Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NHỮNG GIẢI VĂN HỌC KHÔNG CÓ THẬT

Đỗ Trường
Chủ nhật ngày 20 tháng 3 năm 2011 6:06 AM

Cạnh nhà tôi có một chị nguyên là công nhân làm thuê từ thời Đông Đức, chị mới học xong tiểu học, nhưng rất ham đọc sách báo. Gặp tôi chị hỏi:
- Ông đã đọc truyện ngắn Dị Hương, và tiểu thuyết Hội Thề  chưa? Mấy cái truyện vừa được giải của hội nhà văn trong nước ấy.
Tôi bảo chị, mới đọc  Dị Hương, chứ Hội Thề chưa đọc….  Tôi nói chưa hết câu, như đỉa phải vôi chị nhảy đứng lên, chẳng khác gì một bác nhà văn bị nhà thơ Trần Mạnh Hảo gán nhầm cho cái tội vào hội nhà văn bằng cửa sau.
- Giời đất ơi! Các bố lãnh đạo ở Việt Nam mê tín số một, suốt ngày chùa chiền cúng bái thế mà trao giải, cổ vũ cho mấy tay viết nói xấu Tổ tiên, ông bà. Thế nào không trước thì sau; các cụ cũng đội mồ về vặn cổ cả lũ.
Ngắc ngứ mãi, rồi tôi cũng đoc xong truyện ngắn Dị Hương của Sương Nguyệt Minh. Qủa thật, ngoài những pha làm tình mang dáng dấp từ truyện Đồi Thông Hai Mộ, Gia Long Nguyễn Ánh hiện lên đậm tính lục lâm thảo khấu với giọng văn kiếm hiệp phương Bắc. Còn lại tôi không tìm được điều gì khác tác giả muốn chuyển tải đến người đọc.
Trước năm 1975, ở Miền Bắc, sách, truyện về tình yêu ướt át cũng bị cấm đọc, cho là đồi trụy, xếp chung với sách báo phản động. Cuốn truyện Đồi Thông Hai Mộ (hình như còn một cái tựa đề khác nữa?) kể về những pha làm tình mang đầy tính dung tục của một bà vợ ông bá tước với người hầu. Cuốn sách này được chúng tôi truyền nhau đọc dưới dạng chép tay. Tầm tuổi 50, trên năm mươi  như chúng tôi và tác giả Sương Nguyệt Minh (viết Dị Hương) sống ở Miền Bắc hầu như ai cũng đọc truyện này. Ngày đó chiến tranh, ở nơi sơ tán, bọn choai choai chúng tôi thường thắp đèn trong màn, chui vào chăn, một thằng lầm rầm đọc cho cả bọn cùng nghe và thưởng thức. Một lúc sau sờ đũng quần thằng nào cũng nhầy nhầy ướt. Những pha làm tình quái đản, dung tục được miêu tả cách nay cả trăm năm, sao giống kiểu hành lạc giữa công chúa Ngọc Bình và Gia Long Nguyễn Ánh được Sương Nguyệt Minh của ngày hôm nay tả đến thế. Có lẽ nào ông tác giả người Pháp này đã thó của Sương Nguyệt Minh?.
Hình ảnh công chúa Ngọc Bình là bản sao nguyên mẫu của một nhân vật trong truyện Hoàn Châu công chúa của Tầu, đã đóng thành phim. Từ cách hành văn, cho đến hành động của từng nhân vật, tác giả không thoát ra khỏi cái hom, cái giỏ phim, truyện kiếm hiệp của Kim Dung khi tả bọn thảo khấu.  Chúng ta hãy đọc lại một đoạn văn Sương Nguyệt Minh đã miêu tả hành động  khi lên cơn động dục của Gia Long Nguyễn Ánh: “Ánh cầm gươm đưa những đường tuyệt kỹ như múa, nhẹ hơn gió thoảng. Loáng một cái cắt nát xiêm y, lụa bay tung lên rồi rơi xuống tơi tả. Như bóc trần, mỹ nữ khỏa thân hoàn toàn, mà mũi gươm không chạm đến da thịt ngọc ngà“.
Tôi không rõ Sương Nguyệt Minh viết Dị Hương nhằm mục đích gì, và phục vụ cho ai? Những người đọc bình thường như chị hàng xóm của tôi, hay những người còn nghĩ đến lịch sử của dân tộc, không khỏi bùi ngùi khi Gia Long Nguyễn Ánh, vị vua có công khai phá, mở mang bờ cõi, lập nên một vương triều Nguyễn dài 143 năm trải qua 13 đời vua, bị bôi bác xuyên tạc. Đọc những bài viết của các nhà văn Phạm Viết Đào, Đặng văn Sinh, Trần Mạnh Hảo…vv . dường như đã lộ dần ý đồ của người viết Dị Hương và những người trao giải cho tập truyện ngắn này.
Dị Hương là một truyện ngắn cóp nhặt, cho nên có đốt đuốc đi tìm cũng chẳng thấy một chút sáng tạo nào ở trong đó. Giả sử  thay gươm, giáo bằng những súng đạn, hoặc một chút bối cảnh của thời nay, xin bảo đảm tác giả Dị Hương sẽ được cơ quan an ninh văn hóa chăm sóc một cách đặc biệt ngay, chứ đừng nói đến chuyện in ấn, xuất bản, trao giải. Có một số ý kiến lại cho rằng giải văn học mấy năm gần đây hình như được phát chia mang tính chất cổ cánh, vùng miền nhiều hơn chất lượng nghệ thuật. Nghe cũng có lý, giải nhất, giải nhì năm nay được phát ra nếu không phải vì những lý do trên, thì khả năng thẩm định văn học của ban giám khảo có vấn đề. Tôi cũng như mong muốn của nhiều người khác, chất lượng giải năm nay do khả năng yếu kém của ban giám khảo chứ không vì những lý do nào khác, bằng không xấu hổ thay cho nền văn học nước nhà.
 Mấy năm nay ban tổ chức giải thưởng văn học hằng năm đã quan tâm hơn những tác giả, tác phẩm  của người Việt ở nước ngoài. Nhưng dường như vẫn còn coi nặng thành phần xuất thân tác giả, hoặc  xem tác giả đó có cùng cánh, cùng hội cùng thuyền hay không. Chúng ta có cả Ủy ban người Việt ở nước ngoài, trong đó có cả ban văn hóa văn nghệ. Hội nhà văn dường như cũng có ban đối ngoại. Nhưng hàng trăm văn bản, hàng nghìn nghị quyết cũng không làm những vết thương hàng mấy chục năm sau chiến tranh, dịu đi bằng một tác phẩm Ở CUỐI HAI CON ĐƯỜNG của tác giả Phạm Tín An Ninh, nguyên là sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa. Người đã bị tù đày khổ sai ở vùng núi Sơn La. Từ cuối đường hầm tăm tối, anh nhìn cuộc đời thật hơn, công bình hơn. Ngay cả người lính bên kia chiến tuyến, anh cũng có cách đánh giá trân trọng, tình người bởi anh hiểu rõ chúng ta đều là người Việt. Chỉ có tình người thật sự mới xóa đi hết nỗi đau và ranh giới cắt chia.
Trong khi viết về chiến tranh, các cây bút trong nước thật sự chưa có cái nhìn công bằng với những người quân cán của VNCH. Họ vẫn hiện lên đầy rẫy ở các tác phẩm với những hình ảnh méo mó, với những tên gọi xếch mé. Gần đây nhất tôi mới thấy các cây viết trong nước ca ngợi một người lính VNCH, vì anh có công cùng với người lính Mỹ cất giữ cuốn nhật ký Đặng Thùy Trâm, để hôm nay chúng ta mang ra phát động tuyên truyền. Chúng ta hãy bình tâm đọc lại những vần thơ của nhà thơ Trần Trung Đạo, anh là một thuyền nhân. Cũng viết về người lính, nhưng anh không phân biệt đâu lính VNCH, hay là anh bộ đội. Chúng ta chỉ có một người lính Việt Nam:
“Người lính già Việt Nam
Vừa chết đêm qua
Trên đường phố Sanjose bụi bặm…
… Người lính già Việt Nam
Như con thú hoang lạc loài
Vợ anh đâu?
Sao không về đây vuốt mắt
Con anh đâu?
Sao không đến vấn khăn tang… “
( Trích từ- Người lính già vừa chết đêm qua)
Tôi ít quan tâm đến âm nhạc trong nước, nhưng tôi rất thích (đại ý) câu nói của nhạc sỹ Quốc Trung, khi anh là thành viên trong ban giám khảo cuộc thi âm nhạc “Tôi không cần biết em (tức là thí sinh) là ai, có được đào tạo về âm nhạc hay không, chỉ cần biết khi em hát chạm được vào trái tim tôi, trái tim khán giả thì việc em nhận giải là đương nhiên“.
Thật vậy, khi ta đọc Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Nếu Mai Mốt Tôi Về của Trần Trung Đạo, hay Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân của Phạm Tín An Ninh, nó đã chạm vào tận cùng trái tim của chúng ta, nó xóa bỏ đi bao hận thù, nó đang làm khô miệng những vết thương đang rỉ máu. Đó là giải thưởng cao nhất dành cho tác phẩm, tác giả.
Chúng ta hãy nhìn vào những kệ, giá của cửa hàng bán sách trống trơn những tác phẩm này, bên cạnh nào là những Dị Hương, những Hội Thề, những Quyên phủ bụi mờ còn nằm lại đó.
Đức Quốc 18-3 – 2011
© Đỗ Trường