuyên truyền gì về vấn đề Biển Đông?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải : Trở lại vấn đề Trung Quốc chiếm hữu một phần Hoàng Sa một cách bất hợp pháp từ năm 1956. Trên thực tế năm 1956 Chính phủ Việt Nam cộng hoà đang quản lý cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cho tới tháng 1 năm 1974, Trung Quốc huy động một lực lượng lớn hải quân cưỡng chiếm phần còn lại của quần đảo Hoàng Sa từ tay quân lực Việt Nam cộng hoà. Và mãi tới tháng 3 năm 1988, lại vẫn với thủ đoạn dùng lực lượng áp đảo đánh bất ngờ một cách hết sức dã man và tàn bạo, Trung Quốc lại chiếm đảo Đá Gạc Ma từ tay quân đội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau đó quân xâm lược chiếm thêm các đảo Đá Chữ Thập, Đá Châu Viên, Đá Ga Ren, Đá Tư Nghĩa, Đá Subi….
Sự có mặt của Trung Quốc trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam thực chất là một cuộc xâm chiếm đất đai đúng nghĩa.
Trung Quốc chỉ được sở hữu hợp pháp 13% diện tích Biển Đông, nay tuyên bố chủ quyền tới 90% Biển Đông, tức hơn 3 triệu cây số vuông khiến các nước có chung Biển Đông phản ứng quyết liệt. Không chỉ Việt Nam mà cả Philippines, Malaysia và Brunei cũng khẳng định chủ quyền theo Công ước UNCLOS của Liên hiệp quốc.
Một trong những khẳng định chủ quyền mạnh mẽ của Việt Nam là ngày 21 tháng 6 vừa qua, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật biển, trong đó khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam. Đó là việc bình thường của mỗi quốc gia có chủ quyền. Trung Quốc cũng công bố Luật biển của nước họ từ năm 1992. Ngay điều 1 của Luật biển Việt Nam đã khuyến cáo trong quá trình thi hành có điều gì không phù hợp với Công ước Luật biển UNCLOS của Liên hiệp quốc sẽ lập tức tu chỉnh. Việc làm này tỏ rõ thiện chí của Việt Nam là hoà hợp, là tôn trọng luật lệ quốc tế và thông lệ quốc tế
Tuy nhiên, điều đó khiến Trung Quốc không hài lòng. Quốc hội Trung Quốc ngay lập tức đòi Việt Nam phải huỷ bỏ hoặc sửa chữa Luật biển của nước mình. Bộ ngoại giao Trung Quốc triệu Đại sứ Việt Nam ở Bắc Kinh đến phản đối về Luật biển Việt Nam.
Thực hiện kế hoạch xâm chiếm, Trung Quốc tuyên bố thành lập thành phố Tam Sa, và xây trụ sở hành chính một cách bất hợp pháp trên đảo Phú Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Nay lại dựa trên quyết định sai trái ấy để lấy nó làm căn cứ dựng lên cái gọi là Khu phòng thủ Tam Sa, thật là một bước leo thang nguy hiểm. Hơn thế nữa, Trung Quốc cho Tam Sa là tiền tuyến của Bắc Kinh trong trận chiến Nam Hải, và triển khai quân đồn trú cấp Phân khu và trực thuộc hạm đội Nam Hải. Và họ đang khởi động đưa một đoàn tầu cá khổng lồ với 23000 tầu tới các vùng biển chủ quyền của Việt Nam đánh bắt. Lại kêu gọi vũ trang cho 100000 ngư phủ trở thành một đội quân mạnh hơn bất kỳ lực lượng vũ trang nước nào đang tranh chấp biển đảo với họ. Với các hành động mang tính cơ bắp đó, rõ ràng người Trung Quốc đang chuẩn bị chiến tranh.
Trong khi đó nhà cầm quyền Trung Quốc luôn tuyên bố phản đối dùng vũ lực và củng cố tình hữu nghị, củng cố lòng tin trên cơ sở “16 chữ”và “4 tốt”. Sự thực đây chỉ là chiêu bài lừa mị nhân dân Việt Nam và dư luận thế giới, kỳ thực họ đang chuẩn bị cho một âm mưu cực kì thâm độc để hiểm chiếm Biển Đông với bất cứ giá nào kể cả chiến tranh.
Song song với hành động hung hăng và hiếu chiến này, các trang mạng và báo chí Trung Quốc đang kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, đổ lỗi cho các nước, đặc biệt là Việt Nam và Philippines. Suốt từ năm 2009 tới nay, báo chí Trung Quốc không ngớt công kích Việt Nam với lời lẽ càng ngày càng hiếu chiến và dường như nó không còn nằm trong hệ ngôn ngữ ngoại giao của bất kì một quốc gia nào gọi là có một chút văn minh nữa. Ví như tờ “Hoàn cầu thời báo” thuộc tờ Nhân Dân nhật báo của Đảng cộng sản Trung Quốc từng viết bài đe dọa Việt Nam rồi hô hào: “Sát Việt khấu vi Nam Sa chi chiến tế kỷ” (giết giặc Việt để làm lễ tế cờ trong trận chiến Nam Sa). Sau đó bài này được đưa trên trang mạng Trung Quốc vào hồi 5h45’ ngày 9-1-2010.
Khơi gợi lại hận thù xưa, công khai thú nhận tội ác của nhà cầm quyền Trung Quốc trong chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17-2-1979, mạng quân sự Milchina.com tháng 1 năm 2011 đã đăng thư của một viên cựu chiến binh còn sống sót trong cuộc xâm lăng đó, tôi chỉ trích một đoạn ngắn: “…mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phán, hủy hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau 2 ngày đánh nhau, bộ đội tham chiến của ta chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ”... Tự thân lời thú tội này đã nói lên tất cả. Sự ghê tởm này chỉ có thể so được với đội quân xâm lược nhà Minh do tên tội phạm số 1 Minh Thành tổ đã xua 80 vạn quân sang xâm lược và tàn phá đất nước Việt Nam hồi đầu thế kỉ 15.
Trung Quốc thường tuyên bố “Trỗi dậy trong hòa bình” và là “Một quốc gia có trách nhiệm” nhưng sao lời lẽ thì hiếu chiến, mà hành động lại thuần gây hấn với các nước láng giềng. Cái đám tầu cá hung hăng kia liệu có đúng là dân ngư phủ hay là bọn thám báo, quân báo trá hình, hết gây sự với Việt Nam, Philippines lại đến Nhật Bản, Hàn Quốc và Nga; ngay tầu thăm dò Impecable của Mỹ cũng bị cái đám tầu cá này quấy nhiễu. Tổng hợp các hành động ngạo mạn trên cho ta biết một Trung Quốc đang trỗi dậy thật sự. Nhưng là sự trỗi dậy với cung cách học đòi làm sen đầm quốc tế. Và với thái độ ngông ngạo muốn làm bá chủ thế giới thật sự. Mới đây đọc trên mạng thấy đăng lại bài phát biểu của tướng Trì Hạo Điền, nguyên Bộ trưởng Bộ quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Bài này có tựa đề: “Sử dụng vũ khí sinh học quét sạch nước Mỹ, bá chủ thế giới”.
“…Chỉ có thể sử dụng loại vũ khí không hủy diệt, nhưng có khả năng giết nhiều người chúng ta mới có thể dành lấy nước Mỹ cho chúng ta.
…Chúng ta có khả năng đạt được mục tiêu “Quét sạch nước Mỹ” một cách hoàn toàn bất ngờ. Khi đồng chí Đặng Tiểu Bình còn sống, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã sáng suốt đưa ra quyết định đúng đắn là không phát triển các nhóm tầu sân bay và thay vào đó, tập trung phát triển các loại vũ khí có thể thủ tiêu hàng loạt dân chúng của nước thù địch.
Xét về mặt nhân đạo, chúng ta cần phải cảnh báo cho dân chúng Mỹ và thuyết phục họ phải rời khỏi nước Mỹ và để lại vùng đất họ từng sinh sống trên đó cho người Trung Quốc. Hoặc là ít nhất họ phải rời khỏi một nửa nước Mỹ để nhường phần đất đó cho người Trung Quốc, bởi phát hiện ra nước Mỹ lần đầu tiên chính là người Trung Quốc.” (Nguồn báo Đất Việt 7-7-2012, Nguyễn Hữu Quý).
Thảo nào với Hoàng Sa, Trường Sa của ta, họ bảo họ đã nhìn thấy trước và đã lưu vào sử sách từ đời Hán, đời Đường.
Đây không còn là tham vọng nữa mà là cuồng vọng của kẻ cuồng chiến.
PV: Vậy giới học giả Trung Quốc đã lên tiếng như thế nào về vấn đề Biển Đông, thưa ông?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Nước Trung Hoa có truyền thống văn hiến lâu đời, từng sản sinh ra các học thuyết triết học vĩ đại, cống hiến đáng kể vào kho tàng trí thức và nền văn minh nhân loại cùng với hơn 1 tỷ dân và biết bao các học giả, biết bao nhà trí thức đạt tầm cao nhân loại, không dễ gì bị các nhà dân tộc chủ nghĩa mù quáng và hiếu chiến lừa dối được. Vì vậy giới học giả Trung Hoa đã cất lên tiếng nói nhân văn một cách dũng cảm, công bằng và khoa học.
Học giả Chu Hạo, chuyên viên của Viện quan hệ quốc tế Bắc Kinh đăng trên tờ China Daily vào ngày 6-7-2012: “Điểm nóng tranh chấp Biển Đông đã làm xấu đi hình ảnh Trung Quốc trong khu vực Đông Nam Á, đặc biệt từ 2010 tới nay…Nếu tiếp tục chính sách ngoại giao pháo hạm, sự phát triển của Trung Quốc sẽ bị cho là mối đe dọa với nhiều nước khác, không tỉnh táo thì Biển Đông sẽ là cái bẫy giam hãm Trung Quốc”.
Giáo sư Sun Zhe lưu ý Trung Quốc rằng: “Nam Hải (Biển Đông) không phải là “ao nhà” (internal lake) của Trung Quốc, bởi phần nhiều vùng biển này thuộc về vùng biển quốc tế…Với đường lưỡi bò này, Trung Quốc có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế hiểu rằng Bắc Kinh đang cố gắng kiểm soát Biển Đông như một “ao nhà” của chính mình…”
Trong cuộc Hội thảo của Học viện khoa học xã hội Trung Quốc (CASS), giáo sư Thịnh Hồng thuộc Đại học Sơn Đông nói: “Chúng ta không nên chỉ nghĩ lợi ích cho mình mà cần phải quan tâm đến lợi ích của toàn thế giới bằng cách tuân thủ các quy tắc quốc tế”.
Học giả Zhang Yuling thuộc CASS nói: “Trung Quốc không nên bám víu vào tư duy truyền thống của mình. Việc thảo luận về các biện pháp cụ thể để phân định vùng đặc quyền kinh tế trong vùng biển này phải phù hợp với UNCLOS, trong đó Asean sẽ đóng một vai trò phù hợp. Đường lưỡi bò diễn giải mơ hồ về quyền tài phán, không đề cập đến các yếu tố địa lý của đường bờ biển hay đường cơ sở là hoàn toàn không thuyết phục”.
Nhà nghiên cứu Lý Lệnh Hoa thuộc trung tâm tin tức Hải Dương của Trung Quốc cho rằng: “Chúng ta – Trung Quốc vẽ đường chín đoạn mà không có một kinh độ hoặc vĩ độ cụ thể, và cũng không có căn cứ pháp luật. Đường chín đoạn chiếm giữ gần 80% Biển Đông là do Trung Quốc tự vẽ ra năm 1974”.
Giáo sư Trương Thụ Quang, đại học Tứ Xuyên thì nhấn mạnh “Trung Quốc không thể tự vẽ ra đường chín đoạn. Khi Trung Quốc khăng khăng đưa ra “Đường lưỡi bò” nhưng không có căn cứ để khẳng định và không được bất kì nước nào thừa nhận thì nó vô giá trị. Quyền lợi của anh (TQ) cần được người khác thừa nhận, người khác không thừa nhận thì anh không có quyền đó”.
Thạc sĩ báo chí truyền thông Chu Phương, Biên tập viên cộng tác tại Ban biên tập đối ngoại của Tân Hoa xã có bài báo với tựa đề “Hiện trạng Nam Hải (Biển Đông) có lẽ sẽ kéo lùi cải cách chính trị của Trung Quốc” đăng ngày 17-7-2012. Mở đầu Chu Phương viết: “Nhiều người dân nước ta đến giờ vẫn chưa hiểu tại sao Nga lần đầu tiên lại tham gia diễn tập quân sự lớn Thái Bình Dương do Mỹ chỉ đạo. Kỳ thực đó là sự phản ứng mạnh mẽ quốc tế trước hành động thiết lập “Thành phố Tam Sa” đi ngược lại luật quốc tế và vô trách nhiệm của Trung Quốc.
…Việc thiết lập “Thành phố Tam Sa” là một trò cười quốc tế điển hình. Chính phủ Trung Quốc cần nhận rõ sai lầm to lớn của mình, sớm có hành động sửa chữa sai sót.
…Hành động sai lầm nguy hiểm vô trách nhiệm của một số người trong việc thiết lập “Thành phố Tam Sa” đang đẩy nhân dân Trung Quốc sa vào miệng hố chiến tranh. Nhân dân Trung Quốc cần hòa bình, không cần chiến tranh. Trong việc xử lý vấn đề quốc tế và xử lý vấn đề quan hệ với các nước, Trung Quốc cần phải tỉnh táo, không được cuồng nhiệt. Trung Quốc cần làm một dân tộc có trách nhiệm, đứng thẳng giữa khu rừng các dân tộc thế giới, quyết không thể làm một “cô nhi thế giới” hành động ngang bướng.
Trong việc giải quyết công việc quốc tế, Trung Quốc cần phải học cách tuân thủ quy tắc trò chơi đã được cả thế giới công nhận, tránh một mình một kiểu, mình khen mình hay, đừng để trở thành Triều Tiên thứ hai…
Bản thân tôi mạnh mẽ kêu gọi hãy lập tức hủy bỏ “thành phố Tam Sa”, triển khai sớm nhất có thể được việc đối thoại mang tính xây dựng với các nước xung quanh Nam Hải, dốc sức cho việc làm dịu tình hình căng thẳng ở Nam Hải (Biển Đông) loại bỏ nguy cơ chiến tranh, đưa Trung Quốc trở lại với đại gia đình quốc tế”…
Trên đây là hai lối hành xử của người Trung Quốc. Một bên là áp đặt, ngông cuồng, hiếu chiến, tham lam, bất chấp đạo lý và pháp lý, còn một bên là tiếng nói của lương tri, tôn trọng đạo lý và luật pháp quốc tế, hòa bình, thân hữu.
PV: Và phản ứng của thế giới đối với vấn đề Biển Đông thì sao, thưa ông?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Các quốc gia trên thế giới đều thể hiện sự quan tâm đặc biệt tới vấn đề này, đặc biệt bất bình với những hành động khiêu khích và xâm lấn trắng trợn của Trung Quốc. Sau đây là một vài ý kiến của một số nhân vật Hoa Kỳ, quốc gia vốn là thân hữu của Trung Quốc, ân nhân giúp Trung Quốc thoát khỏi vòng vây của Liên Xô và tạo tiền đề cho Trung Quốc hội nhập với thế giới và trở thành một nước cường thịnh. Trước hàng loạt các hành động gây hấn của Trung Quốc ở Biển Đông, Thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, ông John Mc Cain cho là: “Trung Quốc khiêu khích”.
Còn nghị sĩ Jim Webb của Ủy ban đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ cho rằng: “Các hành động gần đây của Trung Quốc nhằm đơn phương khẳng định quyền kiểm soát Biển Đông là phạm luật quốc tế”.
Ngoại trưởng Hoa Kỳ, bà Hilary Clinton nói: “Trung Quốc cần hành xử như một cường quốc có trách nhiệm”.
Ngài Hishore Mabubanie, giáo sư hiệu trưởng trường Chính sách công Lý Quang Diệu Singapore thì phê phán: “Trung Quốc bắt đầu có những sai lầm nghiêm trọng. Việc Trung Quốc năm 2009 gửi công hàm lên Liên hiệp quốc để đưa ra yêu sách đường chín đoạn (đường lưỡi bò) là hành động không khôn ngoan, vì Bắc Kinh sẽ gặp khó khăn trong việc biện hộ cho yêu sách của mình theo luật quốc tế. …Đường chín đoạn có thể sẽ chỉ là cái cùm lớn đeo vào cổ Trung Quốc”.
Dẫu sao tôi vẫn muốn trích lại bài của ông luật sư người Mỹ viết cách đây một năm (27-7-2011). Ông Ted Laguatan là một trong 29 luật sư nổi tiếng nhất trong suốt 20 năm qua của Đoàn luật sư bang California đã lên tiếng về sự ngông ngạo của Trung Quốc đối với Biển Đông.
Tựa đề bài viết của ông Ted: Tại sao Trung Quốc không đưa vấn đề Trường Sa ra Liên hiệp quốc?
“…Nhà Hán của Trung Quốc mới có từ 206 trước Công nguyên đến 220 Công nguyên.
Còn Alexandre đại đế chết năm 323 trước Công nguyên. Vương quốc của ông bao gồm Hy Lạp, Syrie, Ba Tư, Ai Cập và một phần Ấn Độ.
Đế quốc La Mã tồn tại hơn 1000 năm thâu tóm cả Châu Ấu, một phần Châu Á, Châu Phi.
Vậy ngày nay 2 nước Macédoine và La Mã có thể đòi lại các phần đất cũ mà đế quốc Macédoine và La Mã chiếm đóng từ mấy ngàn năm trước không?
Nếu lý luận như Trung Quốc ngày nay thì người Mông Cổ có thể đòi lại cả Nước Nga và nước Trung Hoa cùng nhiều nước khác mà Thành Cát-Tư-Hãn (Jensis Khan) đã thống trị từ thế kỷ 13, 14 không?
Thói ngạo mạn của Trung Quốc lấy cơ bắp làm ngôn ngữ ngoại giao và áp đặt chính sách đối ngoại của mình buộc đối phương phải tuân thủ tựa như đường lối của bọn phát xít Hít-Le hồi Đại chiến thế giới thứ 2. Thế nhưng Trung Quốc luôn rêu rao là “trỗi dậy trong hòa bình” và muốn làm bạn với các nước.
Lâu nay Trung Quốc đã thể hiện rất kiên trì đường lối đối ngoại là cái gì họ làm với thế giới luôn luôn ngược lại với cái mà họ hùng hồn tuyên bố
Hãy cảnh giác với Trung Quốc!”
PV: Thưa ông, tình hình đã tới mức nghiêm trọng. Có thể nói Trung Quốc đã dẫn dắt mâu thuẫn ngoài Biển Đông tới miệng hố chiến tranh, nhưng họ lại cứ vờ nói: “Phải giải quyết tranh chấp Biển Đông trên cơ sở thương lượng hòa bình, tránh đối đầu, tránh đe dọa dùng vũ lực…” Xin ông cho hỏi 1 câu cuối để khép lại cuộc trao đổi. Thưa ông, vậy ta cần làm gì và phải làm gì để không dẫn đến đối đầu, xung đột vũ trang mà vẫn bảo vệ được hòa bình, toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải và các quần đảo của chúng ta.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải: Đúng vậy, những gì đã và đang diễn ra trên Biển Đông quả là nghiêm trọng. Câu hỏi nhà báo vừa đặt ra tôi không thể trả lời được, đó là về phương diện quốc gia, thẩm quyền ấy thuộc về Đảng cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Bởi theo điểu 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 thì Đảng cộng sản lãnh đạo Nhà nước. Lãnh đạo Nhà nước để xây dựng và bảo vệ đất nước là trọng trách thuộc về Đảng và Nhà nước, tức bộ máy cầm quyền phải có trách nhiệm với vận mệnh quốc gia.
Tuy nhiên, “quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách”. Vả lại nước là của dân. Dân được bà n và có quyền bàn nhưng quyết về phương lược đối sách lại thuộc về nhà cầm quyền. Ta phải làm gì với người hàng xóm mưu mô hiểm độc này ư? Ta là nước nhỏ, họ là nước lớn cho nên từ mấy ngàn năm nay là hàng xóm hữu hảo hay hàng xóm cừu thù đều do họ quyết định chứ đâu phải do ta. Xưa thế, nay vẫn thế. Nhưng nếu khôn ngoan và biết tự trọng thì không cho phép họ biến mình thành con rối trong tay họ. Nếu ta biết tự trọng thì buộc đối phương phải tôn trọng ta.
Cha ông ta đã từng buộc đối phương phải kính trọng thay vì tôn trọng. Đã đến nước này có nhẽ Nhà nước không nên lẩn tránh sự thật. Bởi ta không cho Báo chí nói lên sự thật, không cho nhân dân biểu lộ lòng yêu nước trước sự đe dọa của Trung Quốc. Thậm chí tầu của Trung Quốc vào sâu trong vùng biển ta cắt cáp, phá hoại sản xuất của ta, ta cũng im lặng không tố cáo; tầu của Trung Quốc bắn chết ngư dân ta, cướp thuyền, thu lưới, vét cá, bắt tù, bắt chuộc tiền, ta cũng im lặng hoặc chỉ nói “tầu lạ”.
Chắc hẳn Nhà nước muốn giữ tình hòa hiếu giữa hai nước, mà lãnh đạo hai nước gặp nhau thường trao đổi trên cơ sở 16 chữ vàng và 4 tốt. Tuyên bố chung trong các cuộc lãnh đạo hai nước thăm viếng nhau, đều xoay quanh chuyện “đối tác chiến lược”, “hợp tác toàn diện”, “ không để cho tình hình Biển Đông cản trở sự hợp tác phát triển của hai nước”. “ Mọi tranh chấp có thể giải quyết bằng thương lượng”. Lại lập cả đường dây nóng….
Phía ta giữ gìn từng li từng tí, cốt sao cho bạn tin tưởng. Thế nhưng ta càng nhẫn nhịn, bạn càng lớn tiếng vu cáo ta, la mắng thậm chí chửi bới ta. Ta càng nhún nhường bạn càng lấn tới. Nay thì “bạn” đã sấn sổ vào tận cửa nhà ta, túm lấy ngực áo ta, dí dao nhọn vào cổ ta rồi. Vậy ta vẫn kêu họ là “bạn” hay phải gọi nó là “quân ăn cướp giết người”, hay là “quân xâm lược” hay vẫn là “ quân lạ” đây?
Nếu không xác định rõ đối tượng thì làm sao tìm ra đối sách. Một sự thật tàn nhẫn đã hiển lộ rành rành, có lẽ Nhà nước nên chấp nhận, không nên và cũng không thể né tránh được nữa trước toàn dân về tình hình đất nước đang bị ngoại bang đe dọa nghiêm trọng, quan hệ đến vận mệnh an nguy của Tổ quốc. Chỉ có đoàn kết toàn dân với tinh thần Diên Hồng mới có thể hóa giải được.
Cách hành xử của tổng thống Philippines Benigno Aquino nói trước toàn dân ngày 23 tháng 7 vừa qua do hãng Reuters đưa lại, tưởng cũng nên tham khảo: “Trong vai trò lãnh đạo, tôi có bổn phận bảo vệ luật pháp của đất nước chúng ta. Và trong khi tôi làm bổn phận này, căng thẳng đã diễn ra, một mặt là, phía Trung Quốc đưa ra lý thuyết đường đứt đoạn 9 khúc để tuyên bố chủ quyền gần như trên toàn bộ biển Tây Philippines.
…Chúng ta đã tỏ ra nhẫn nhục tới mức tối đa trong khi đối phó với vấn đề này. Chúng ta đã chọn con đường không lời qua tiếng lại với những tuyên truyền khiêu khích của báo chí Trung Quốc.
Tôi không cho là một điều quá đáng khi chúng ta yêu cầu nước khác tôn trọng chủ quyền của chúng ta, như chúng ta tôn trọng chủ quyền của một nước khác trong thế giới mà chúng ta cần phải sống chung. Có những kẻ khuyên chúng ta nên bỏ qua vụ việc Bajo Masinloc (quốc tế gọi là bãi cạn Scarborough) chúng ta nên tránh phiền phức.
Nhưng nếu có một người nào đó vào ngôi vườn của bạn và nói với bạn rằng hắn làm chủ ngôi vườn ấy, bạn có chịu không? Liệu có đúng không khi chúng ta giao cho kẻ khác những gì chính đáng thuộc về chúng ta. Và vì thế tôi kêu gọi đồng bào phải đoàn kết về vấn đề này. Chúng ta phải nhất trí nói cùng một tiếng nói:
Xin đồng bào giúp tôi chuyển đến phía bên kia (TQ) những lý lẽ trong lập trường của chúng ta”.
Vậy là các nhà lãnh đạo và nhân dân Philippines đã có một tiếng nói chung
Ngài tổng thống Aquino kết thúc bài nói chuyện bằng câu: “Xin đồng bào giúp tôi chuyển đến phía bên kia (TQ) những lý lẽ trong lập trường của chúng ta”, có nghĩa là ông kêu gọi các phương tiện truyền thông góp sức cùng nhà nước đấu tranh trên cơ sở của lẽ phải.
Về phía ta điều nên làm khẩn cấp trong lúc này là phải công khai các tư liệu về chủ quyền 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa cho toàn dân được biết. Phải xác định rõ tọa độ 2 quần đảo này theo kinh độ, vĩ độ. Phải trình bày rõ ràng việc chiếm hữu, khai thác thực hiện chủ quyền liên tục từ mấy thế kỉ nay. Phải in các bản đổ cùa ta và của Trung Quốc cổ kèm theo. Phải dịch ra các thứ tiếng, và tùy viên văn hóa của sứ quán ta ở các nước có quan hệ ngoại giao với ta, phải có nghĩa vụ giới thiệu và làm rõ vấn đề với các nước bạn, để bạn hiểu đâu là chân lý. Phải phổ cập kiến thức này qua hệ thống truyền thông của Nhà nước. Phải phổ cập chương trình này trong các cấp học của Bộ giáo dục. Trong các đơn vị của Bộ quốc phòng, mỗi người lính phải hiểu tường tận lãnh thổ, lãnh hải của cả nước. Nếu không biết rõ hình hài của đất nước thì biết ta sở hữu đến đâu mà bảo vệ. Nên in thành tài liệu rút gọn về Trường Sa, Hoàng Sa có kèm bản đổ phát không cho khách du lịch nước ngoài và phát tài liệu này cho toàn dân. Cũng nên mở các cuộc thi tìm hiểu về địa lý, lịch sử của Trường Sa, Hoàng Sa, Bạch Long Vỹ, Lý Sơn, Cô Tô, Cồn Cỏ, Phú Quý, Phú Quốc…
Trong điều kiện có thể nên in cả Luật biển Việt Nam và Công ước luật biển UNCLOS của Liên hiệp quốc để phổ cập cho mọi tầng lớp nhân dân được biết. Và đó chính là cơ sở pháp lý để ta đấu tranh với họ. Cái lý gì bãi cạn Scarborough của Philippines cách đất liền Philippines có 130 hải lý, cách đảo Hải Nam Trung Quốc hơn 600 hải lý mà Trung Quốc nhận là đất của họ.
Trường Sa, Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam từ 300 đến 400 km, cách Trung Quốc từ 600-900 km mà Trung Quốc lại nhận là của Trung Quốc. Nó hoàn toàn trái với Công ước Luật biển của Liên hiệp quốc mà Trung Quốc cũng là một bên ký kết. Đường lưỡi bò do Trung Quốc tự vẽ ra và đe dọa các nước phải công nhận. Nếu các nước có liên quan và cả thế giới chấp nhận cho Trung Quốc áp dụng luật rừng thì ước tính họ chiếm của Việt Nam 1.170.000km2 thềm lục địa; Philippines mất khoảng 620.000km2; Malaysia 170.000 km2; Brunei 50.000km2; Indonesia 50.000km2. Và như thế là Trung Quốc sẽ làm bá chủ Biển Đông, tức là làm chủ cả phía tây Thái Bình Dương, thế giới sẽ khốn đốn với họ.
Nếu Việt Nam và các nước Đông Nam Á nhát sợ không liên kết lại đứng ra tự bảo vệ mình, không liên kết quốc tế lại thành một mặt trận bảo vệ công lý chống lại các hành vi tham lam, ngang ngược và gây hấn của Trung Quốc, chắc chắn họ sẽ lấn lướt hơn, quyết đoán hơn.
Tuy nhiên, nhân loại của thế kỉ 21 đã tỉnh thức, dù nhà cầm quyền Trung Quốc có tham vọng biến mình thành Hít-le thì thế giới cũng không cho phép, nhân dân Trung Quốc không cho phép.
Thiết nghĩ trên đây là những việc cần làm cấp bách, còn việc phải làm cũng không kém phần cấp bách nữa là chuẩn bị sẵn sàng cho tình huống xấu nhất. Trong đó về nhân lực, về khí tài không thể coi nhẹ. Không thể duy ý chí mà phải coi trọng về thực chất. Và việc phán đoán cơ mưu quỷ quyệt của đối phương phải hết sức chính xác, sai một ly đi cả vạn dặm. Về tham mưu nhân dân, chúng tôi xin Bên an ninh, Quốc phòng lưu ý cái đám cả vạn tầu cá trá hình của Trung Quốc. Có thể sự rắc rối khó lường lại nảy sinh từ đám tầu cá chứ không phải lũ tầu ngầm và khu trục hạm.
Hãy dũng cảm, tự tin và liên kết bạn bè để hưng thế nước. Dân tộc ta đã từng vùi chôn cái mộng bá chủ thiên hạ của Hốt-tất-liệt- tên trùm đế quốc Mông - Nguyên có sức mạnh kinh thiên động địa hồi thế kỉ 13; chẳng nhẽ đó không phải là nguồn động lực, không phải là một thứ khí tài thần thánh cho toàn dân bảo vệ Tổ quốc sao?
Sức mạnh là ở lòng dân!
PV: Cảm ơn nhà văn Hoàng Quốc Hải về cuộc trao đổi toàn diện và sâu sắc này.
Nhóm phóng viên
Sống Mới thực hiện
Ảnh Nhà văn Hoàng Quốc Hải trước bãi Tục Lãm