Nếu đa số các nhà văn nhà thơ ở ta đều dễ gần thì với tôi nhà thơ Vũ Cao dễ gần hơn cả. Lắm lúc tôi cứ lẩn mẩn nghĩ rằng chẳng hiểu tại sao có những người sống sung sống sướng, có chức vụ quyền hạn hô phong hoán vũ khi về nghỉ rất hay mắc bệnh và mất rất nhanh. Lại có không ít người khổ ơi là khổ, bị chiến tranh lôi vào giần cho chí tử những hai ba cuộc trong mấy chục năm giời, đã thế lại phải làm nhiều đi nhiều rồi thì nào có được nghỉ ngơi bao giờ...
Nếu đa số các nhà văn nhà thơ ở ta đều dễ gần thì với tôi nhà thơ Vũ Cao dễ gần hơn cả. Lắm lúc tôi cứ lẩn mẩn nghĩ rằng chẳng hiểu tại sao có những người sống sung sống sướng, có chức vụ quyền hạn hô phong hoán vũ khi về nghỉ rất hay mắc bệnh và mất rất nhanh. Lại có không ít người khổ ơi là khổ, bị chiến tranh lôi vào giần cho chí tử những hai ba cuộc trong mấy chục năm giời, đã thế lại phải làm nhiều đi nhiều rồi thì nào có được nghỉ ngơi bao giờ, già rồi vẫn chỗ này mời đi chỗ khác kéo đi chả thuần nhất một công việc gì cả, chỉ là nói chuyện hoặc đọc thơ ấy mà, có khi là giao lưu văn nghệ tếu táo với học sinh sinh viên mà các cụ thọ lắm, thọ như nhà thơ Vũ Cao chẳng hạn, thế có ghê không.
Vũ Cao rất hay nói câu “ghê nhỉ” rồi cười thoải mái, cười thoải mái nhưng âm lượng không lớn bao giờ, ông cười bằng mắt là chính, đẹp như một tiên ông.
Tôi quen biết nhà thơ Vũ Cao mới được 10 năm mà cứ như là quen lâu lắm. Cơ mà tôi còn trẻ nên Vũ Cao rất khoái mỗi khi tôi đến thăm. Quen, kính trọng và yêu mến ông sau đợt tôi làm phim tài liệu về ông, về Núi Đôi và về những người lính thời các ông, có dính dáng cả thời chúng tôi nữa. Cuộc ấy, tôi có nhờ nhà văn Hồng Diệu giúp đỡ kịch bản và lấy thêm tư liệu sống từ nhiều văn nghệ sĩ: Mai Văn Hiến (đã mất), Văn Đa, Xuân Thiều (đã mất), Lê Lựu và Trần Đăng Khoa. Tại sao lại có Trần Đăng Khoa, là vì mỗi khi tôi thực hiện phim chân dung các văn nghệ sĩ Quân đội anh Khoa rất hay tham gia, có lúc là ý tưởng rất lớn, lại có khi chỉ là một ý kiến, một chi tiết. Có khi cái tham gia của anh tôi chỉ dám sử dụng ở mức độ tham khảo.
Nhà thơ Vũ Cao năm ấy (2001) đã bước sang tuổi 80. Ở một cái tuổi dường như mọi buồn, vui, được, mất của cuộc đời đã không còn quá quan trọng. Mà bây giờ, khi đôi mắt tuổi già rưng rưng nhìn đồng đội một thời của mình tóc cũng đã bạc trắng, chân tay đã không còn xốc vác nhưng giọng cười điệu nói vẫn hệt như ngày nào là đã mừng lắm. Các lão đồng chí du kích hoạt động cùng thời với nữ du kích Trần Thị Bắc, nguyên mẫu cô du kích của bài thơ bây giờ cũng đã không còn nhiều nữa. Họ quây quần, ôn lại những kỷ niệm xưa.
Những người lính trẻ chúng tôi, khi chứng kiến hình ảnh các lão du kích ở vào tuổi bảy mươi, tám mươi, có người đã chín mươi vẫn còn tráng kiện về tinh thần, về thể chất và cả tâm hồn nữa thì chợt thấy cay cay trong mắt. Và, cảm nhận rõ sự bền chặt, thắm thiết của những người tuy khác thế hệ nhưng chung một niềm tin, một lẽ sống ở đời.
Phim về Vũ Cao, tôi khai thác chính yếu từ bài thơ Núi Đôi. Kéo nhau lên Núi Đôi, lên tận đỉnh núi, sờ vào lô cốt. Năm ấy, Vũ Cao đã 80 tuổi còn leo núi khỏe lắm, Văn Đa, Hồng Diệu, Xuân Thiều phải lè lưỡi phục cụ, cả bí thư thị trấn Sóc Sơn Nguyễn Tân Chính cũng phục lăn. Cứ lừng lững như cây đồng trụ mà bước thì gấp rưỡi người thường. Hôm ấy có cả “cô gái trú mưa” cũng thượng sơn. Hai vợ chồng Vũ Cao cứ như là tiên là phật.
Ai bảo Vũ Cao không biết đóng phim là nhầm to. Đóng rất hay và xúc động (hình ảnh phim tôi còn đang giữ). Trước đó, tôi làm phim chân dung về họa sĩ Văn Đa, ông đã “vào vai” phụ rất cừ. Cứ tự nhiên an nhiên “đi” vào các cảnh rất thần thái. Hôm trước ông bảo: “Các ông làm là chính đấy nhé. Tôi không biết phim phiếc gì đâu. Nhưng các ông cứ bảo gì tôi làm thế”.
Ghê thật. Hóa ra cụ thân thiết với mảnh đất núi Đôi - Sóc Sơn hơn tôi tưởng rất nhiều. Ở Sóc Sơn, thực ra dãy núi ở Đền Sóc Sơn, nơi ngài Thánh Gióng cởi bỏ áo giáp bay về trời mới là núi lớn, có dáng dấp của núi non chứ núi Đôi nhỏ lắm, và thực tế là hai quả đồi nhỏ giống như ngực con gái mới lớn thế thôi mà bây giờ người cả nước, thậm chí cả thế giới lại biết nhiều hơn về cặp núi - đồi này ấy là do nhà thơ Vũ Cao. Thơ văn hóa ra có thể chuyển tải được cả đất trời sông núi vào trong ấy, lại còn đi xa được.
Đến trường đoạn quay ở nghĩa trang mới là sự xúc động tột độ của ông. Người lính già tóc bạc phơ cao lớn đứng cúi đầu trước nấm mộ là nhân vật của mình. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy Vũ Cao khóc. Rất im. Rất khẽ. Chỉ hoa đại loang hương. Đoàn đang quay, đột nhiên có mấy người tiến đến ôm chầm lấy ông. Một người đàn ông đã già cứ ôm chặt ông nước mắt lã chã rơi xuống râu ria, rơi xuống lòng đất. Người đàn ông đi chân đất ấy chính là ông Trần Văn Nhuận em trai cô du kích núi Đôi đã hy sinh Trần Thị Bắc. Tất cả sững người trước chi tiết đột biến này. Đây chính là tấm lòng của bí thư Sóc Sơn Nguyễn Tân Chính. Rất văn nghệ và cũng rất nhân văn.
Hôm ấy nhà thơ Vũ Cao cho biết thêm về bài Núi Đôi, thực ra là ông tâm sự với chị Tố Hoa, người thể hiện bài thơ này. Ông bảo ngày ấy viết chả có ngẫm ngợi gì nhiều đâu. Câu chuyện thế thì viết thế. Viết tranh thủ vào ban đêm bên ngọn đèn dầu, trời rét lắm nên cứ chúi đầu vào đèn, muội bám đen ráo cả. Rét đến mức phải dùng cả đèn dầu để sưởi. Ghê không (cười). Còn ngôi sao trên mũ à. Bộ đội thì phải có sao chứ. Đêm tối có khi chỉ nhìn thấy sao chứ không rõ mặt. Đưa vào cho dễ phân biệt với du kích. Bây giờ thì dân quân du kích cũng có sao.
Người nữ du kích ấy bây giờ nằm ở nghĩa trang Sóc Sơn, bình dị như những nấm mộ liệt sĩ có tên hoặc không tên mà hầu như bất cứ một vùng đất nào trên đất nước Việt Nam chúng ta đều bắt gặp.
“... Ai viết tên em là liệt sĩ
Bên những hàng bia trắng giữa đồng
Nhớ nhau anh gọi em đồng chí
Một tấm lòng trong vạn tấm lòng...”
Tôi đã nhiều lần mời nhà thơ Vũ Cao đến giao lưu với các bạn sinh viên đại học để chúng tôi ghi hình phát sóng. Lần gần đây nhất là cuối năm 2002. Hôm ấy khách mời là nhà thơ Vũ Cao, nhà văn Lê Lựu và nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Nếu ai cho rằng lên sân khấu giao lưu cùng với Trần Đăng Khoa và Lê Lựu thì mình khác gì hạt cát ném xuống biển, khác gì trong sân bóng đá lại đi giảng chính trị mà lo thay cho Vũ Cao thì rất nhầm. Vũ Cao hóm hỉnh vô cùng, lại nói rất giản dị, ngắn và khéo léo lắm. Các bạn sinh viên Đại học Văn hóa Hà Nội, Đại học Tổng hợp Văn và Đại học Sư phạm Hà Nội hẳn chẳng thể nào quên ông nhà thơ to lớn đầu trắng, râu trắng mặt mũi quần áo trắng trẻo nói về tình yêu rất sâu sắc.
Rồi đến khi nhà thơ kể ra cái chuyện đi hỏi vợ cho Lê Lựu với tư cách lãnh đạo, tư cách trưởng đoàn cả hội trường mới cười như muốn vỡ ra (Vũ Cao lúc đó là Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ Quân đội, còn Lê Lưu là biên tập viên). Ai đời đi hỏi vợ mà chính cái thằng chú dể cứ ngơ ngơ ngác ngác như người ngoài cuộc hỏi gì cũng không biết để ông lãnh đạo phải mắng “Đến lần thứ hai mà ông này vẫn chả có kinh nghiệm gì cả. Không biết rồi có nên cơm cháo gì không”. Lúc ấy Lê Lựu gãi gãi cái đầu bò đầu bướu của mình lẩm nhẩm “Anh ạ... anh ạ”.
Và những suy nghĩ, giản dị, sâu sắc như chính con người ông:
“Ta đã từng đói no
Nên quý từng hạt gạo
Ta chịu rét nhiều lần
Nên thương từng manh áo…”
Thì sự giản dị đó đã trở thành một triết lý sống ở đời, một triết lý không phải người nào cũng dễ dàng có được.
Nhà thơ Vũ Cao đã dành cả cuộc đời mình viết về người chiến sĩ. Đến bây giờ, khi xuống cơ sở, anh em chiến sĩ rất quý và kính trọng ông. Quý và kính trọng nhà thơ không phải vì ông là người nổi tiếng, không phải ông là một nhà thơ có tài hay có chức sắc mà họ quý ông từ sự gần gũi, sự ấm áp lan tỏa từ con người ông. Đặc biệt, có lẽ điệu cười hồn hậu thì chỉ ông mới có. Đến đơn vị, ông như thấy lại thời trai trẻ của mình. Cái thời ông cùng Thâm Tâm, Thôi Hữu, Trần Đăng, Từ Bích Hoàng, Mai Văn Hiến vừa cầm súng vừa làm báo, viết văn, làm thơ để có sự đóng góp quan trọng của tờ “Vệ quốc quân”; “Chiến sĩ sinh hoạt văn nghệ”; “Văn nghệ Quân đội”, với đời sống văn hóa - tinh thần của người chiến sĩ trong các cuộc kháng chiến.
Chuyện nhà thơ Vũ Cao làm lãnh đạo Văn nghệ Quân đội. Cá nhân tôi không sao hiểu nổi ông đã làm gì để lãnh đạo toàn những nhà văn nhà thơ tiếng tăm lừng lẫy như ông “Đất nước đứng lên”, ông “Mảnh trăng cuối rừng”, ông “Mùa lạc”, ông “Mảnh đất lắm người nhiều ma”... cả ông Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam bây giờ cũng từng là lính “Núi Đôi”. Và rất nhiều, rất nhiều tài năng văn chương khác nữa vừa là đồng nghiệp, đồng đội nhưng về lý vẫn là lính của ông “Núi Đôi”. Một lần ông “Núi Đôi” cười rất tươi bảo tôi “Lãnh đạo văn nghệ ấy mà, ông biết không, là không lãnh đạo gì cả. Thế đấy! Thế có ghê không”...
Ở con người nhà thơ Vũ Cao, sự giản dị như là bẩm sinh, đã thành tính cách, bè bạn đến chơi với Vũ Cao thấy thoải mái như ở trong chính nhà mình. Ông hóm hỉnh từ cách nói, cách nghĩ mà vào thơ thật giản dị tự nhiên. Ấy thế mà trong thơ, sự tinh giản đó đã tự đắp lên những tượng lớn lao:
“…Mỗi bận về khuya
Tôi vẫn gặp anh bên cầu đứng gác
Như bức tượng vươn cao
Trên trời mây bạc
Gió sông một bóng một mình
Tôi qua rồi ngoảnh lại nhìn anh
Vẫn thấy bóng sông bóng cầu gió dội…”
Chặng đường một đời người một đời văn với nhà thơ Vũ Cao khá thuận chèo, xuôi mái. Bởi trong đời trong trong thơ ông luôn hướng đến với những người những việc thật bình thường. Chỉ có điều, ông luôn biết thổi những rung động máu thịt của người nghệ sĩ vào thơ và dâng tặng chính họ những gì từ công sức, máu xương của chính họ. Và, cũng chính từ những sự việc, con người bình thường ấy, đã làm lên Vũ Cao, nhà thơ - Chiến sĩ, mà “Núi đôi” đã là đỉnh cao của thơ ông.
Phùng Văn Khai