Cảm quan mùa xuân
Không rõ từ bao giờ tôi cứ quyến luyến với câu thơ này của Nguyễn Bính:
Xuân đã đem mong nhớ trở về
Lòng
cô gái ở bến sông kia
Mơ hồ, rất mơ hồ tôi bị ám ảnh bởi cái khát vọng của cô gái ở bến xuân kia, khát vọng về tình yêu, nhưng trước hết là khát vọng của sức sống do mùa xuân mang lại. Mặc dù cái khát vọng ấy rất ngắn ngủi với cô lái đò rồi trở thành vô vọng với người khách tình xuân lãng tử, nhưng nó vẫn luôn ám ảnh tôi, một người hậu thế không liên quan gì đến miền quê của Nguyễn Bính, nhưng nó cứ gợi cho tôi một cảm quan về mùa xuân của thời tôi đang sống. Nó mơ hồ nhưng liên quan đến một câu thơ của tôi sau này vào thời gian sắp đổi mới:
Bỗng nghe xa tắp chân mây động
Vòng sóng mùa xuân của vĩnh hằng.
Lý lịch
Nguyễn Bính sinh ngày 13-2-1918, tức mồng ba Tết năm Mậu Ngọ với tên thật là Nguyễn Trọng Bính tại xóm Trạm, thôn Thiện Vịnh, xã Đồng Đội (nay là xã Cộng Hòa), huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.
Cha Nguyễn Bính tên là Nguyễn Đạo Bình, làm nghề dạy học, còn mẹ ông là bà Bùi Thị Miện, con gái một gia đình khá giả. Ông bà sinh được ba người con trai là Nguyễn Mạnh Phác (Trúc Đường), Nguyễn Ngọc Thụ và Nguyễn Bính.
Bà Miện mất năm 1918, lúc đó bà mới 24 tuổi. Để lại cho ông Bình ba đứa con thơ, khi đó Nguyễn Mạnh Phác mới sáu tuổi, Nguyễn Ngọc Thụ ba tuổi và Nguyễn Bính mới sinh được ba tháng.
Mấy năm sau ông Bình cưới bà Phạm Thị Duyên làm vợ kế. Bà sinh được bốn người con, hai trai hai gái.
Bà cả Giần là chị ruột của mẹ Nguyễn Bính, nhà bà lại giàu có, nên bà cùng ông Bùi Trình Khiêm là cậu ruột của Nguyễn Bính và là cha của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn, đón ba anh em Nguyễn Bính về nuôi cho ăn học. Nguyễn Bính làm thơ từ thuở bé, năm 13 tuổi Nguyễn Bính được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng.
Trúc Đường đỗ bằng Thành chung vào loại giỏi ở Hà Nội, được tuyển vào dạy học tại một trường tư thục ở Hà Đông, bắt đầu viết văn và làm thơ. Nguyễn Bính về ở với anh và được Trúc Đường dạy cho Văn học Pháp. Từ đó Nguyễn Bính gắn bó với Trúc Đường cả về văn chương lẫn đời sống.
Năm 1932, 1933 Nguyễn Bính có theo người bạn học ở thôn Vân lên Đồng Hỷ, Thái Nguyên dạy học.
Bài thơ của ông được đăng báo đầu tiên là bài Cô hái mơ. Năm 1937 Nguyễn Bính gửi tập thơ Tâm hồn tôi tới dự thi và đã được giải khuyến khích của nhóm Tự lực văn đoàn. Từ năm 1940, Nguyễn Bính bắt đầu nổi tiếng với số lượng thơ khá dày, đề tài phong phú, trong đó chủ yếu là thơ tình. Cũng trong năm này Trúc Đường chuyển ra Hà Nội ở và đang viết truyện dài Nhan sắc, Nguyễn Bính tỏ ý muốn đi Huế tìm đề tài sáng tác. Trúc Đường tán thành nhưng không có tiền, ông đã cho Nguyễn Bính chiếc máy ảnh và về quê bán dãy thềm đá xanh ,vật báu duy nhất của gia đình đưa tất cả số tiền cho Nguyễn Bính.
Vào Huế Nguyễn Bính Gửi thơ ra cho Trúc Đường đọc trước, rồi đăng báo sau. Cuối năm 1941, đầu năm 1942, Trúc Đường nhận được nhiều bài thơ của Nguyễn Bính trong đó có: Xuân tha hương và Oan nghiệt. Sau đó Nguyễn Bính lại trở về Hà Nội, rồi lại đi vào Sài Gòn.
Lần chia tay cuối cùng với Trúc Đường là vào năm 1943, đến năm 1945 tin tức thưa dần. Năm 1946 thì mất liên lạc hẳn. Trong thời gian này Nguyễn Bính đã gặp nhà thơ Đông Hồ, Kiên Giang. Có lúc ông cư ngụ trong nhà Kiên Giang. Đó là thời ông viết những bài Hành Phương Nam, Tặng Kiên Giang, Từ Độ Về Đây,...
Cũng trong thời gian này Nguyễn Văn Thinh Thủ tướng chính phủ "Nam Kỳ tự trị" có treo giải: Ai đưa được nhà thơ Nguyễn Bính "dinh tê" theo chính phủ sẽ được thưởng 1000 đồng Đông Dương! Nếu nhà thơ tự vào thành cũng được hưởng như thế . 1000 đồng Đông Dương hồi đó là cả một cơ nghiệp. Nhiều người là bạn Nguyễn Bính viết thư "thuyết khách" mời ông vào. Hồi đó ông đang lang thang ở Rạch Giá, ngày thì ăn ở nhờ một người bạn, đêm ra đình ngủ, ông chỉ có cái bao cói để chui vào cho khỏi muỗi, nên có nhiều người tưởng ông vào thành với Chính phủ Cộng hòa Nam Kỳ.
Nhiều người ở Nam Bộ hồi đó biết chuyện gọi Nguyễn Bính là có chí khí của một sĩ phu yêu nước.
Năm 1947 Nguyễn Bính đi theo Việt Minh.
Một thời gian sau, nhờ sự mai mối của ông Lê Duẩn, ông kết hôn với bà Nguyễn Hồng Châu một cán bộ Việt Minh. Ông sinh một con gái với bà này, đặt tên là Nguyễn Bính Hồng Cầu. Sau đó ông lại kết hôn với bà Mai Thị Mới, ở ấp Hương Mai, xã Khánh Lâm, huyện U Minh và lại sinh một con gái được đặt tên là Nguyễn Hương Mai.
Năm 1954 theo Hiệp định Genève, Nguyễn Bính không thuộc một cơ quan nào những cũng được gọi tập kết ra Bắc. Ông về công tác tại Nhà xuất bản Văn nghệ, sau đó ra ngoài làm chủ bút báo tư nhân Trăm hoa.
1958 Nguyễn Bính được giới thiệu liên hệ xin làm việc tại Ty Văn hóa Nam Định.
Nguyễn Bính mất đột ngột ngày 20-1-1966 tại Nam Định.
Anh em :
Cùng cha mẹ (con bà Bùi Thị Miện)
Anh ruột: Nguyễn Mạnh Phác
Anh ruột: Nguyễn Ngọc Thụ
Cùng cha khác mẹ (con bà Phạm Thị Duyên)
Em trai: Nguyễn Thiện Căn
Em trai:Nguyễn Thiện Cơ
Em gái: Nguyễn Thị Tuyết (tức Yến)
Em gái: Nguyễn Thị Nhự
Vợ :
Vợ đầu: Nguyễn Lục Hà Tức Nguyễn Hồng Châu - cán bộ Việt Minh
Vợ hai: Mai Thị Mới tại Cà Mau.
Vợ ba: Phạm Vân Thanh không chính thức, làm việc tại tòa soạn báo Trăm Hoa.
Vợ tư: Trần Thị Lai, bán hàng xén tại chợ Rồng Nam Định.
Con :
Nguyễn Bính Hồng Cầu - Con bà Hồng Châu . Bà Hồng Cầu sau là nhà thơ, Phó Giám đốc Nhà xuất bản văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh
Nguyễn Hương Mai con bà Mai Thị Mới. Bà Mai sau là Phó Giám đốc Sở Giáo dục - Đào tạo, rồi Trưởng Ban Văn hóa Xã hội tỉnh Bến Tre
Nguyễn Hiền con bà Phạm Vân Thanh mất tích khi còn nhỏ.
Nguyễn Mạnh Hùng con bà Trần Thị Lai hiện đang sinh sống ở Nga
Trong suốt 30 năm, Nguyễn Bính đã sáng tác nhiều thể loại như thơ, kịch, truyện thơ... Ông được đông đảo độc giả công nhận như một trong các nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Đã in 26 tập thơ và 2 vở chèo
Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số bài thơ viết trong những năm 1964, 1965 và 1966 chưa kịp xuất bản.
Nguyễn Bính được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc cho thơ của ông. Có đến 19 bản nhạc, nhiều bài nổi tiếng như Tiểu đoàn 307, Cô hái mơ, Cô lái đò, Chân quê…
Tại sao thơ Nguyễn Bính quyến rũ
Cũng như nhiều nhà nghiên cứu phê bình khác tôi luôn tìm cách cắt nghĩa tại sao thơ Nguyễn Bính lại được đông đảo quần chúng yêu thích và có sức quyến rũ lâu bền.
Nhà phê bình Thụy Khuê có một bài viết công phu lý giải :
‘Thơ Nguyễn Bính kết hợp hai thể loại trên đây: thể ngâm của Cung oán và Chinh phụ và thể thoại của các truyện nôm: Hoa tiên, Kiều... Nói khác đi thơ Nguyễn Bính là tự truyện kết hợp với tiểu thuyết.
Tác phẩm Lỡ bước sang ngang cho thấy ảnh hưởng sâu sắc của hai dòng thi ca cổ điển này. Nếu Cung oán và Chinh phụ là những khúc ngâm của người đàn bà thế kỷ XVIII, thì Lỡ bước sang ngang là khúc ngâm của người đàn bà đầu thế kỷ XX. Khúc ngâm nào cũng gắn bó với hai niềm đau: Tình thế bi đát của đối tượng mà tác giả đưa ra, và niềm đau nội tâm của chính tác giả. Đối tượng trong Cung Oán và Chinh phụ chúng ta đã rõ. Đối tượng trong Lỡ bước sang ngang, ở ngay trong đề, là lời than của một thiếu phụ lấy người mà mình không yêu. Và đây cũng là bi kịch chung của người phụ nữ đầu thế kỷ XX mà những ngòi bút thời ấy không mấy ai không viết, từ Hoàng Ngọc Phách đến Khái Hưng, Nhất Linh, qua TTKh. Theo Bùi Hạnh Cẩn, anh họ của Nguyễn Bính, trong cuốn Nguyễn Bính và tôi (nxb Văn Hoá Thông Tin, tái bản 1999) thì đối tượng ngoài đời của bài thơ là Th, người yêu của nhà thơ Trúc Đường, anh ruột Nguyễn Bính. Nguyễn Bính đặt tên cho người đàn bà này là chị Trúc. Chị Trúc trở thành đối tượng của nhiều khúc ngâm. Trong những giây phút đau thương nhất của đời mình, Nguyễn Bính thường làm thơ gửi cho chị Trúc, viết về niềm đau của chị Trúc như niềm đau của chính mình. Chị Trúc là một nàng thơ, là một ảnh thật và ảnh ảo chập chùng. Thân phận lỡ làng, nổi trôi của chị Trúc cũng là thân phận lênh đênh lạc loài của Nguyễn Bính.
Lỡ bước sang ngang còn là một truyện nôm. Nguyễn Du khi viết truyện Kiều đã chịu ảnh hưởng của Nguyễn Huy Tự trong Hoa tiên, và Nguyễn Bính khi viết Lỡ bước sang ngang đã lấy Nguyễn Du làm mẫu.
Chúng ta thử đọc đoạn Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân trước khi đi vào cuộc đời mưa gió, Nguyễn Du viết:
Cậy em, em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy, rồi sẽ thưa
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa, mặc em.
Nguyễn Bính viết:
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Cậy em, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương’’
Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không thi pháp. Nguyễn Bính đã vô hiệu hoá tất cả những quy luật về thi ca từ trước đến giờ. Bởi tất cả những lý thuyết về thơ, đại loại như: ngôn ngữ thơ phải là một thứ ngôn ngữ độc đáo phi thường, thoát khỏi phạm vi của lời nói hàng ngày. Nhà thơ phải bóp méo ngôn ngữ thông dụng bằng những thủ pháp ẩn dụ, hoán dụ, đảo ngữ... để đạt tới ngôn ngữ thơ, mà mỗi chữ phải có một giá trị riêng biệt, khác với công dụng của nó trong ngôn ngữ hàng ngày v.v... Nói khác đi, thơ phải là những câu với lời lẽ trác tuyệt như thơ Ôn Như Hầu: Trải vách quế gió vàng hiu hắt / Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
Tất cả những nguyên tắc ngôn ngữ thơ ấy đối với Nguyễn Bính đều vô dụng. Thơ Nguyễn Bính chính là tiếng nói hàng ngày, là ngôn ngữ chúng ta thường dùng để nói chuyện với nhau, không có gì khác cả, Thơ Nguyễn Bính là lời mẹ dỗ con gái trong buồng, trước khi nhà trai đến đón dâu:
Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc nín đi không
Nín đi mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi các chị trông”
Cùng ý như Thụy Khuê nhà văn Tô Hoài cũng nhận xét “ Nguyễn Bính có tài làm thơ bẩm sinh. Nguyễn Bính chẳng khác gì một người tài kể chuyện cứ nhẩn nha nói về mọi thứ quen thuộc quanh mình mà khiến ta phải chú ý…”
Còn một lý do nữa, theo tôi là thơ Nguyễn Bính đã rung lên đúng cái điệu tâm hồn xã hội đương thời, làn sóng đô thị hóa nông thôn đang diễn ra. Một thứ tình yêu tiểu tư sản thành thị đang lan vào thanh niên làng quê và một tâm lý lo sợ nếp sống, tình cảm con người bị xói mòn bởi bởi cái chất thành thị ấy. Hôm qua em đi tỉnh về. Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều. Vì thế thơ ông đã trở thành sách gối đầu giường của các tiểu thư, các bà hàng xén, bộ phận thị dân mới của thành thị…
Bản năng sống làm nên thơ và bi kịch đời thi sỹ
Nhà văn Tô Hoài người bạn thân của Nguyễn Bính nhận xét bạn mình như sau: “Con người anh trông lôm lam lắm. Tay chân thô nhám quềnh quàng, lúc nào cũng lừ đừ thủng thỉnh, như ‘’ông từ vào đền”, như người thong thả đi giữa làng. Lại lam lũ như người lướt mướt từ đồng sâu mò lên, dầu cho anh đương mũ áo chững chạc trên đường phố”.
Một người bạn thân khác, nhà văn Ngọc Giao : “Thi nhân Nguyễn Bính quả là một thi nhân rất dễ thương khi anh say lúy túy. Bộ mặt da nâu lúc nào cũng như nhẫy mồ hôi. Vẻ mặt nghiêm nghị lúc nào cũng ngậm miệng, không có chén bên tay trái mà chỉ có bút bên tay phải… Uống khó bao nhiêu thì ăn mặc, nhất là mặc, cẩu thả không ai nói được”.
Nữ sĩ Anh Thơ, ghi lại trong hồi ký Từ bến sông Thương mối tình của bà với B. Lúc đầu yêu nhau qua thư từ, rằng hai người đã “tha thiết yêu nhau” “người trong mộng, người lý tưởng, người tôi yêu bằng cả trái tim thơ tha thiết” .
Bà kể lại về lần gặp mặt: “Tôi nhớ lại cảnh Kim Trọng “lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng” gặp Thúy Kiều. Chàng là một thi sĩ thủ đô, hẳn là hết sức trang nhã, biết mọi kiểu cách lịch sự để quý yêu tôi... Bỗng từ quán nước đầu cầu sông Thương, một anh chàng thân hình lùn ngắn, cái đầu hơi to, sù lên những tóc, tay vất vội chiếc điếu cày đang hút dở, xông lại trước mắt tôi, nhe hai hàm răng đen cáu nhựa thuốc, cười sát mặt tôi...”
Rồi bà giải thích sự tan vỡ này bằng cử chỉ của Nguyễn Bính “một cái hôn bất ngờ chộp lên má tôi”, khiến bà phải “thất thanh” gọi anh bà, bởi bà là “con nhà nề nếp” cho nên "không thể nào yêu được B, nên B luôn luôn bị thất vọng, từ cô này tới cô khác, và phải tìm quên ở tiệm hút, lầu xanh”.
Với tính cách như thế Nguyễn Bính sống hồn nhiên giữa mọi người. Chỗ nào cũng sống được, việc gì tổ chức giao cũng làm, thơ về cách mạng làm lúc nào cũng được, nhất là việc nghe lời Tô Hoài, bỏ cơ quan Nhà xuất bản Văn nghệ ra làm báo tư nhân Trăm hoa, về Nam Định làm nhân viên hợp đồng cho Ty Văn hóa…Sống hồn nhiên giữa đói khổ, nghèo túng và sự rẻ rúng của cơ quan, dễ dãi với cả sự yêu đương, hôn nhân và những đứa con của mình, bỏ quên đứa con sinh ra ở Hà Nội…
Tỉnh giấc chiêm bao về thời cuộc
Khi chủ trương tiếp nhận tờ Trăm Hoa, Nguyễn Bính viết bài Tỉnh giấc chiêm bao, trên Giai Phẩm Mùa Thu, Tập I, tháng 8/1956 với những câu thơ đắng cay, hai nghĩa, có thể hiểu là sau chuyện nhân duyên trắc trở của mình là câu chuyện với cách mạng đang rạn vỡ.
Khi nghiên cứu Nhân Văn Giai Phẩm tôi được biết trong số văn nghệ sỹ tập kết ra Hà Nội tập trung ở số 2 Cổ Tân có một số người dị ứng với văn nghệ sỹ ở Việt Bắc về, với thói quan liêu, bè phái, hống hách, những căn bệnh như như hai ông Trương Tửu và Phan Khôi đã công khai phê phán trong hai bài báo Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, Phê bình lãnh đạo văn nghệ trên các số Giai Phẩm. Một số người trong số đó đã tham gia Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như Phan Vũ, Trần Thanh Bình…hoặc chiêu hồi sau khi trở lại miền Nam như Xuân Vũ, Phan Thế, Tô Minh Trung...
Vẫn bà Thụy Khuê viết:
“Trong Tỉnh giấc chiêm bao, Nguyễn Bính ví cuộc đời chín năm cách mạng của mình như một cuộc tình ngang trái. Từ rừng sâu người kháng chiến trở về với thực tại:
Chín năm đốt đuốc soi rừng
Về đây ánh điện ngập ngừng bước chân
Và nhớ:
Anh về, luyến núi thương rừng
Nhớ em, đêm sáng một vừng thủ đô.
Nhưng quá khứ chỉ là giấc mộng, bởi mối tình đã vỡ:
Tình sao không phụ mà ra phụ tình
Duyên nhau đã dựng Trường đình
Mẹ em đã xé tan tành gối thêu...”
Cuối tháng 12/1957, Nguyễn Bính làm xong một truyện dài bằng thơ 2000 câu, tựa đề Tiếng trống đêm xuân, toàn bài không biết phiêu bạt nơi đâu, may có một trích đoạn được in trên tuyển tập Nguyễn Bính (nxb Văn Học, 1986). Và qua trích đoạn này, chúng ta có thể hiểu Nguyễn Bính đã thuật lại bi kịch Cách mạng và Nhân Văn dưới dạng hát chèo:
Hội làng đèn đuốc như sao
Đêm chèo tiếng trống giáo đầu nổi lên
Mặt hoa quạt bướm che nghiêng
Bước ra cô nữ làm duyên đưa tình
Cùng trong chiếc chiếu giữa đình
Mà bao nhiêu cảnh nhiêu tình bày ra
Đương ngục thất hoá vườn hoa
Buồng the trướng gấm hoá ra chiến trường
.....
Người xem khi giận khi thương
Khi yêu khi ghét khi mừng khi vui
Suy ra muôn việc ở đời
Rõ ràng như tấm gương soi bóng lồng
Giận thằng bán rượu Lý Thông
Tham mồi phú quý cướp công bạn hiền
Giận vua Trang dạ đảo điên
Giết người nho sĩ, ép duyên má đào
Ghét phường Lư Kỷ quyền cao
Chẳng chăm việc nước, chỉ mưu hại người
Ghét con mụ Tú già đời
Buôn người trinh tiết kiếm lời mà ăn
Khinh đồ mặt nhọ Sở Khanh
Mảnh tiên Tích Việt chối quanh được nào
Khinh tên bố vợ họ Hầu
Hối hôn con gái ra màu bạc đen
Thương nàng Thị Kính oan khiên
Đã nương cửa Phật chưa yên tội đời
Thương Kiều tài sắc vẹn đôi
Chuộc cha mười mấy năm trời gian truân”.
Nguyễn Bính trong màn kịch cuối cùng, vẫn giao lưu hai dòng thơ ngâm khúc và truyện nôm, vẫn dùng ngôn ngữ hàng ngày, cho nên ông đã tạo ra một địa bàn đời rất rộng, mà những nhà thơ đương thời, không mấy ai đạt được. Thơ Nguyễn Bính đi sâu vào sinh hoạt đời sống, vào phong tục của dân quê, đám cưới đám ma, rượu chè đình đám, vào những cuộc đi, vào địa hình sông núi. Cả đến những bức tranh thời sự, về thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm do tay ông vẽ lại, trong thơ”.
Báo Trăm hoa và Nhân Văn Giai Phẩm
Việc Nguyễn Bính tự dưng bỏ cơ quan là Nhà xuất bản Văn nghệ ra làm Chủ bút báo tư nhân Trăm hoa là việc nhiều uẩn khúc, khó hiểu với nhiều người. Có một người viết lại chuyện Nguyễn Bính khá sớm là nhà văn Tô Hoài trong cuốn hồi kí Cát bụi chân ai. Thực ra nguyên nhân là do cách trình bày của ông Tô Hoài, ông chưa dám nói thật hết bản chất sự việc.
Về báo Trăm hoa ông Lại Nguyên Ân đã có bài khảo cứu công phu. Tôi xin trích lại những đoạn cần thiết:
Trên thực tế có hai tờ Trăm hoa :
1/ Đầu tiên là tuần báo Trăm hoa do Nguyễn Mạnh Phác làm Chủ nhiệm, ngoài tên gọi Trăm hoa ( đặt theo tinh thần "trăm hoa đua nở" đang là khẩu hiệu đương thời ở Trung Quốc, tinh thần này được nói rõ ở lời mở đầu số 1 của toà soạn) còn có phụ đề là "tuần báo tiểu thuyết", toà soạn đặt tại 15 Hai Bà Trưng, Hà Nội, gọi là tuần báo nhưng khuôn khổ lại có vẻ "tạp chí" nhiều hơn. Số 1 ra ngày 2/9/1955. Tờ Trăm hoa loại cũ cỡ nhỏ này ra được cả thảy 31 số, tồn tại từ tháng 9/1955 đến giữa tháng 5/1956; ban đầu trang bìa chỉ ghi chức danh Chủ nhiệm Nguyễn Mạnh Phác; từ số 11 (19/11/1955) trên tiêu đề mới xuất hiện thêm chức danh Chủ bút Nguyễn Bính.