Sách “Các nhà khoa bảng Việt Nam” do học giả Ngô Đức Thọ chủ biên, mục 1503 trang 481 có ghi: “Phùng Khắc Khoan (1528-1613) người xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, nay là thôn Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây.
53 tuổi đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Canh Thìn niên hiệu Quang hưng 3 (1580) đời Lê Thế tông. Hai lần đi sứ đều được nhà Minh tôn kính, không xưng tên. Ông làm quan đến chức Hộ bộ Thượng thư kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Mai quận công. Thọ 86 tuổi. Khi mất, được tặng Thái tể, phong phúc thần.
Phùng Khắc Khoan, tự Hoằng Phu, hiệu Nghị Trai, tác phẩm có Mai Lĩnh sứ, Hoa thi tập, Ngôn chí thi tập.”
Trong “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, phần “Nhân vật chí” về Phùng Khắc Khoan tác giả đánh giá:
“…Lúc trẻ đã nổi tiếng văn học, theo học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Vĩnh Lại, kiêm thông cả thuật số. Nhưng chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc. Đầu đời Trung tông theo Lê Bá Ly qui thuận nhà Lê… Thái sư Trịnh Kiểm mới gặp ông, biết là người có học thức, mưu lược, cho tham dự việc trong màn trướng, trao chức ký lục ở chỗ ngự dinh, coi quân bốn vệ… Ông là người cương quyết, sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu. Văn chương ông thanh nhã, dồi dào, có các thi tập truyền ở đời”. (Lịch triều hiến chương loại chí, tập I trang 260-261)
Nhà bác học Lê Quí Đôn trong “Toàn Việt thi lục” có nhận xét về Phùng Khắc Khoan như sau: “Khắc Khoan là người cương nghị tinh minh, văn võ toàn tài”.
Trên đây là lời lẽ của các học giả hàng đầu của nước ta sinh sau cụ Phùng Khắc Khoan trên dưới hai trăm năm.
Lại như người cùng thời với cụ Phùng Khắc Khoan, đó là cụ Đỗ Uông - đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ nhị danh (bảng nhãn) đời Mạc Phúc Nguyên (1556) làm quan tới chức Lai bộ thượng thư, Đông các đại học sĩ, Thiếu bảo, Thông quận công cũng có những lời hết sức trân trọng về Phùng Khắc Khoan.
Thật ra người cùng thời với nhau, lại ngang tài, ngang sức nhau mà thừa nhận nhau là việc khá hiếm. Ắt Phùng Khắc Khoan phải là bậc bạt quần thì Đỗ Uông mới có nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là một bậc hào kiệt có tài cao, khoa giáp nổi tiếng, đạo cao đức trọng, nhân hậu trung nghĩa; đủ để giúp nước bình trị, vỗ yên dân chúng, lòng ông rộng mở. Khí độ hiên ngang, đủ sức xoay trời chuyển đất, thao túng vũ trụ”.
Các bậc tiền nhân đã trân trọng họ Phùng đến như vậy, thử hỏi lũ hậu sinh chúng ta biết nói gì về cụ đây. Hơn nữa, suốt hơn 400 năm qua, từ khi Phùng Khắc Khoan viên tịch (1613) đã có biết bao tao nhân mặc khách, biết bao các học giả trước thuật về cụ.
Người ta đã viết nhiều về Phùng Khắc Khoan từ việc tu thân, việc chọn hướng đi, việc thi triển tài năng, cả đến khí phách trượng phu, lòng nhân ái và thơ văn mẫn tiệp, tưởng không còn thiếu điều gì về nhân vật lỗi lạc này không được các học giả đề cập đến.
Tuy nhiên, nếu ta thành tâm, kính cẩn suy ngẫm về sự nghiệp lớn lao, tài năng trác việt, nhân cách cao thượng của Phùng Khắc Khoan, chắc cũng có thể khe được đôi nét để viết về cụ. Ấy là thái độ của kẻ sĩ trước thời cuộc.
Ta biết, khi Phùng Khắc Khoan cất tiếng khóc chào đời (1528), thì Mạc Đăng Dung đã lấy ngôi nước từ nhà Lê một năm trước đó (1527).
Tuổi niên thiếu và tuổi thanh niên của Phùng Khắc Khoan gắn liền với quê hương Phùng Xá, đến 16 tuổi thì sang Hải Dương (huyện Vĩnh Lại) học Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Lúc này đang là thịnh thời của nhà Mạc. Nhà Mạc lấy ngôi nước từ nhà Lê và đóng đô ở Thăng Long 65 năm (1527-1592) liên tục.
Không thể phủ nhận nhà Mạc đã làm được khá nhiều công việc, kể cả việc đào tạo nhân tài và tạo ra một nền văn hóa mang dấu ấn Mạc khá đậm.
Sinh ra và lớn lên trong vùng đất Mạc, tại sao Phùng Khắc Khoan không phù Mạc? Vả lại nhà Mạc lúc đó đủ đất cho ông vẫy vùng thi thố? Tôi luôn tự hỏi vì sao cụ Phùng Khắc Khoan bỏ Mạc phù Lê?
Có nhẽ đây là việc lập chí của ông đã được hình thành từ tuổi đội mũ (16 tuổi). Nhất là từ khi ông đến học với người thầy kiệt xuất là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tư tưởng này ánh lên phần nào trong tập “Ngôn chí” của ông.
Trong “Tự thuật” bốn câu cuối của bài 2, cho ta thấy chí lớn của trang thiếu niên anh tuấn này:
Tùng bách khởi kham hàng tuyết đống
Kình nghê na khẳng luyến sầm đề
Nam minh tằng kiến côn bằng phấn
Vũ dực siêu thăng vũ Hán Tề.
(Cây tùng cây bách đâu chịu hàng phục trước tuyết giá
Cá kình cá nghê đâu chịu lưu luyến vũng nước chân trâu
Bể Nam thường hiện cá côn hóa chim bằng tung cánh
Vỗ cánh bay cao ngang với dòng sông Thiên Hà)
Tuổi thiếu niên, nhưng Phùng Khắc Khoan đã có chí hướng thượng, tựa như tùng bách là loài cây cứng cỏi đương đầu với gió bão và tuyết sương. Hoặc như đám kình, nghê vẫy vùng ngoài biển lớn, hoặc như cái sức của chim bằng tung cánh bay vạn dặm trên trời cao khoáng đãng.
Đúng như Phan Huy Chú nhận xét ông có “chí khí hào mại”. Lời thơ trên cũng hé lộ cho ta thấy trang thiếu niên này không phải người thường, mà có chí khí của một bậc cân quắc.
Kẻ sĩ Việt Nam trước hết lấy nước làm trọng, tức quốc gia dân tộc làm trọng. Kẻ sĩ Việt Nam nếu đạt tầm quốc sĩ, đều lấy quốc sỉ làm trọng, tức danh dự quốc gia phải đặt lên hàng đầu.
Đối chiếu lịch sử với những gì đã xảy ra qua cách hành xử của Mạc Đăng Dung, ông vua khởi nghiệp của nhà Mạc với mấy viên quan tỉnh Quảng Tây trước cửa ải Nam Quan, vẫn còn là mối quốc nhục. Việc xảy ra mới chỉ hơn chục năm, người đương thời và kẻ sĩ chắc còn giữ nguyên mối hận. Và sự đàm tiếu về hình ảnh ông vua nhà Mạc (Mạc Đăng Dung) dẫn theo một đám quần thần cởi trần và tự trói mình, quì trước mặt một lũ quan lại nhà Minh sao chẳng đến tai Phùng Khắc Khoan? Vả lại nhà Minh với thời của Minh Thế tông lúc ấy, đâu phải là một nhà nước mạnh. Sự thực nó đã ruỗng mục và thối nát đến tận xương tủy, vua thì mê muội, việc triều chính bỏ bễ, dân tình oán giận. Thế mà nhà Mạc lại tỏ ra hèn yếu, bợ đỡ đến ngu muội, không còn gì là quốc sỉ, trước người Minh, khiến dân nước phẫn nộ. Là một người mẫn tiệp, sáng suốt và cương quyết như Phùng Khắc Khoan, khi tiếp nhận những thông tin về cách hành xử nhục nhã của Mạc Đăng Dung, chắc chắn ông không thể chấp nhận. Đó hẳn là lý do ông không ra thi với nhà Mạc. Đúng như Phan Huy Chú đã nhận định Phùng Khắc Khoan là người “chí khí hào mại, không chịu ra thi với nhà Mạc”. Lại như Lê Qúy Đôn nhận xét: “Phùng Khắc Khoan là người cương nghị, tinh minh”.
Người đã có tư chất hào mại cương nghị, tinh minh, ắt phải lấy cái nhục của nước làm cái nhục của chính mình. Ấy cũng là tư chất của bậc quốc sĩ vậy.
Chính vì cảm nhận sâu sắc về nỗi quốc hận đó mà Phùng Khắc Khoan quyết tâm bỏ Mạc phù Lê. Mấy trăm năm sau khi nghĩ lại mối nhục này, Phan Bội Châu trong Việt Nam quốc sử khảo còn gay gắt lên án: “Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, sợ nhà Minh hỏi tội, đã lấy hai châu Thạch Tích, Niêm Lãng và bốn động Cổ Sim, Tư Lẫm, Kim Lặc, Liễu Cát hiến cho người Minh. Bản án kết tội bọn ấy nên ghi là: “Lấy đất đai của nước, nhân dân nước, tặng người ngoài, tội ấy đáng chém! Chúng nó lấy lời gì để biện bạch được”.
Trong lịch sử mấy trăm năm, đã có một vài người bàn về chuyện Mạc Đăng Dung dâng đất cho nhà Minh là thật hay là ảo. Nhưng chưa có ai dám cả gan bênh che cho việc ông ta làm nhục quốc thể.
“Là người cương quyết sáng suốt, có tài, cái gì cũng biết được chỗ cốt yếu” (Phan Huy Chú), Phùng Khắc Khoan thấy ngay cái lý của sự việc, nên ông đã chọn con đường quang minh chính đại, ấy là thái độ dứt khoát của kẻ sĩ trước thời cuộc, và đem hết tài trí ra phụng sự cho non sông đất nước.
Nhân cách của ông, tài đức của ông, sự nghiệp văn chương của ông, mặt nào cũng toàn bích. Riêng tôi kính ngưỡng trí sáng suốt của ông trước cuộc bể dâu rối nát, ông đã chọn đúng đường. Ông xứng đáng là bậc đại quốc sĩ, là tấm gương rực sáng cho kẻ sĩ muôn đời chung soi.
Thiết nghĩ, kẻ sĩ thời nay nếu muốn noi gương Trạng Bùng, trước hết phải biết giữ lấy cái sĩ diện cho chính mình và sĩ diện cho nước, cũng tức là GIỮ LẤY CÁI QUỐC SỈ vậy!