Trong thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật, tác giả muốn gửi gắm tâm sự của mình chủ yếu là nằm trong hai câu kết.
Trong Đường thi, yêu cầu: "Mạch kị lộ, ý kị nông; Ý tại ngôn ngoại" là thước đo chủ yếu giá trị của thi phẩm và tài năng của nhà thơ. Với chùm ba bài thơ về mùa thu nổi tiếng của Nguyễn Khuyến, có lẽ hai câu kết trong: “Thu điếu”, tâm sự của cụ được diễn tả một cách kín đáo và hay hơn cả:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Lời hai câu thơ giản dị nhưng ý thơ thật thâm thúy khiến hậu sinh vất vả để kiếm tìm, lí giải. Tìm không được, hiểu không thấu, đôi khi ta lại ngộ nhận. Quả vậy, thơ tuy có khi không thể giải thích được bằng cái ý thức sáng tỏ mà phải dùng cái cảm nhận của trực giác - nhưng không phải vì vậy mà bài thơ nào, câu thơ nào cũng dùng cảm nhận chủ quan mơ hồ để lí giải. Trong cách hiểu xưa nay của nhiều người, có nhiều bài viết, nhiều giáo viên giảng dạy bài thơ này, khi phân tích 2 câu kết họ đều chỉ nói qua, mang tính chung chung hoặc lí giải chưa thấu đáo, nên chưa có sức thuyết phục với người học.
Trong bài viết này tôi thử mạnh dạn đưa ra một cách lý giải mới, giải mã ý nghĩa hai câu kết nêu trên qua việc so sánh nó với một câu ca dao cổ, với cuộc đời và với phong cách của cụ Tam nguyên.
Trong ca dao cổ của nước ta có câu:
Nước trong cá chẳng ăn mồi
Anh đừng câu mà nhọc, bạn đừng ngồi mà khuya.
Câu ca dao này tôi không phân tích ở góc độ tình yêu trai gái mà chỉ thuần tuý nói về việc đi câu. Một kinh nghiệm khi đi câu cá là: Nước trong (thì) cá chẳng ăn mồi, nên anh đi câu chỉ là một việc vô ích, không có kết quả.
Câu ca dao trên, cũng như câu Tựa gối ôm cần lâu chẳng được của bài Thu điếu, với mặt “ nước trong veo” là dấu hiệu báo trước vì sao cá chẳng ăn mồi, vì thế có ôm cần lâu cũng chẳng được gì. Tất cả đều có hàm ý “khuyên” người đi câu nên ra về, anh đừng câu mà nhọc, ở lại anh cũng chẳng được tích sự gì.
Ngược lại, trong câu Cá đâu đớp động dưới chân bèo ta được nghe cái âm thanh của tiếng cá đớp mồi. Đây là âm thanh báo hiệu cho người đi câu là dưới ao có cá, cá đang đớp mồi, tức là cá đang đói, chủ ý muốn khuyên người đi câu nên ở lại.
Nói tới cuộc đời của Nguyễn Khuyến, ta hãy tìm hiểu một tý về cái xuất thời - xử thế của cụ. Vấn đề này ở Nguyễn Khuyến không đặt ra một cách nôn nóng, ồn ào như ở Nguyễn Công Trứ, cũng không đến nỗi day dứt như ở Nguyễn Trãi. Nguyễn Khuyến không như Nguyễn Công Trứ ở vào lúc nhà Nguyễn mới lên, không tự tin như Nguyễn Công Trứ ở một sự nghiệp lẫy lừng mà mình cầm chắc sẽ thực hiện được. Nguyễn Khuyến cũng không như Nguyễn Trãi không dứt áo ra về được vì đằng sau ông còn để lại một sự nghiệp to lớn, đang dở dang.
Vấn đề đặt ra cho Tam nguyên Yên Đỗ là nên ở hay về.
Nguyễn Khuyến sống vào lúc nền nếp của triều đình nhà Nguyễn đã ổn định. Kẻ sĩ không có gì phải lựa chọn vì trước mắt họ đã vạch sẵn một con đường là học - thi đỗ - làm quan. Nguyễn Khuyến có mười hai năm làm quan thì có đến sáu năm làm ở Sử quán, một thứ nhàn quan. Không được giao trọng trách nên ông cũng không phải trực tiếp vật lộn với các vấn đề gay cấn của tình trạng giặc Tây, giặc khách, đê vỡ, mùa mất,... của thời Tự Đức. Thế rồi tình hình đang an chuyển thành nguy kịch. Thực dân Pháp chiếm Bắc bộ rồi chiếm kinh thành Huế. Tự Đức băng hà. Triều chính lộn xộn. Nguyễn Khuyến cảm thấy bất lực trước thời thế nên đã lấy cớ ốm đau, xin cáo quan về quê ẩn dật. Thời thế loạn, không hành được thì tàng. Lẽ xuất xử của thánh hiền cho phép ông noi gương Đào Tiềm về vườn Bùi "trồng ba rặng cúc", ngắm "năm cây liễu".
Trong cuộc đời mình, cụ Tam nguyên đã từng diễn ra vài ba lần chuyện ra rồi về, về rồi ra. Cụ đã từng có mười năm: “Tựa gối ôm cần”, cụ ra giúp đời như thế cũng có thể gọi là: “lâu” (Từ 1871 đến 1884, trong đó có ba năm về chịu tang) nhưng kết quả thu về: “Chẳng được” bao nhiêu. Cụ đành bất lực trước cuộc đời. Trước trách nhiệm tựu nghĩa, Nguyễn Khuyến không chọn vứt bút tòng quân mà chọn “dũng thoái” (cương quyết rút lui). Với Nguyễn Khuyến ra về không hợp tác với giặc, không để danh lợi vướng víu vào thân cũng là việc nghĩa nhưng thật là khó đối với cụ:
Nhược vi thảng thốt lâm nghi dị,
Đáo đắc thoan thuần biện diệc nan.
Dịch nghĩa:
Nếu như thảng thốt mà xông vào chỗ chết thì còn dễ,
Nhưng dùng dằng mà quyết chết được thực là khó.
(Xuân dạ liên nga)
Năm 1884, Nguyễn Khuyến sau: “Mười năm gió bụi trở về nhà” (Hoàn gia tác) cụ trở về vườn Bùi ẩn dật mấy năm. Sau đó, vạn bất đắc dĩ cụ lại ra làm gia sư cho gia đình Hoàng Cao Khải. Cuối cùng, cụ lại trở về quê cũ nương thân, rồi trút hơi thở cuối cùng ở đó.
Ta thật sự cảm thông và chia sẽ về cái tâm sự giằng xé, nỗi trở trăn, thái độ dùng dằng nên về hay nên ở của một kẻ sỹ sinh bất phùng thời như cụ.
*Đọc thơ Nguyễn Khuyến, ta thấy nhà thơ vẫn thường hay mượn tiếng loài vật để gửi gắm tâm sự trắc ẩn, sâu kín của mình.
Nghe tiếng muỗi, nhà thơ nghĩ tới loại người hãnh tiến, xuất thân từ tầng lớp cặn bã của xã hội, nay ngang nhiên biến thành kẻ thượng lưu. Họ cũng tìm đến nhà thơ. Họ nhờ ông dạy học, xin ông cho chữ, nhờ ông viết văn bia ca tụng kẻ cộng tác với giặc. Bọn họ quấy rối ông như tiếng đàn muỗi thường xuyên réo bên tai:
Ta say vừa buồn ngủ,
Muỗi quấy không cho nằm.
Giơ quạt xua lại đến
Bên tai réo ầm ầm...
(Văn - Nguyễn Văn Tú dịch)
Tiếng hạc, hình ảnh con hạc cũng thường được nhà thơ đưa vào thơ để qua đó gửi gắm tâm sự và nói lên thân phận đơn côi của chính mình:
Đầm đìa lệ sớm, cành tre rủ,
Lạc lõng canh khuya, tiếng hạc qua.
Ấm chỗ chẳng buồn tung áo dậy,
Cửa ngoài vẫn mở, khách chừng thưa.
(Xuân nhật - Nguyễn Văn Tú dịch)
Nước non man mác về đâu tá,
Bè bạn lơ thơ sót mấy người.
Đời loạn đi về như hạc độc,
Tuổi già hình bóng tựa mây côi.
(Gửi bạn)
Nghe tiếng ngỗng trời, nhà thơ cứ bâng khuâng, hoài cổ. Tiếng ngỗng kêu trên trời cao mà Nguyễn Khuyến xót xa thay cho cảnh lê dân chịu cảnh lầm than mất nước, li tán tha hương :
Mấy chùm trước dậu hoa năm ngoái Một tiếng trên không, ngỗng nước nào.
(Thu vịnh)
Sự thúc dục của tiếng con chim chích choè cũng làm xao động tâm tư trắc ẩn của Nguyễn Khuyến, như hối thúc nhà thơ nên ra về hay nên ở lại:
Văng vẳng tai nghe tiếng chích choè
Lặng đi kẻo động khách làng quê (…) Lại còn giục giã về hay ở
Đôi gót phong trần vẫn khoẻ khoe.
(Về hay ở)
Qua tiếng con chim cuốc chốn Đèo Ngang hoang sơ, Bà huyện Thanh Quan gửi gắm tấc lòng nhớ nước đến “ đau lòng ” của mình về một triều Lê xưa, nay đã đi vào dĩ vãng. Với Nguyễn Khuyến, nhà thơ cũng đã mượn tiếng khắc khoải đến máu chảy, hồn tan của con chim cuốc để nói hộ lòng mình về cái tâm trạng: “Tiếc xuân … nhớ nước”:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng
Sáu khắc hồn tan, bóng nguyệt mờ
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi
Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.
(Cuốc kêu cảm hứng)
Rõ ràng qua các âm thanh của loài vật kể trên, ta dễ nhận ra tâm sự của nhà thơ hơn là tiếng cá đớp động dưới chân bèo trong bài thơ Thu điếu. Tiếng cá đớp mồi ở đây thật kín đáo, khó lí giải. Nó không chỉ là một tiếng thu dân giã, thân quen của làng quê, gợi cho ta một hoài niệm đẹp về đất nước, quê hương mà đằng sau âm thanh đó là cả một nỗi niềm sâu kín, khó tả của nhà thơ. Âm thanh này ít có giá trị miêu tả, mà chủ yếu là sự giải bày tâm sự sâu lắng của nhà nho Nguyễn Khuyến, đó là: Yêu nước, thương nhà nhưng bất lực trước thời cuộc. Tiếng cá đớp mồi phải chăng cũng là tiếng gọi của cuộc đời thúc dục cụ Tam nguyên Yên Đỗ ra giúp dân, giúp nước?
Hai câu kết của bài thơ Thu điếu, qua hình ảnh người câu cá, qua âm thanh của tiếng cá đớp mồi, ta thấy được tâm sự sâu kín của nhà thơ Nguyễn Khuyến; thấy được sự bất lực của một vị quan triều Nguyễn trước cuộc đời ngang trái; thấy được tấm lòng yêu nước thương dân, cũng như nỗi niềm day dứt, giằng xé trước cái đạo xuất thời - xử thế của một kẻ sỹ./.