Đọc tiểu thuyết Cánh đồng lưu lạc, của Nhà văn Hoàng Đình Quang, NXB Hội Nhà văn 2005, Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn VN 2005)
Đặt tên tiểu thuyết là “Cánh đồng lưu lạc” vừa mang ý nghĩ biểu trưng vừa có tính khái quát cao, nhà văn Hoàng Đình Quang đã mở ra một không gian nghệ thuật đặc sắc. Đó là nông thôn với hiện thực bất ổn, xê dịch, những kiếp người phiêu dạt và khát vọng nhân sinh. Cánh đồng lưu lạc “theo nhiều người già kể lại có lẽ nó được khai phá bởi những người dân lưu lạc tứ xứ kéo đến đây”( trang 12). Lời giải thích lịch sử cánh đồng đã dự báo về những cuộc hành trình nối tiếp nhau đi tìm bản thể. Nền văn minh nông nghiệp Việt Nam tự bao đời vốn ở trạng thái tĩnh, ao tù nước đọng, cây đa bến nước sân đình…Nhưng trong thực tế từ xa xưa cho đến bây giờ nông dân vẫn thực hiện những cuộc di dân tìm miền đất mới. Họ ra đi mong thoát cảnh đói nghèo, u mê, trì trệ, tìm câu trả lời cho số phận, nhưng thôi thúc từ trong sâu thẳm là khát vọng sống, khát vọng làm người. Nhân vật Hoan, thầy giáo làng xuất thân từ nông dân đã chỉ ra căn nguyên sâu xa của cảnh đời lưu lạc: “Làm ruộng…một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không. Tôi không nói đến cái gian khổ…tôi nói đến sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông” (trang 25). Thì ra, không phải nỗi khổ thể chất mà chính là nỗi đau tinh thần đã dồn đuổi con người quăng quật, xô đẩy trong dòng đời biến động, bất trắc và vô tận.
Hoàng Đình Quang viết về làng Sơn Cốt, quê hương ông, một vùng quê mang đậm đặc trưng nông thôn Bắc bộ, như nhà văn thừa nhận là có đủ hạng người: gã ngốc, kẻ ăn mày, người anh hùng, ông đồ, giáo sư …Và trong bối cảnh giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cùng với sự thâm căn của cơ chế quan liêu bao cấp.
Cũng như bao tiểu thuyết hiện đại viết về nông thôn khác, “Cánh đồng lưu lạc” đề cập đến cái đói, miếng ăn, sự lạc hậu, tối tăm, tha hóa. Ám ảnh người đọc bởi những ngôi nhà “vách đất, mưa gió bào đến trơ mòn”; những năm đói kém cả làng thèm thịt mỡ, người nhà quê thường giễu là “tí mũi”; những cậu bé tuổi ăn, tuổi lớn ra đồng với ba củ khoai, đói quá nằm dưới gốc sim mà khóc. Sự thiếu thốn, khan hiếm vật chất và chế độ phân phối, khiến người ta ao ước, nâng niu từng đôi pin, cân đường…
Đó là cái phông hiện thực vừa ảm đạm vừa hài hước theo cách nhìn của Hoàng Đình Quang, nhưng ông không khai thác sâu cái phông đó như nhiều tiểu thuyết viết về nông thôn từng làm. Cảm hứng sáng tạo của Hoàng Đình Quang hướng đến một “chiều kích” khác, với một lối đi riêng rất âm thầm ráo riết là khám phá thế giới tinh thần của những con người có gốc gác nông dân thông qua bi kịch thân phận của họ.
Hơn 30 nhân vật trong tiểu thuyết được nhà văn dựng lên trong mối quan hệ gắn kết nhưng có đời sống riêng sâu sắc, vận động trong cái không gian, thời gian nghệ thuật khá tiêu biểu. Ngoài cuộc lưu lạc khởi thủy vùng đất, cuốn tiểu thuyết tập trung mô tả những cuộc lưu lạc của bốn nhân vật bươn trải trong hiện thực khắc nghiệt, với những dằn vặt tinh thần nhưng không hiếm những khoảnh khắc bay bổng, lãng mạn.
Nga, nhân vật chính, con thầy giáo Hoan, vừa lọt lòng đã mồ côi mẹ, gánh chịu một định mệnh nghiệt ngã. Mẹ Nga bị chính cha mình giết chết vì đã không nghe theo sự ép duyên của cha, mà đem lòng yêu và lấy thầy Hoan. Là nạn nhân của hủ tục “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, bố con Nga phải lưu lạc đến ở đậu làng Sơn Cốt, chạy trốn một quá khứ “thấm đẫm máu và nước mắt” để rồi Nga sẽ lại tiếp nối cuộc lưu lạc từ trong “tiền kiếp”. Nga học trung cấp Sư phạm trở thành cô giáo trường làng. Nga lấy Kỳ, rồi Kỳ đi bộ đội, chị phải nghỉ dạy về phụng dưỡng bố mẹ chồng. Nông thôn vốn là môi trường điển hình bảo lưu tư tưởng phụ hệ, trọng nam khinh nữ. Ông Tuân, bố chồng Nga chỉ có người con trai duy nhất là Kỳ, chưa kịp có con thì Kỳ đã hy sinh, vợ ông lại đau ốm liệt giường. Mê muội, quay cuồng trong nỗi đau tuyệt tự, không người nối dõi tông đường, ông Tuân đã phạm tội loạn luân với con dâu. Dù Nga đã cự tuyệt, đã đứng trên bờ đức hạnh, nhưng Phận đàn bà mỏng manh và lòng thương hại đã xui khiến Nga: “nắm lấy bàn tay ông Tuân, kéo sát, ghì chặt vào ngực, giọng lạnh băng: Đây! Làm gì thì làm”. Nga sinh ra thằng Hận, giọt máu của bố chồng. Bị mẹ chồng, các cô em chồng nguyền rủa là “gà cỏ”, “quân ngứa nghề”, “đồ đĩ rạc”, gia đình không còn là nơi trú ngụ, làng Sơn Cốt cũng không dung tha, Nga phải ra đi, chạy trốn quá khứ nhục nhã ê chề, mong đổi đời cho thằng Hận, và “nung nấu ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình”. Trong những đoạn trường, có lúc tưởng như mẹ con chị sẽ bị cuốn vào vòng xoáy vô tăm tích, nhưng chính cái đẹp của bản ngã trong Nga đã cứu vớt, đưa dẫn chị nương tựa vào lòng tốt của người đời. Ông Thuần cùng đoàn san tràng và chiếc mảng đã đưa mẹ con Nga rời Soi Vạt, một bãi đất bồi bên bờ sông hoang vắng, đi đến nơi mà Nga chưa hề định trước. Ông Thức, cửa hàng trưởng cửa hàng ăn uống thời bao cấp, với tình thương trong sáng đã cưu mang mẹ con Nga trong lúc bơ vơ, gạt bỏ chuyện lý lịch, hộ khẩu, nhận chị vào việc nắm than quả bàng và cho ở tại cửa hàng. Cuộc sống của Nga tạm yên ổn, có miếng ăn, có mái nhà che mưa nắng, nhưng tâm hồn giằng xé, thương cha già cô đơn, hiu hắt nơi quê nhà, hận ông lão Tuân đã “giết chết tuổi thanh xuân” của mình. Niềm hy vọng duy nhất là đứa con cũng biến thành nỗi đắng cay khi Nga nhận thấy thằng Hận ngớ ngẩn, mắc chứng tâm thần sau lần chết đuối hụt. Đó là một đòn giáng mạnh vào số phận, đến nỗi Nga tin rằng “trời xanh đã nổi giận chuyện loạn luân giữa bố chồng và nàng dâu”.
Ba nhân vật khác xoay quanh và có vai trò thúc đẩy sự vận động, phát triển hình tượng nhân vật Nga là ông Tuân, Tĩnh, và Tôi (người kể chuyện). Cả ba nhân vật này đều thực hiện hành trình đi tìm Nga, xuất phát từ những lý do và mục đích riêng nhưng cùng thôi thúc bởi lương tâm, tình yêu và khát vọng nhân văn.
Ông Tuân là tuýp nhân vật được đặt trong mối quan hệ bố chồng - nàng dâu. Tuýp nhân vật này vẫn thường thấy trong tác phẩm văn học viết về chiến tranh. Nhưng trong “Cánh đồng lưu lạc” Hoàng Đình Quang đã đưa ra cách giải quyết hợp tình hợp lý, bất ngờ, độc đáo, đạt hiệu quả thẩm mỹ; khiến từ chỗ là nhân vật thuộc tuyến “phản diện”, ông Tuân trở thành nhân vật “trung tính” có thể thông cảm và tha thứ, vì suy cho cùng đó là hệ lụy từ chiến tranh. Qua cái cách ông Tuân tạ tội với Thầy Hoan, bố của Nga, đủ biết ông đã đấu tranh nội tâm dữ dội, đã thành thật sám hối và dũng cảm nhận trách nhiệm. Ông dâng lễ lên bàn thờ nhà thầy Hoan thắp hương khấn vái, rồi chắp tay cung kính trước thầy Hoan: “Thưa ông…xin ông ngồi lên cho con…vâng, cho con xin lạy ông…Con là Trần Tuấn Tuân. Con đã làm một điều vô luân, vô đạo. Xin thầy tha lỗi cho con được nhờ. Thằng Hận con cô Nga không phải là đứa con hoang, cô Nga không phải là người đàn bà hư hỏng như người ta vẫn đồn đại. Thằng Hận chính là giọt máu của con…”(trang 177), rồi ông đứng trơ ra đón nhận cơn giận dữ của thầy Hoan như ông đã tiên liệu. Tính cách nhân vật ông Tuân được phát triển về hướng thiện, khi ông quyết đình rời làng Sơn Cốt lang thang khắp nơi, khổ sở như một gã ăn mày đi tìm mẹ con Nga, tự dày vò bằng những cuộc độc thoại nội tâm không dứt: “Bây giờ giữa thiên hạ này ta là chồng, cô là vợ, thằng Hận là con trai của ta. Nó nối dõi dòng họ Trần ta. Nó là thằng chống gậy đưa ta xuống mồ.”(trang 294). Nỗi đau đớn khiến ông thốt lên tiếng gọi nghẹn ngào, tha thiết và bất lực “Về đi, Nga ơi! Về làng có nhà, có ruộng cho con chúng ta”. Thông qua nhân vật ông Tuân nhà văn đã lý giải sâu sắc bi kịch tinh thần truyền kiếp, không thể giải thoát được của người nông dân.
Nhân vật Tĩnh xuất hiện ở gần cuối tác phẩm nhưng lại là điểm nhấn rất quan trọng trong hệ thống nhân vật. Nhà văn để cho tính cách của Tĩnh được bộc lộ trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, đầy thử thách, nhằm tô đậm vẻ đẹp của một nhân cách giữa đời thường. Là bộ đội xuất ngũ Tĩnh theo nghề đi rừng. Trong đoàn san tràng Tĩnh nổi bật như một “chiến binh sông nước”. Anh được ông trưởng tràng tin cậy giao cho cây sào bột điều khiển con mảng bất kham vượt qua thác hiểm. Bởi “ai được giao cầm cây sào bột phải là người can trường và có sức lực... là người đứng mũi, chịu sào”. Hành động của Tĩnh đầy nghĩa hiệp khi anh quên mình nhảy xuống dòng sông hung dữ cứu thằng Hận khỏi chết đuối. Đó là những phẩm chất trội mang đặc tính đàn ông làm nên sức hấp dẫn của nhân vật. Tĩnh có tâm hồn nhân ái, giàu linh cảm. Anh nhận ra vẻ đẹp của Nga phía sau cái bề ngoài lam lũ: “Tĩnh sững người, nhìn người đàn bà xa lạ, nghèo khó mà anh mới quen trước đây vài giờ, mà bỗng cảm thấy thân thuộc từ tận cõi nào xa thẳm” (trang 201). Anh đã giúp mẹ con Nga lên tàu đi Phú Thọ, đã nảy nở một tình yêu thầm lặng để rồi tìm kiếm chị suốt hàng chục năm trời với sự theo đuổi kiên tâm và đạt đến tình yêu đích thực sau những đổ vỡ, trải nghiệm về hạnh phúc.
Nhân vật Tôi (còn có tên là Hoàng) xuất hiện từ đầu đến cuối tác phẩm có vai trò như nhân vật chính thứ hai, song song với nhân vật Nga. Mối tình chị em của Hoàng đối với Nga bền bỉ, thiêng liêng, sâu nặng theo năm tháng. Hoàng hướng về Nga như hướng về thần tượng. Mối tình dị biệt này mang chứa ẩn ức tuổi thơ và khát vọng vượt thoát khỏi lũy tre làng, vươn tới một thế giới tinh thần cao quý. Đây chính là “hồn cốt” của cuốn tiểu thuyết, là điểm tựa cho nhà văn thăng hoa, say đắm trong ý tưởng nghệ thuật làm nên sức chinh phục mạnh mẽ người đọc. Ngòi bút của nhà văn luôn nâng niu, trân trọng khi viết về Nga: “Mái tóc đen, dài…tỏa mùi hương dịu ngọt rất lạ lùng…Chiếc áo trắng chị mặc nhuộm đẫm màu biếc của trăng non”… “Tôi vùi sâu mái tóc khét nắng của mình vào lòng chị Nga. Trái tim tôi dần dần nóng lên một cách khó hiểu…Tôi nói mà nghe thấy tiếng nói của mình như giấu kín trong tà áo chị Nga: - Chị em mình mãi mãi bên nhau nhé” (Trang 34). Vẻ đẹp huyền ảo ấy được Hoàng nhận biết bằng nỗi đam mê vô thức và thốt lên câu hỏi :“Chị ơi! Sao người ta không thể làm chủ số phận của mình được nhỉ?”. Đó cũng là câu hỏi muôn thuở của kiếp người. Tuổi thơ “đi theo đít con trâu”, gánh phân đè nặng trên vai, Hoàng mơ ước được học trung cấp Sư phạm, trở thành giáo viên như chị Nga. Dù trí thức xã bấy giờ “cày ruộng, gieo mạ, phát bờ còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng”, Nga vẫn hiện thân như một “biểu tượng” văn hóa, một điểm sáng của hồn quê. Vì thế, thực chất tình yêu của cậu bé Hoàng đối với Nga là sự “phải lòng” cái đẹp. Hoàng học Sư phạm rồi Hoàng ra trận, mang theo mối tình đơn phương đầu đời như một nỗi ám ảnh về cái đẹp. Chiến tranh kết thúc Hoàng mải miết tìm Nga, nhưng thật trớ trêu họ vẫn rẽ về hai nẻo. Phải 27 năm sau họ mới gặp nhau tại Sài Gòn, khi số phận mỗi người đã an bài. Hoàng đã giúp Nga tìm được mộ chồng. Sau lời khấn của Hoàng trước mộ Kỳ, điều kỳ diệu đã đến, thằng Hận bỗng nhiên cười ha ha. Tiếng cười báo hiệu sự lột xác, nó thoát khỏi hình hài ngớ ngẩn tâm thần, trở thành người đàn ông thực sự. Chi tiết này cùng với sự vẹn tròn của số phận các nhân vật làm nên kết thúc có hậu của tiểu thuyết.
Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Hoàng Đình Quang, kể cả những nhân vật chỉ xuất hiện thoáng qua hoặc không có sự phát triển tính cách (nhân vật tự biến mất) đều là những con người hướng thiện, tốt đẹp, thánh thiện, hoặc có những khoảnh khắc đẹp. Điều này bộc lộ cảm quan nghệ thuật của nhà văn là tập trung khai thác phần nhân bản ở con người.
Ngay trang đầu tiểu thuyết, Hoàng Đình Quang viết: “Làng Sơn Cốt là của tôi, nơi ông tôi đến đây cư ngụ, lần lượt cha tôi, rồi tôi cũng được sinh ra”. Đây là chỉ dẫn về chủ thể sáng tạo – nhà văn, mang huyết thống nông dân, con đẻ của ruộng đồng viết về chính cái làng của mình, về số phận những con người mình từng chứng kiến. Điều này là cơ sở để người tiếp nhận tin cậy vào văn bản nghệ thuật. Nhưng quyền năng tự sự của chủ thể sáng tạo càng được gia tăng hơn nữa khi nhà văn đồng thời là nhân vật “Tôi” tham gia suốt quá trình triển khai tác phẩm. Không chỉ đóng vai trò nhân chứng, nhân vật “Tôi” xác lập mối quan hệ mật thiết giữa người kể chuyện với các nhân vật. Từ điểm nhìn bên trong, nhà văn thâm nhập vào thế giới nội tâm, khám phá, giải mã những tầng sâu tinh tế và uẩn khúc của tâm hồn con người.
Với phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, dấu ấn cá nhân nhà văn in đậm vào tác phẩm một cách chân thực và cảm động. Hồi ức là màu chủ đạo của giọng trần thuật trong tiểu thuyết. Lối kể chuyện đan xen quá khứ hiện tại một cách linh hoạt, phá dỡ trật tự thời gian tuyến tính, giọng văn khi nhẩn nha, khi dồn nén, tuôn trào gây bất ngờ, tạo được nhiều cung bậc cảm xúc cho người đọc.
Có thể nói Hoàng Đình Quang đã viết “Cánh đồng lưu lạc” bằng tất cả sự trải nghiệm và tình yêu sâu nặng với làng quê. Cuộc lưu lạc trở về với ký ức, tìm kiếm, chưng cất cái đẹp là một cuộc thanh lọc tâm hồn; khẳng định cái đẹp luôn chi phối và chiếm lĩnh con người. Đó là bản chất của chủ nghĩa nhân văn.
Nha Trang, tháng 03 năm 2011