Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

TRẦN DẦN Ở GIỮA NGÃ TƯ

Thái Kế Toại
Thứ hai ngày 22 tháng 1 năm 2024 10:56 AM


Trần Dần – Wikipedia tiếng Việt

“Tôi đưa tay lên sọ. Không phải vì đau đầu. Tôi lại dừng chân bên một ngã tư: tôi rụt rè không định rẽ ngả nào. Biết đâu rẽ ngã tư kia tôi không gặp gió độc? Biết đâu ngả nào không gió thổi? Tôi đưa tay lên sọ. Tôi đứng im: hình như giữa một ngã tư. Tôi không có cả một ai để bắt chước. Tôi đến dưới một cột điện sáng đèn. Nhưng tôi nghĩ lung tung rồi. Tôi giẫm phải bóng tôi trong phố. Bóng tôi đêm nay lúc nào cũng im.” Những ngã tư những cột đèn trang 274.

Niên biểu

Trần Dần sinh ngày 23 tháng 8 năm 1926, nguyên quán thành phố Nam Định, trong gia đình một viên chức kho bạc tỉnh Nam Định. Ông học qua bậc Thành chung rồi lên Hà Nội học tiếp và đỗ bằng Tú tài.

Năm 1946, Trần Dần cùng Trần Mai Châu, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương thành lập nhóm thơ tượng trưng Dạ đài.

Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, ông trở về Nam Định tham gia công tác thông tin tuyên truyền ở huyện Vụ Bản rồi làm việc ở Sở Tuyên truyền Khu IV.

Năm 1948, ông tham gia Vệ quốc quân, ở Ban Chính trị Trung đoàn 148 Sơn La (nay thuộc Sư đoàn 316), làm công tác tuyên truyền cùng Vũ Khiêu, Vũ Hoàng Địch, sau đó làm báo ở mặt trận Tây Bắc và phụ trách văn công Trung đoàn 148 Sơn La.

Trần Dần cùng Trần Thư, Hoài Niệm tham gia sáng lập nhóm văn nghệ quân đội đầu tiên - Nhóm Sông Đà. Thời gian này ông bắt đầu làm thơ bậc thang và vẽ tranh lập thể, bị cho là khó hiểu.

Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1949.

Năm 1954, cùng với Đỗ Nhuận, Tô Ngọc Vân, Trần Dần tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ và viết truyện dài Người người lớp lớp. Chiến dịch kết thúc, ông được cử sang Trung Quốc cùng Hoàng Xuân Tùy viết thuyết minh phim Chiến thắng Điện Biên Phủ. Tuy nhiên do bất đồng với ông Tùy nên ông "nhường" cho người này viết thuyết minh. Tại thời điểm này, ở Trung Quốc, Hồ Phong, một nhà phê bình văn học và là đảng viên lâu năm, gửi một lá thư dài cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng Trung Quốc vào tháng 7 năm 1954 chỉ trích các lãnh đạo phụ trách lĩnh vực văn học nghệ thuật đã ép buộc giới văn nghệ sĩ phải theo xu hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa và có thái độ quan liêu trong công tác quản lý văn học nghệ thuật.

Tháng 3 năm 1955: Ông tham gia phê binh tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Trần Dần nhận định tập thơ Tố Hữu nhỏ bé nhạt nhẽo trước cuộc sống vĩ đại và mắc một sai lầm nghiêm trọng là sùng bái cá nhân, thần thánh hoá lãnh tụ.

Tháng 4 năm 1955: Ông cùng Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Tử Phác đệ trình Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá với các đề nghị yêu cầu tự do sáng tác, trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ, thủ tiêu hệ thống chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội, sửa đổi chính sách văn nghệ trong quân đội. Ông cũng viết đơn xin giải ngũ và đơn xin ra khỏi Đảng, và quyết định kết hôn với bà Bùi Thị Ngọc Khuê bất chấp sự phản đối của các cấp lãnh đạo.

Từ ngày 13 tháng 6 đến 14 tháng 9 cùng năm: Ông bị cấm trại do chống lệnh theo kỷ luật quân đội để kiểm thảo cùng với Tử Phác ở đơn vị.

21/6/1955: Liền trong một tuần, từ thứ 2 đến thứ 7, chi bộ khai trừ Trần Dần và Tử Phác. Về Tử Phác, tổ chức quyết định đình chỉ công tác và sinh hoạt Đảng để kiểm điểm.

Từ 3/11/1955 đến giữa tháng 2/56 Trần Dần, Tử Phác phải đi "tham quan Cải cách ruộng đất đợt 5" ở Yên Viên (Bắc Ninh). Trong thời gian này, Trần Dần ghi lại bi kịch kinh hoàng Cải Cách ruộng đất trong nhật ký, với những chi tiết, những con số, những màn đấu tố, những cảnh giết người.

Cùng trong thời gian này, Hoàng Cầm Lê Đạt tổ chức Giai phẩm mùa xuân, có bàn với Trần Dần đưa bài thơ Nhất định thắng ra in, Trần Dần đồng ý.

Cuối tháng 1/56 Giai phẩm mùa xuân vừa ra đời, bị tịch thu.

Đầu tháng 2/56 Lê Đạt bị Tố Hữu gọi tên tuyên huấn kiểm thảo 15 ngày.

Tháng 2 năm 1956: Hội Văn Nghệ tổ chức hội nghị phê bình bài thơ "Nhất định thắng" với 150 văn nghệ sĩ tham dự. Ông bị kết án là đồ đệ của Hồ Phong, mất lập trường giai cấp và đi ngược lại đường lối của Đảng.

Trần Dần lên tiếng đòi thay đổi quan điểm lãnh đạo văn nghệ trong quân đội, đòi xuất bản các tác phẩm mang tính cách tân của mình. Chỉ huy đơn vị nhiều lần cảnh cáo nhưng ông vẫn giữ quan điểm, ông liên tiếp cho ra đời các tác phẩm phê phán như "Lão rồng" và chuyện "Anh Cò Lấm" phê phán cải cách ruộng đất.


Trần Dần, Tử Phác bị bắt ở Bắc Ninh. Bị đưa giam ở một nơi kín. Trong tù ông lấy một lưỡi dao cạo râu cứa cổ dọa tự tử, được đưa đi bệnh viện cấp cứu. Sau đó ông được tướng Nguyễn Chí Thanh vào thăm và cùng với Tử Phác được thả về đơn vị.

Ngày 21/2/56, Trần Dần viết một lá thư dài 15 trang, phân trần với tướng Nguyễn Chí Thanh (Vũ Tú Nam, STVCNTD).

Hội Văn Nghệ tổ chức phê bình Nhất định thắng.

24-2-1954 Đại hội lần thứ XXII Đảng Cộng sàn Liên Xô công bố tội ác của Stalin.

Ngày mùng 7 tháng 3 năm 1956: báo Văn Nghệ số 110 có đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần do Hoài Thanh viết.

Trần Thị Băng Kha, con gái đầu lòng của Trần Dần ra đời.

Ngày 26-5-1956 tại Trung Quốc Mao Trạch Đông phát động phong trào Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng.

Tháng 8 và tháng 9- 1956 Đảng Lao động Việt Nam tổ chức Hội nghị Trung ương 9 và 10 kiểm điểm sai lầm Cải cách ruộng đất, bàn về mở rộng tự do dân chủ cho nhân dân.

Tháng 8-1956 từ 8-8 đến 26-8 Hội Văn nghệ mở lớp học tập dân chủ 18 ngày do Nguyễn Hữu Đang chủ trì. Bài tham luận của Nguyễn Hữu Đang về yêu cầu cải cách dân chủ tronng văn nghệ được hội nghị hoan nghênh nhiệt liệt. Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu đã phải thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng và hứa hẹn sẽ sửa chữa.

Giai phẩm Mùa Xuân được tái bản trở lại.

Tháng 9 năm 1956: báo Nhân Văn ra đời, do Phan Khôi làm chủ nhiệm, Trần Duy làm thư ký toà soạn, Minh Đức xuất bản, ban biên tập gồm Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm. Trong số 1 có đăng bài Con người Trần Dần - Tiến đến việc xét lại một vụ án văn học: Trần Dần của Hoàng Cầm.

Ngày 15 tháng 12 năm 1956: Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Báo in được 5 số.

Cuối tháng 2 đến tháng 4 năm 1957: Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 tại Hà Nội với gần 500 đại biểu. Nghị quyết chính thức đại hội không đặt vấn đề đấu tranh chống Nhân văn Giai Phẩm. Nhiều nhân vật chủ chốt và ủng hộ Nhân Văn Giai Phẩm vẫn trúng Ban chấp hành hội Liên hiệp và Ban chấp hành các hội văn học nghệ thuật.


Trường Chinh (vừa mới từ chức Tổng Bí thư) dự đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai với tư cách là đại diện cho lãnh đạo Đảng Lao động Việt Nam, sau khi đã đọc Thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng gửi đại hội ông mời các đại biểu đến Nhà hát lớn vào ngày chủ nhật để nghe ông nói chuyện. Tên bài chính thức: Phấn đấu cho một nền văn nghệ dân tộc phong phú dưới ngọn cờ yêu nước và chủ nghĩa xã hội. Ông phát ngôn về Nhân Văn Giai Phẩm trái ngược với tinh thần của bức thư của BCHTƯ ĐLĐVN vì vậy cho đến thời điểm này có thể coi đây là phát ngôn cá nhân của Trường Chinh. Tiếc rằng suốt một thời kỳ dài các luận điểm của ông được coi là khuôn thước, mẫu mực để các nhà nghiên cứu lý luận phê bình cũng như các nhà văn vận dụng vào công việc của họ và phê phán nhóm NVGP.

Đó là tín hiệu xấu báo hiệu sự đổi chiều trong đường lối của Đảng lao động Việt Nam.

Tháng 3 đến tháng 4 năm 1958: Trần Dần tham dự lớp học chỉnh huấn tại ấp Thái Hà cùng với 304 cán bộ văn hoá văn nghệ tham dự.

Đầu tháng 6 năm 1958: Hội nghị ban chấp hành Hội Liên Hiệp Văn học nghệ thuật họp tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn-Giai Phẩm. Hơn 800 văn nghệ sĩ trong hội ra tuyên bố hoan nghênh kết quả thắng lợi của cuộc đấu tranh.

Tháng 7 cùng năm: Cùng với các nghệ sĩ tham gia Nhân Văn-Giai Phẩm khác, ông bị kết quả kỷ luật. Trần Dần bị khai trừ khỏi Hội Nhà Văn 3 năm và treo bút trong thời hạn 3 năm.

Từ 22 tháng 8 đến tháng 2 năm 1959: đi thực tế lao động tại nông trường Chí Linh cùng với Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Tử Phác.

Tháng 11 năm 1959: Ông được phân công làm công tác dịch thuật tại ga ra Hội Nhà Văn cùng với Lê Đạt, Phùng Cung, Nguyễn Khắc Dực. Tại ga ra này xảy ra một vụ án hậu Nhân Văn Giai Phẩm về việc Phùng Cung bị bắt vì hơn chục truyện ngắn viết sau truyện Con ngựa già của Chúa Trịnh.

Năm 1960: Trần Dần có hai lần đi thực tế lao động tại khu gang thép Thái Nguyên. Đến tháng 8 thì ốm nặng và về Hà Nội. Từ đó sống âm thầm tại Hà Nội bằng nghề dịch sách và tô ảnh màu, đứng ngoài mọi sinh hoạt văn nghệ chính thống.

Năm 1988 Phục hồi hội tịch Hội Nhà văn Việt Nam

Tháng 5- 1988, Trần Dần được Phùng Quán tháp tùng vào Huế gặp gỡ đồng nghiệp và bạn đọc. In thơ trở lại trên Tạp chí Sông Hương.

1987 Con trai út Trần Trọng Vũ đỗ thủ khoa Đại học Mỹ thuật Hà Nội, năm 1989 được đi Pháp do học bổng của Mỹ thuật Quốc gia Pháp.

Bài thơ Việt Bắc do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn in năm 1990 là tập thơ đầu tiên được in của Trần Dần sau thời Nhân Văn Giai Phẩm. Tên gốc của tập thơ là Ði! Ðây Việt Bắc! một trường ca sáng tác năm 1957, gồm 13 chương mà chương thứ 13 là bài Hãy đi mãi đã được đăng trên báo Văn số 28 ra ngày 15/11/1957. Ở lần xuất bản năm 1990, bài Hãy đi mãi vẫn bị loại bỏ và tập thơ được đổi tên là Bài thơ Việt Bắc.

Năm 1994 tái bản tiểu thuyết Người người lớp lớp tại Nhà xuất bản hội Nhà văn.

Tập thơ tiểu thuyết Cổng tình năm in 1994, đã đoạt giải thưởng của Hội nhà văn năm 1995.

Ông mất tại Hà Nội ngày 17 tháng 1 năm 1997.

Năm 1998 in Mùa sạch tại Nhà xuất bản Văn học.

Ông được truy tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.

Sau khi ông mất, người con trai thứ hai, họa sĩ Trần Trọng Vũ đã bỏ ra nhiều thời gian sắp xếp lại kho tàng di cảo mà Trần Dần để lại. Đến đầu năm 2008, Công ty Nhã NamNhà xuất bản Đà Nẵng đã cho phát hành cuốn Trần Dần - Thơ, được coi là công trình đồ sộ nhất từng được xuất bản về Trần Dần.

Năm 2008, tập Trần Dần - Thơ được giải thưởng Thành tựu trọn đời của Hội Nhà văn Hà Nội.

Năm 2011 in tiểu thuyết Những ngã tư những cột đèn, đến nay cuốn này đã được tái bản nhiều lần.

Trần Dần có ba người con, hai trai một gái:

Con gái: Trần Thị Băng Kha, giáo viên dạy toán. Chồng là Giáo sư Tiến sỹ Viện Hán Nôm Đinh Bá Thuân

Con trai: Trần Trọng Văn, nhà quay phim ở Đài Truyền Hình Hà Nội

Con trai: Trần Trọng Vũ, họa sĩ sống tại Pháp. Vợ của Trần Trọng Vũ là nhà văn Thuận (Đoàn Ánh Thuận)

Sự kiện phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu.

Tháng 3/1955, Trần Dần, Tử Phác cùng Hoàng Cầm, Lê Đạt tổ chức phê bình tập Việt Bắc của Tố Hữu, với những bài của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt.

Lê Đạt kể lại: "Lúc đến, tôi đã thấy ông Nguyễn Chí Thanh ngồi đấy rồi. Hoàng Yến lên nói về thơ Tố Hữu và bảo rằng thơ Tố Hữu bây giờ "nhỏ" hơn thơ Tố Hữu thời trước, thì đó cũng là một cách nói thôi. Sau đó, khi anh Thanh lên diễn đàn thì tôi thấy không khí im lặng cả, không ai nói gì nữa. Trần Dần đá chân tôi bảo: "Thôi, thế cậu lên đi." Tôi lên nói một bài về thơ Tố Hữu và tôi có nhắc đến sự sùng bái chủ tịch Hồ Chí Minh của Tố Hữu. Cuộc trao đổi ấy rất vui vẻ rồi ông Thanh cũng không nói gì nữa. Căn cứ trên cuộc thảo luận ấy thì anh em thấy là có thể có đủ bài để viết trên tạp chí Văn Nghệ mà lúc đó tôi là thường trực. Sau đó tôi có lên trình bày với anh Tố Hữu về tờ báo Văn Nghệ".

Buổi thảo luận chỉ là nói miệng, nhưng Lê Đạt muốn đưa lên Văn Nghệ mới lên gặp Tố Hữu để bàn, không ngờ Tố Hữu lại "gợi ý" Lê Đạt nên viết bài phê bình tập thơ Việt Bắc, chắc ông chờ đợi một bài tâng bốc của đàn em. Đã có sẵn bài của Hoàng Yến trong túi, Lê Đạt bèn tập hợp thêm một số bài khác làm số báo đặc biệt về Việt Bắc. Tố Hữu không ngờ vụ việc xẩy ra trái hẳn ý mình, bởi vì, theo Lê Đạt: "Ở nước Việt Nam người ta chưa quen chê anh Tố Hữu bao giờ".

Vụ phê bình Việt Bắc mở rộng và chuyển sang các báo khác, kéo dài nhiều tháng. Nhưng Tố Hữu cũng không vừa, ông ra lệnh cho Hội Văn Nghệ tổ chức thêm hai buổi tọa đàm khác, có các vị chức sắc tham dự. Phía ca tụng Việt Bắc chủ chốt có các bài của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi và Hoàng Trung Thông. Phía chê có: Hoàng Yến, Hoàng Cầm và Lê Đạt. Trần Độ trung dung: vừa khen, vừa chê.

Hoàng Yến muốn chê thơ Tố Hữu bịa nhưng lịch sự nói rằng Tố Hữu chưa nắm vững hiện thực: "Ta thấy thơ Tố Hữu ngày nay còn bé hơn thơ Tố Hữu trước kia. Bé vì Tố Hữu chưa thổi được vào thơ ngọn lửa hừng hực chiến đấu của thời đại để đốt cháy lòng người đọc. Bé vì chất sống chưa thật sâu sắc nên ý thơ nhiều đoạn còn giả tạo công thức".

Hoàng Cầm chê thơ Tố Hữu "thiếu chất sống thực tế", "nhạt nhẽo", "hời hợt", chỉ "lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn", "những câu văn đèm đẹp" "rủ rỉ một lát rồi thôi", "chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào", khi ca tụng lãnh đạo thì "đao to búa lớn", " bài "Hoan hô chiến sĩ Điện Biên giống như một vại nước to, tràn đầy, pha loãng một màu sữa. Loãng quá" ...

Lê Đạt, trong bài lý luận, cho rằng Tố Hữu "cố gắng đi tới công nông" nhưng trong thơ còn rơi rớt tính chất "ngậm ngùi, buồn buồn... nó là cơ sở điệu tâm hồn của Tố Hữu"... và tổng kết ý kiến của mình và các bạn: "Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản, nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ"

Trần Dần không có bài trên báo, nhưng viết trong nhật ký "Tố Hữu nhìn sự vật nó chính trị quá, công thức quá, lười tìm tòi quá. Chỗ nào hay thì lại là lập lại Nguyễn Du, Tản Đà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì". Và trong buổi toạ đàm ngày 4/3/55, theo Vũ Tú Nam Trần Dần bảo thơ Tố Hữu là "tí ti la haine, tí ti l'amour - tí ti căm thù, tí ti tình yêu ".

Trần Dần ghi những điều mà mọi người thấy, nhưng không dám nói ra: Một người chuyên trị thơ kháng chiến như Tố Hữu, nếu ông chịu khó đọc lại thơ ông, thì ông sẽ thấy Trần Dần nói đúng. Thơ ông đầy những câu văn hoa ngớ ngẩn, lẩy Kiều một tý, ngược xuôi Mán Mường một tý, ươn ướt một tý, ca dao một tý, rất đúng ngữ điệu "chim gái":

Mười lăm năm ấy ai quên

Quê hương cách mạng dựng nên cộng hòa

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. (trích Việt bắc)

Bài Bầm ơi, vào loại rất hay của Tố Hữu cũng là một bài lẩy ca dao:

Bầm ra ruộng cấy bầm run,

Chân lội dưới bùn, tay cấy mạ non

Mạ non bầm cấy mấy đon

Ruột gan bầm lại thương con mấy lần.

Mưa phùn ướt áo tứ thân

Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu.

Cho nên khi bình thơ Tố Hữu, Trần Dần đã phê một câu chí lý: "Chỗ nào hay thì lại là lặp lại Nguyễn Du, Tản Ðà, ca dao... Tố Hữu chưa đem tới một cách nhìn mới mẻ gì." Quả thật nếu so với những câu của Trần Dần trong Đây. Việt Bắc thì mức độ đẳng cấp thơ khác xa nhau.

Ở đây

Ta đã long đong

Chín mùa xuân xạm lửa,

Đạn

Như ruồi

Bâu kín

Gót chân đi!

Ở đây

Lên Bắc

Lại về Đông,

Vò võ

Chân trời

Khẩu súng,

Mỗi đêm

Từ biệt

Một quê hương!

Ở đây

Ta dấy nghiệp

Nhọc nhằn

Hai tay trắng

Mưu cơ

Tần tảo

Mới làm nên

Đất nước bây giờ

Chính

Cái nôi Việt Bắc

Bế bồng ta

Qua

Tất cả

Tháng năm đầy lửa

Nuôi ta

Nuôi cách mạng

Lớn khôn

Ta bầu bạn

Củ khoai môn

Nương sắn

Bạn

Con chim mất ngủ

Rừng già

Bạn

Sông Đà

Sông Mã

Chở đầy sao

Bạn hang núi

Lá vàng rơi

Khắc khoải


Trong những người tham gia phê bình tập thơ Việt Bắc có một người mà số phận cần phải nói đến là nhà văn Hoàng Yến.

Nhà văn Hoàng Yến (1922-2012), tên khai sinh Lê Hoàng Yến (bút danh: Thạch Tiễn, Hoàng Lan, Hoàng Đức Anh), quê An Thái, Hòa Vang, Quảng Nam, thường trú tại Q.3, TP.HCM, hội viên sáng lập Hội Nhà văn VN năm 1957.

Nhà văn Hoàng Yến tham gia cách mạng từ 1942, sau toàn quốc kháng chiến năm 1946, ông làm thư ký tòa soạn Báo Khu 4 và tham gia công an, quân đội. Ông có tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với một số bài viết và xuất bản tập thơ Tình người soi dặm đường. Trước khi quyết định kỷ luật những người tham gia Nhân Văn Giai Phẩm ông bị quân đội khai trừ đảng và đưa đi cải tạo tại Nông trường Vân Lĩnh ở Phú Thọ 3 năm. Điều đáng ngạc nhiên là ông vẫn do quân đội quản lý cho tới năm 1967, không rõ có phải ông đã từng làm thư ký cho ông Nguyễn Chí Thanh hay không?

Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo kể: Năm 2006, nhà thơ Hoàng Cầm giao 53 cuốn băng cassete cho tôi để nghe, sau này làm tư liệu để viết về ông. Vì số băng quá lớn, tôi nhận 11 cuốn băng (đánh số từ 1 đến 11) về nghe. Tôi thường nghe về đêm khuya khi mọi công việc của ngày đã tạm ổn. Mỗi băng phải nghe đến 90 phút mới hết. Với một giọng kể đều đều, chân thành và chua xót, Hoàng Cầm cứ kể như bất tận về cuộc đời ông xoay quanh những câu chuyện bạn bè văn nghệ và những sự kiện mà ông trải qua. Trong 11 băng tôi nghe có nhiều chuyện rất lạ. Trong đó có chuyện nhà văn Hoàng Yến đi tù, có người vợ trẻ đẹp hiền lành bị các tổ chức vận động bỏ chồng vì chồng tham gia nhóm NV-GP “phản động”. Vợ Hoàng Yến thấy chồng hiền lành chả có tội gì, nhưng vì sức ép của tổ chức nên phải đưa đơn ra tòa li dị chồng. Khi ra tòa, tòa hỏi: Tại sao chị đưa đơn li dị chồng? Chị vừa khóc vừa trả lời: Anh ấy rất tốt với vợ con, cả họ ngoại nhà tôi đều quý anh ấy, nhưng vì tổ chức nói anh ấy phản động nên tôi không được chung sống với kẻ phản động. Đó là một bi kịch mà gia đình vợ chồng Hoàng Yến phải gánh chịu.

Chuyện ly dị của vợ chồng Hoàng Yến ban đầu tưởng là giả vờ nhưng sau thành thật. Sau khi hết lao động cải tạo được biệt phái về Bộ Văn hóa, Hoàng Yến sống gá nghĩa với một nhà thơ người Hà nội vốn đã sống ở nội thành trước 1954 là Thùy Linh. Hai ông bà viết chung một số vở kịch đứng tên chung. Bà Thùy Linh đã được Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật lĩnh vực Sân khấu năm 2007. Rất tiếc là ông đã không thể trở lại với gia đình đầu tiên của mình.

Trường hợp ly dị giả vờ hóa thật của Hoàng Yến- Lan Châu không phải là độc nhất vô nhị mà khá phổ biến ở xã hội Bắc Việt Nam trước đổi mới với nhiều người liên quan đến các vụ án chính trị trong đó có trường hợp Huy Vân- Tuệ Minh mà tác giả chững kiến.

Bản dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá

Tháng 4/1955, Trần Dần, Tử Phác, Hoàng Cầm, Đỗ Nhuận, Hoàng Tích Linh, Trúc Lâm... ký bản "Dự thảo đề nghị cho một chính sách văn hoá", nội dung yêu cầu cải cách chính sách văn nghệ trong quân đội, chủ yếu đòi quyền tự do sáng tác của văn nghệ sỹ.

Hoàng Cầm viết: "Bản dự thảo sắp được thông qua. Một vài cán bộ cao cấp trong quân đội tỏ ý tán thành những điểm chính trong bản đề nghị đó, và nhất là hoan nghênh tinh thần xây dựng của bản đề nghị". Nhưng: "Đột nhiên trong không khí hào hứng của gần ba mươi anh em văn nghệ sĩ đang sẵn sàng cởi mở hết để xây dựng một trong những chính sách lớn của Đảng, bỗng có một câu quật lại:

“Tinh thần bản đề nghị này chính là một thứ tư tưởng tự do của tư sản. Nó chứng tỏ tư tưởng tư sản đã bắt đầu tấn công vào các đồng chí!

Giá câu nói ấy ở mồm một người thường thì cũng sẽ thường thôi. Nhưng lại ở một cán bộ có đủ thẩm quyền xét lại hay bác bỏ những đề nghị của văn nghệ sĩ, thì bắt đầu có một sự động cựa lớn. Những người trước kia tán thành bản dự án thì bắt đầu trở nên hoang mang" .

Trong bài viết này, Hoàng Cầm không thể nói rõ những người ủng hộ là ai, người "thẩm quyền bác bỏ" là ai. Nhưng ông thuật lại bối cảnh buổi họp đó trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè như sau: Nhân buổi họp mặt khoảng trên 20 văn nghệ sĩ, trong nội thành ở Cửa Đông với tướng Nguyễn Chí Thanh. Đây là một trong những buổi họp mặt thường xuyên, được tổ chức theo lời ông Thanh, để chúng tôi giảng cho ông về văn nghệ. Trần Dần lợi dụng dịp này để đọc bản điều trần cho ông nghe, nhưng mới đọc được độ non nửa bài, thì ông Thanh đập bàn quát: "Tôi không ngờ các đồng chí đã ăn phải viên đạn bọc đường của giai cấp tư sản... tôi thấy sặc cái mùi tư sản, nào là tự do sáng tác, tự do đi lại... thôi tôi không nghe nữa", rồi ông đứng dậy đi về.

Trong bài Sự thực về con người Trần Dần trên VNQĐ tháng 4-1958, Vũ Tú Nam cho biết:

Hôm đó, Trần Dần nêu lên ba đòi hỏi chính:

1- Trả lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ.

2- Thành lập trong quân đội một chi hội văn nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính Trị.

3- Bỏ mọi "chế độ quân sự hiện hành" trong văn nghệ quân đội...

Nghe xong đồng chí Nguyễn Chí Thanh dặn dò anh em phải coi chừng, đó là quan điểm tư sản, phi Đảng, phi giai cấp, phi chính trị. Hồi đó, anh em chưa vỡ lẽ, còn ấm ức, cho là cấp trên không thông cảm. Trần Dần và vài người khác thì lồng lộn, chửi bới, reo rắc hoài nghi, chán nản, muốn giải ngũ".

Vẫn theo Vũ Tú Nam, Trần Dần viết:

"Biểu hiệu cao nhất của trách nhiệm người viết là thái độ tôn trọng, trung thành với sự thực. Đó là tiêu chuẩn cao nhất đánh giá tác giả và tác phẩm... tôn trọng, trung thành với sự thực vừa là trách nhiệm, vừa là lập trường, vừa là phương pháp làm việc của người viết".

"Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách".

Bản dự thảo do chính tay Trần Dần viết trong tháng 2/55, dài 12 trang đánh máy bị Cục Tuyên huấn bác bỏ.

Nhưng về mặt "chính thức", Trần Dần bị kỷ luật vì lẽ khác: về chuyện tình cảm, yêu một người con gái có đạo -Cô Khuê, vợ Trần Dần sau này- cha mẹ đã đi Nam, không được đảng cho phép cưới, tự ý bỏ trại, về với người yêu ở phố Sinh Từ và không chịu lên trình diện. Tử Phác cũng không chịu lên trình diện.

Về việc này, Boudarel một hàng binh làm địch vận trong quân đội, cũng là chỗ quen biết các ông, trong cuốn Trăm hoa nở trong đêm Việt Nam bằng tiếng Pháp có phân tích: "Đối với Trần Dần, trận bút chiến trong ba tháng đầu năm 1955 đi đôi với sự tranh đấu không cân bằng trong Cục Chính Ủy quân đội về vấn đề lý thuyết chính trị và nhân sự, cả hai đan cài khó gỡ. Việc bản dự thảo bị hủy bỏ đối với Trần Dần là một thất bại, nhưng cũng không đau đớn bằng việc bị các bạn đồng hành bỏ rơi, chạy sang phe bên kia. Vì lý do sức khỏe, Trần Dần xin nghỉ một thời gian để thoát khỏi trại binh. Mãi không thấy cấp trên trả lời, anh tự ý bỏ trại về nhà người bạn gái ở phố Sinh Từ. Hai lần cấp trên gọi về chờ lệnh, anh đều từ chối. Bị kiểm thảo vắng mặt, và có lẽ bị trừng phạt nữa, bởi vì trong lần gọi thứ ba, anh đòi hủy bỏ những quyết định chống lại anh. Những phê phán Trần Dần phạm quân kỷ đi đôi với việc trật tự trở lại trong văn nghệ quân đội. Mãi không thấy gì mới, đến giữa tháng 5/1955, Trần Dần viết hai lá đơn xin ra khỏi đảng và ra khỏi quân đội (một cho đảng và một cho quân đội) trong đó anh trình bày những lý lẽ của mình với một sự thẳng thắn, đến độ ngây thơ lạ lùng".

Đúng ra có thể nói Bản dự thảo là phát súng đầu tiên của Nhân Văn Giai Phẩm.


Đây là lần thứ nhất Trần Dần, Tử Phác bị giam, thật ra bị cấm trại. Trong thời gian này, Trần Dần viết bài thơ dài Nhất định thắng trao bản thảo cho Lê Đạt giữ. Hết cấm trại, Trần Dần và Tử Phác được về nhà, và hơn tháng sau, cả hai bị gửi đi tham gia Cải Cách Ruộng Đất tại Yên Viên, Bắc Ninh, từ 2/11/1955 đến giữa tháng 2/1956. Trong khi ấy Hoàng Cầm và Lê Đạt ra Giai Phẩm Mùa Xuân.

Bị bắt

Tháng 1/1956, Giai Phẩm Mùa Xuân xuất hiện, đăng bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Sách vừa phát hành, Lê Đạt bị gọi lên Tuyên Huấn để kiểm thảo. Giai Phẩm Mùa Xuân bị tịch thu.

Lê Đạt kể lại trên RFI:

"In ra được một tuần thì thấy ảnh hưởng của nó ghê gớm quá, tôi với anh Trần Dần cũng không ngờ. (...) Nhưng mà đồng thời dông bão cũng đã bắt đầu thấy xuất hiện ở trên vòm trời rồi. Hôm tôi đến Hội, tôi gặp cụ Phan Khôi. Cụ Phan Khôi bảo: "Này, gay go đấy nhé!" Tôi bảo: "Cái gì mà gay go hở cụ?" Hôm nọ Tố Hữu đến đây phê phán Giai Phẩm Mùa Xuân nặng lắm và nói rằng: "Lũ này là lũ phản động", thì tôi (Khan Khôi) có nói rằng: "Phản động hay không phản động chưa biết, cứ biết rằng người ta nói mình không bằng lòng thì mình viết, rồi để cho người ta trả lời", thì Tố Hữu nói ngay rằng: "Thừa giấy cho chúng nó viết à?" Phan Khôi bảo tôi: "Cẩn thận!" Rồi chúng tôi chia tay nhau. Lúc đó đi đâu cũng thấy người ta nói đến Giai Phẩm Mùa Xuân. Bấy giờ là gần Tết rồi và hôm ấy, vào khoảng độ 28 Tết (9/2/1956) trên đường đi tôi gặp một người liên lạc của tôi, đang đi tìm tôi, bảo rằng: "Anh Tố Hữu có điện đi tìm anh và nói rằng mời anh lên Tuyên Huấn để kiểm thảo".(... ) Tôi bảo với cậu liên lạc: "Bây giờ em về, em cứ nói với cơ quan là không tìm thấy anh, rồi sau Tết anh sẽ lên". Tôi nghỉ ăn Tết xong, mùng 5 Tết (16/2/1956) tôi lên gặp Tố Hữu. Lên, thì lúc ấy Tố Hữu ở trên gác, một anh chánh văn phòng xuống gặp tôi, nói rằng: "Anh đợi một lúc, anh Tố Hữu sẽ xuống!" (...) Trong lúc ngồi ghế đợi, tôi thấy quyển Giai Phẩm Mùa Xuân để trên bàn, bài Nhất định thắng của Trần Dần với rất nhiều câu hỏi của anh Lành (Tố Hữu) đánh bằng bút bi đỏ, ở chung quanh. Nói ghê lắm. Còn bài Mới của tôi, thì bên cạnh câu: Bay cho cao, bay cho xa, anh Tố Hữu có đề câu hỏi: Bay đi đâu? Có phải bay vào miền Nam không? (...) Lúc đó, anh Tố Hữu đi trên gác xuống (...) Câu đầu tiên anh nói với tôi rất lạnh lùng: "Các anh muốn gì?". Tôi hơi bực mình, tôi trả lời: "Chúng tôi chẳng muốn gì cả, chúng tôi chỉ muốn làm văn nghệ. Anh Tố Hữu này, chúng ta vẫn còn là đồng chí với nhau, cho nên anh không thể xử sự với tôi như người ngoài được. Có gì anh cứ nói một cách bình tĩnh." Lúc ấy anh Tố Hữu nghĩ thế nào, mới rút một điếu thuốc lá mời tôi và chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Câu đầu tiên mà anh Tố Hữu nói là: "Tôi rất lo cho tương lai chính trị của anh. Anh thì còn là người ở trong nội bộ, còn Trần Dần hỏng rồi. Chúng tôi đã có tài liệu rằng Trần Dần là có bàn tay của địch dúng vào. Vì anh còn là người của nội bộ cho nên chúng tôi mời anh đến đây kiểm điểm. Anh phải ở lại đây 15 ngày để kiểm điểm và để anh thấy rõ bộ mặt phản động của Trần Dần."

Thế là tôi ở lại đấy ăn cái Tết kiểm thảo 15 hôm (...) Trong 15 ngày thì có một cuộc Hội Nghị rất lớn, hầu hết các nhân vật sừng sỏ nhất của Tuyên Huấn, nào là anh Kỉnh này, Kỉnh là Trung ương Ủy viên và là phó ban Tuyên Huấn, Nguyễn Chương này. Nguyễn Chương, anh em quen gọi là Xứ Chương, là một cán bộ kỳ cựu sừng sỏ về lý luận (sau này cuộc tranh luận giữa Xứ Chương và Nguyễn Hữu Đang trên báo được rất nhiều độc giả lưu ý). Cả thiếu tướng Lê Chưởng... nhiều, nhiều lắm. Cuộc họp rất to, mà ở bên này chỉ có tôi thôi (cười). Một người thì không thể nào cãi lại được tất cả mọi người. Nhưng tôi cãi được một điểm duy nhất mà tôi có thể cãi lại, và tôi cho là đúng, đó là:" Tôi không thể nào căn cứ vào một văn bản mà kết luận một người (tức Trần Dần) là phản động được". (...)

Tóm lại, cuộc đấu tranh rất căng thẳng. Sau đó, tôi được thả về vì đến đấy coi như đã xong và anh Dần cũng đã bị bắt rồi. Tức là cùng lúc tôi bị gọi lên kiểm điểm ở Tuyên Huấn thì anh Dần bị bắt ở chỗ cải cách ruộng đất. Trần Dần bị bắt cùng với Tử Phác, (...) Ba hôm sau, anh Dần cứa cổ tự tử".

Theo Thụy Khuê Hoàng Cầm trong băng ghi âm cho biết:

"Ít ngày sau khi tịch thu Giai Phẩm Mùa Xuân, Tố Hữu triệu tập đại hội toàn thể các cán bộ Tuyên Huấn miền Bắc để phê bình Giai Phẩm Mùa Xuân, họp từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều. Trong hội nghị này, vai trò của Chế Lan Viên nổi bật. Trần Đĩnh làm việc trong báo Nhân Dân, đi dự hội nghị kể lại với tôi: Tố Hữu khai mạc, Chế Lan Viên "nổ phát súng đầu tiên" lên án -không phải lên án tập sách mà lên án một bài thơ của Trần Dần thôi- rằng nó đã bôi ra một bức tranh u ám của miền Bắc. Trong khi chúng ta đang phấn khởi, tưng bừng đón chế độ mới, mà lại nói "mưa sa trên mầu cờ đỏ" là thế nào? Rõ là mầu cờ cách mạng. Đem quệt một cái màu hết sức u tối lên trên cờ Đảng, là bôi nhọ thành tích của Đảng, của nhân dân. Rõ ràng là một câu thơ hết sức phản động... Tiếp theo Chế Lan Viên, mọi người ào ào lên phát biểu đả kích Trần Dần..., không ai bênh vực.

Vẫn theo lời Hoàng Cầm kể lại lời Trần Đĩnh, đến 5 giờ chiều, tan họp, chỉ còn lại độ 5,7 người, Tố Hữu mới hỏi Văn Phác: Thế bây giờ chúng nó đâu? Văn Phác trả lời: "Báo cáo anh, hai anh ấy đang đi cải cách ruộng đất ở bên kia huyện Gia Lâm". Trần Đĩnh cũng chỉ nghe đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, giam nó lại!.

Đại Hội Văn Nghệ họp ở 51 Trần Hưng Đạo lập lại kịch bản đánh Trần Dần đã tập dượt trong Đại Hội Tuyên Huấn. Phan Khôi tham dự Đại Hội Văn Nghệ và trong bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, ông cảnh cáo các lãnh đạo văn nghệ như sau:

"Hội Văn Nghệ khai hội từ 7 giờ tối đến 1 giờ sáng để phê bình bài thơ Trần Dần, mà kỳ thực là hỏi tội Trần Dần, một mầm non văn nghệ. Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa lũ người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".

Trần Dần và Tử Phác bị bắt. Bị giam dưới hầm, Trần Dần dùng dao cạo cứa cổ, được đưa vào bệnh viện. Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh ngày 21/2/56 và được tha ngày 5/5/56

Hoàng Cầm viết trong bài Con người Trần Dần trên Nhân Văn số 1 như sau:

"Giai Phẩm Mùa Xuân bị kết tội, bài thơ "Nhất định thắng" bị kết tội. Người ta cho rằng cái bè phái độc quyền trong giới văn nghệ bị công kích (bắt đầu từ cuộc phê bình thơ Việt Bắc) đã tìm cách trả thù:

Trần Dần, Tử Phác đều bị tống giam".

"Từ những ngày Tết mưa lã chã, cái bè phái độc quyền trong văn nghệ bắt đầu họp đứng họp ngồi để tìm cách đối phó với cái Giai phẩm. Một không khí ngạt thở đè nặng lên những anh em có bài trong tập sách đó. Rồi đến một đêm, bài thơ “Nhất định thắng” bị đem ra luận tội".

Nguyễn Chí Thanh đọc bài Con người Trần Dần, cử Lê Quang Đạo triệu Hoàng Cầm lên để giải thích. Theo lời "thú nhận" của Hoàng Cầm, sau khi nghe Lê Quang Đạo, ông đã viết bài đính chính rằng có nhìn thấy công lao của quân đội đối với Trần Dần, nhưng ông vẫn thêm vào đoạn cuối: "Việc bỏ tù Trần Dần là quá đáng, đến nỗi Trần Dần phải tự tử, và tôi vẫn viết một câu đại ý: Đồng chí Tố Hữu là người phụ trách toàn bộ công tác lãnh đạo văn nghệ, phải chịu trách nhiệm về việc này". Bài đính chính của Hoàng Cầm không đăng trên Nhân Văn.

Và đây là lời buộc tội của Tố Hữu:

"Như lời thú nhận của Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, cuộc phê bình tập thơ

Việt Bắc là do cái bè phái ấy sắp đặt, để đánh vào sự lãnh đạo và đường lối văn nghệ của Đảng, đường lối phục vụ chính trị cách mạng, phục vụ công nông binh, và để đề xướng cái "điệu tâm hồn" ruỗng nát của chủ nghĩa cá nhân tư sản, mở cửa cho lối sống tự do sa đọa.(...)

Đối với chúng, đời sống trong quân đội cách mạng chỉ còn là "những sợi dây xích trói buộc phải phá mà ra". Được tiêm thêm ít nhiều chất phản động của Hồ Phong, Trần Dần gióng lên "tiếng trống tương lai" chửi cán bộ chính trị là "người bệnh", "người ròi" [dòi], "người ụ". Cùng Tử Phác, khiêu khích những anh em khác, hắn tổ chức một cuộc đấu tranh "buộc lãnh đạo thực hiện mọi yêu cầu" của họ.

Họ đòi thực hiện những gì? "Trả quyền lãnh đạo văn nghệ về tay văn nghệ sĩ. Thủ tiêu chế độ chính trị viên trong các đoàn văn công quân đội. Thủ tiêu mọi chế độ quân sự hiện hành trong văn nghệ quân đội. Thành lập trong quân đội một chi Hội Văn Nghệ trực thuộc Hội Văn Nghệ, không qua Cục Tuyên Huấn và Tổng Cục Chính trị". Tóm lại là thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng và kỷ luật của quân đội đối với họ".

Về việc Trần Dần cứa cổ, chỉ có Hoàng Cầm kể lại, trong bài cải chính -không in- mà Hoàng Cầm nhắc đến ở trên. Trong buổi nói chuyện với RFI, ông thuật lại ít nhiều chi tiết. Đặc biệt trong hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn ghi lời của Hoàng Cầm về việc Trần Dần, rõ hơn:

"Hồi Hoàng Cầm cho in tập Giai Phẩm Mùa Xuân, có đăng bài của Trần Dần, Tử Phác. Tố Hữu triệu tập mấy người đến họp: Hoàng Cầm, Văn Phác, Chế Lan Viên ... Tố Hữu cầm cuốn Giai Phẩm Mùa Xuân, hỏi mọi người: "Các anh thấy tập sách này thế nào?" Không ai dám trả lời, vì không đoán được ý Tố Hữu. Chế Lan Viên nhanh trí, đoán trúng ý thủ trưởng. Anh nói: "Cuốn sách đại phản động!"

Tố Hữu hỏi Văn Phác:"Hiện nay chúng nó đang ở đâu?" Văn Phác: "Thưa, các anh ấy đang đi thực tế ở Yên Viên".

Tố Hữu ra lệnh - Hoàng Cầm nhớ đúng sáu tiếng: "Gọi nó về, bắt lấy nó!"

Thế là Văn Phác làm giấy tờ để bắt Trần Dần, Tử Phác.

Hoàng Cầm nói, Trần Dần là tay thần kinh rất vững. Anh ta bình tĩnh lắng nghe để đoán xem xe đi đâu. Qua một cái cầu dài. Thế là vào Hà Nội. Nhưng xe lại chạy tiếp khá lâu. Thế là đi quá Hà Nội. Đến một chỗ nào đấy, xe đỗ lại. Người ta dắt Trần Dần, Tử Phác, đi xuống một địa điểm ở sâu dưới đất - vì cứ thấy xuống nhiều bậc, xuống mãi. Đến một độ sâu nào đấy, họ dừng lại và đẩy Trần Dần vào một căn hầm, đóng cửa lại. Trần Dần nghĩ bụng, chắc bị thủ tiêu. Thủ tiêu ở đây thì ai biết được? Coi như mất tích. Anh nghĩ phải tìm cách lên được mặt đất.

Sáng ra, thấy đây là một cái hầm đào sâu dưới đất. Ánh sáng lọt xuống từ nóc hầm qua một ô cửa có chấn song, ở trên thoáng thấy có bóng một anh lính gác.

Trần Dần thấy trong hầm có một cái phản gỗ và một bình nước. Anh kéo cái phản ra chỗ ánh sáng từ trên nóc hầm rọi xuống, cởi áo ngoài, để phơi áo sơ mi trắng bên trong ra, lấy một cái mince lame trong túi, nằm ngửa lên phản, dùng lưỡi dao cứa vào cổ cho máu phun ra ngực áo, rồi giẫy đạp ầm ĩ, cốt cho anh lính gác nghe thấy. Anh lính gác nhìn xuống thấy thế hoảng quá: Nó tự tử, phải đưa cấp cứu ngay! Một lát sau, cửa hầm mở, người ta đưa Trần Dần đi cấp cứu ở một bệnh viện gần đó. Té ra là bệnh viện Hà Đông. Ở đây, Trần Dần may vớ được một người quen bèn viết mẩu giấy nhờ đưa đến Tổng Cục Chính Trị nơi anh công tác. Nguyễn Chí Thanh lập tức đến bệnh viện và ra lệnh tha ngay cả Trần Dần và Tử Phác.

Hoàng Cầm rất phục Trần Dần. Thằng cha thần kinh rất vững. Hoàng Cầm cũng từng bị bắt giam. (Ông nghe Hoàng Hưng, định đưa tập thơ Về Kinh Bắc sang Pháp in). Ông nói: "Tôi nhát lắm, mọi tội tôi xin nhận hết" (Hết hạn tù, người ta cho ra, còn xin ở lại viết kiểm thảo. Tô Hoài cho tôi biết thế). Sợ nhất là trong tù cứ thấy tiếng phát ra đều đều không biết từ đâu: Khai thật đi! Khai thật đi! Khai thật rồi về với vợ con!

Chuyện nghe khá sợ. Một hình thức khủng bố về tâm lý. Chẳng biết Hoàng Cầm có thêm thắt gì vào sự thật không. Nhưng quả là đáng sợ. Hoàng Cầm cũng hay tưởng tượng thêu dệt thêm ra nữa".

Trong băng ghi âm Hoàng Cầm nói chuyện với bạn bè, ông kể rõ nhiều chi tiết hơn:

Việc này Trần Dần kể lại với tôi và Lê Đạt như sau: Khi ấy tao đang đi cải cách ruộng đất, tao và Tử Phác mỗi người ở một nhà. Một đêm ra ngoài Tết, vào khoảng 12 giờ khuya, tao đang ghi chép, thì thấy đèn pin lấp loá ngoài sân, rồi có tiếng quát: Trần Dần đâu? Có người sập cửa liếp, tao ra mở thì có người hỏi: Anh là Trần Dần phải không? Rồi đọc lệnh bắt, ký tên Ngô Minh Loan, cục trưởng Cục Quân Pháp. Họ bảo tao sắp hết đồ đạc vào ba lô, rồi ra sân. Ra sân thì họ bịt mắt rồi đẩy lên thùng xe, tao nghe tiếng vũ khí tuốt trần chạm nhau. Xe đi độ một lúc, thì qua cái cầu, tao đoán là cầu Yên Viên, sông Đuống. Đi lúc lâu nữa thì đến một con đường phẳng phiu, tao đoán là quốc lộ số 1, rồi qua một cái cầu rất dài, chắc là cầu Long Biên. Đi khoảng một tiếng nữa thì xe dừng, họ nhấc tao xuống, dẫn đi độ dăm phút thì bắt đầu đi xuống, chân chạm các bậc đá, khá cao, tao đếm đúng 37 bậc, vai vẫn đeo ba lô. Xuống đến nơi thì nghe họ mở xích sắt, rồi họ đẩy tao vào. Đến lúc họ tháo băng ra thì mình vẫn thấy tối mù, hai người lính đi lên, lại khoá xích lách cách. Tao nhìn tít lên cao thấy một khoảng sáng mờ độ bằng bàn tay, thỉnh thoảng có ánh đèn pin chiếu xuống, nhờ đó mà tao thấy cái hầm nhốt mình rộng độ hai mét vuông, có cái phản làm bằng hai tấm ván kê trên hai mễ gỗ, một bình nước và cái bô vệ sinh. Tao thấy mệt, nằm xuống ngũ đã. Tỉnh dậy trời đã sáng, qua cái lỗ bé tý trên đỉnh, vẫn thấy đèn pin thỉnh thoảng chiếu xuống. Tao nghĩ mãi không biết mình bị bắt vì tội gì, thằng nào bắt, mà nó giam kiểu này thì tội nặng lắm. Bấy giờ ở Phòng Văn Nghệ quân đội cũng nhiều đứa ghét mình, như loại Vũ Tú Nam, Vũ Cao... Thôi, cứ nghỉ một ngày cho thoải mái đã, tao nằm một lúc thì thấy trên lỗ ném xuống một gói, mở ra thấy hai nắm cơm, kèm gói muối. Tao thấy đói, ăn ngon lắm, lại nằm, lại nghĩ, cứ bình tĩnh, cố giữ tâm hồn thanh thản... Qua hai đêm sau, tao điểm tên những người có thể ra lệnh bắt, trong quân đội thì chỉ có thể là ông Nguyễn Chí Thanh, không thì ông Lê Quang Đạo, hay ông Lê Chưởng. Có thằng Văn Phác, là chính ủy trung đoàn lên làm trưởng Phòng Văn Nghệ nó cũng ghét tao lắm. Ngô Minh Loan chỉ là cục trưởng Quân Pháp thì ký lệnh thôi, chủ trương bắt đến từ người khác.

Chắc tại mình bướng làm bản kiến nghị 36 điều, tại thế chăng? Bây giờ phải làm sao thoát được chỗ này, phải lên được mặt đất, chứ nằm dưới hầm, mỗi ngày nó ném cho hai lần, hai nắm cơm, không ai hỏi han gì, không ai biết ở đâu, chắc vài tháng thì chết. Đây là âm phủ rồi. Phải làm sao lên được trần gian. Nghĩ ngợi tính toán, nằm thêm một đêm nữa, sáng hôm thứ ba tao nghĩ ra: nó bắt giam thế này là tội to, mà tội to thì còn phải hỏi cung, nó không thể để cho mình chết. Nó bảo cô Khuê vợ mình là gián điệp cài lại, thì chắc nó cho mình đã đi theo địch, hay ở trong tổ chức nào của địch gài lại chăng? Vậy nó phải để cho mình sống để moi móc tài liệu. Tao mới nghĩ cách lên mặt đất bằng giả chết, bắt buộc nó phải cho lên mặt đất, giữ mình sống để còn điều tra. May trong ba lô của tao còn hộp dao cạo, có hai mince lame, một còn mới, vậy tao phải đổ máu tại đây. Tao lấy trong ba lô cái chemise trắng mặc vào, nằm thẳng trên ván, kéo hết sức da cổ ra, cắt đứt, cho máu tứa ra cái áo chemise trắng, rồi tao đập chân đập tay vào ván, thế thì trên nó quét ngay đèn pin xuống, thấy máu trên nền chemise trắng, nó nghĩ ngay tên tù này định tự tử. Quả nhiên chỉ một phút sau là cửa xích sắt mở và 2, 3 thằng xuống khiêng tao lên. Tao giả vờ chết đến nơi, xỉu đi, thế là chúng nó đưa ngay vào bệnh viện cấp cứu, Viện 103, là một trong những quân y viện lớn nhất của quân đội, cách thị xã Hà Đông 3, 4 cây số.

Tên đại đội trưởng ra lệnh cho bác sĩ cấp cứu ngay: "Đây là một tên tội phạm tội to lắm, trên giao cho chúng tôi bảo vệ nó, mà để nó tự tử thì chúng tôi bị kỷ luật". Tao được ưu đãi lắm, trưa hôm ấy họ cho ăn cháo gà. Nghĩ lại mình quá may, nếu không có mince lame thì làm sao lên được mặt đất. Đến chiều thì người bác sĩ trực mới lân la hỏi chuyện: "Anh là Trần Dần chứ gì, tôi đã gặp anh ở Sơn La, anh không nhớ à?" Lại hỏi: "Sao anh xử sự thế này, ai bắt anh?" Tao chỉ trả lời vắn tắt: "Chuyện nó dài lắm, lúc khác anh em mình nói chuyện". Anh bác sĩ kể, lúc họ đưa anh vào đây, tôi có điện thoại cho anh Phạm Văn Đồng, tôi nói: "Thưa thủ tướng, tại sao anh Trần Dần đi chiến dịch Điên Biên, viết Người người lớp lớp mới đây, mà lại bị bắt, lại tự tử?" Tôi nghe đầu kia ông Đồng hét lên: "Cái gì? Làm sao? Ai bắt?" Rồi tôi nghe trong máy có giọng ông Nguyễn Chí Thanh, ông Thanh hơi gắt: "Sao thế nhỉ? Sao chuyện ấy tôi lại không biết? Thôi được rồi, anh cứ để tôi giải quyết ngay lập tức". Thế là ông Thanh điện thoại lại Quân Y Viện, căn dặn chúng tôi là tên tội phạm to thì phải chữa cho thật khỏe lên, sáng mai 9 giờ tôi sẽ xuống bệnh viện. Hôm sau ông Thanh xuống, mang theo một nải chuối và hai cân cam, ông nói với tao: "Anh Dần buồn cười nhỉ, tại sao lại phải tự tử? Anh là đảng viên, có gì thì phải viết thư cho tôi, phải ở trong tổ chức, nếu tôi không giải quyết được thì đề đạt lên Bộ Chính Trị, mà trên nữa còn Hồ Chủ Tịch". Tao trả lời: "Nếu tôi không tự tử thì làm sao gặp được anh hôm nay?" - "Thế anh giả vờ chứ gì?" - "Vâng, tôi giả vờ, nhưng nếu không làm thế thì tôi chết ở đâu anh cũng không biết". Ông Thanh dịu giọng: "Thôi nằm tĩnh dưỡng đi rồi còn về làm việc".

Thoại của Hoàng Cầm, theo ông, là do Trần Dần kể lại, chắc gần sự thực hơn cả nhưng không thấy ông nói đến việc Trần Dần viết thư cho tướng Nguyễn Chí Thanh. Vậy có thể hiểu: Khi tướng Nguyễn Chí Thanh xuống bệnh viện thăm, có thể chính ông Thanh đã căn dặn Trần Dần phải viết lá thư trần tình để ông dễ bề can thiệp.

Trong thời gian này bà Bùi Thị Ngọc Khuê bắt đầu ốm nghén người con đầu lòng của hai người, là Trần Thị Băng Kha. Nhà văn Hoàng Cầm trong bài viết về Trần Dần trên báo Nhân Văn số 1 có vài dòng nói về giai đoạn này: "Người yêu anh bỗng thấy anh không về nhà nữa. Nhưng trận ốm nghén đầu tiên đã quật chị xuống như một con bệnh nặng. Mặt choắt lại, người chỉ còn da với xương. Một mình ở một căn nhà bừa bộn với một con chó gầy còm, không cha mẹ, không anh em, không bạn bè, chỉ có bà hàng xóm bán guốc thỉnh thoảng chạy đi chạy lại nấu cho bát cháo. Tôi đến gặp chị mếu máo, trông già đi hàng chục tuổi. Chị hỏi: "Sao anh Dần không về với tôi nữa hở anh?"

Tôi giải thích: "Anh ấy bận công tác ít lâu thôi. Chị đang ốm, có cần gì, chúng tôi sẽ giúp chị."

Chị oà lên khóc: "Bộ đội có cho tôi lấy anh ấy không?"

Tôi lại khuyên nhủ: "Có chứ! Ai cấm đâu!"

Chị bỗng khóc to hơn: "Phải rồi, không ai cấm tôi và anh ấy lấy nhau. Bộ đội người ta không cấm nhưng anh Dần bỏ tôi rồi! Tôi bụng mang dạ chửa thế này, anh ấy bỏ tôi trốn rồi!"

Rồi chị gào lên: "Bạc như vôi ấy giời ơi! Anh ấy không muốn ăn ở với tôi nữa thì cứ bảo tôi biết, việc gì phải lấy cớ công tác này công tác nọ."

Tôi thấy chua chát lạ lùng, nhưng chỉ nói tránh đi:

"Anh ấy bận công tác thật đấy mà!"

Chị vẫn một mực: "Anh ấy nói dối! Cả anh nữa cũng nói dối. Thôi tôi chết đi! Tôi chết đi cho anh ấy đỡ bận! Mà đỡ phiền cả các anh…"

Một số bạn thân của Trần Dần phải cắt nhau đến canh ở đấy, giải thích an ủi, giúp đỡ một người con gái mới yêu lần đầu mà đã bị dao cắt ruột gan."


Cuộc chiến Nhất định thắng

Thơ Trần Dần giàu tính đa nghĩa. Chỉ riêng một bài Nhất định thắng, đã có thể vừa quy kết ông là một tên phản động cực kỳ nguy hiểm, vừa có thể ca ngợi ông như một người yêu nước nồng nàn. Bắt đầu từ câu chuyện khổ cực của một đôi vợ chồng trẻ giữa lòng Hà Nội lúc đó, nguyên mẫu chính là nhà thơ, Nhất định thắng dẫn dòng mạch tâm sự vào chuyện đời sống Hà Nội, lòng yêu nước bàng bạc quyện vào nỗi khổ nghèo túng, thảm cảnh di cư, nỗi đau chia cắt đất nước. Có nỗi buồn nhưng có ý chí vươn lên từ chính màu cờ đỏ, như hết mưa lại bừng lên dưới nắng.

Một giai đoạn lịch sử buồn đau của đất nước hiện ra mồn một trong mỗi câu thơ của ông. Khi Trần Dần viết bài thơ ấy, đất nước đang bị phân đôi, ở miền Bắc chiến tranh kết thúc. Nhưng, cuộc sống của người dân thì không có ấm no hạnh phúc.

Trần Dần viết:

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc

Đất hôm nay tầm tã mưa phùn

Bỗng nhói ngang lưng, máu rỏ xuống bùn

Lưng tôi có tên nào chém trộm?

Hình tượng “vết chém ngang lưng” ông viết ở đây là để nói về nỗi đau chia cắt tổ quốc có thể hiểu về cái không khí ngột ngạt của xã hội mới ở miền Bắc, cái không khí mà đến 30 năm sau, Hữu Loan vẫn nhớ: “Thành viên nào (trong cộng đồng) cũng chứa toàn âm mưu đen tối để chủ hại người bên cạnh”.

Theo Hiệp định Geneve, người dân có một thời gian dài để chọn cho mình miền Nam hay miền Bắc. Trong khi, hàng triệu người dân đã gồng gánh vào Nam để lại mồ mả ông bà trên đất Bắc. Thoạt đầu, có vẻ như Trần Dần trách móc, thậm chí ông đã buộc tội “những bạn đi Nam” là Thiếu quả tim bộ óc! Nhưng rồi quan sát kỹ hơn, ông buột hỏi:

Họ vẫn ra đi

Nhưng sao bước rã rời?

Sao họ khóc?

Họ có gì thất vọng?

Trong những ngày xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội ấy, tình hình Thế giới được “quán triệt” thành hai “phe” Xô- Mỹ. Nhưng cái “phe” mà ông quan tâm cũng “căng thẳng” vô cùng:

Gặp em trong mưa

Em đi tìm việc

Mỗi ngày đi lại cúi đầu về

- Anh ạ!

Họ vẫn bảo chờ...

Ông nghĩ: Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt.

Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt. Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù

Chúng còn đương bày kế hại đời ta?

Nhưng “cơm áo” không phải là những gì ngột ngạt nhất mà những người như ông đã từng nếm trải.

Tôi ở phố Sinh Từ Hai người Một gian nhà chật. Rất yêu nhau sao cuộc sống không vui? Tổ quốc hôm nay tuy gọi sống hòa bình Nhưng mới chỉ là trang thứ nhất Chúng ta còn muôn việc rối tinh... Chúng ta Ngày làm việc, đêm thì lo đẫy giấc Vợ con đau thì rối ruột thuốc men Khi mảng vui - khi chợt nhớ chợt quên Trăm cái bận hàng ngày nhay nhắt. Chúng ta vẫn làm ăn chiu chắt. Ta biết đâu bên Mỹ miếc tít mù Chúng còn đương bày kế hại đời ta?

Nhà thơ đau về nỗi đau chia cắt đất nước, nhưng rõ nhất là nỗi đau về cuộc di cư, một trong những nỗi đau đau đớn nhất mà cho đến nay lịch sử ít nói đến. Trong văn học miền Nam người ta có thể đọc thấy giai đoạn 1954 của Hà Nội trong văn Mai Thảo, Mặc Đỗ, Nguyễn Đình Toàn, Vũ Khắc Khoan…Sớm nhất Trần Dần đã dám viết về cái bi kịch này của dân tộc. những đoạn văn day dứt như thế này cho đến nay hầu như không có trong văn học miền Bắc:

Tôi đi giữa trời mưa đất Bắc Đất hôm nay tầm tã mưa phùn Bỗng nhói ngang lưng máu rỏ xuống bùn Lưng tôi có tên nào chém trộm? A! Cái lưỡi dao cùn! Không đứt được mà đau! Chúng định chém tôi làm hai mảnh Ôi cả nước! Nếu mà lưng tê lạnh Hãy nhìn xem: có phi vết dao? Không đứt được mà đau! Lưng Tổ Quốc hôm nay rớm máu

Tôi đã sống rã rời cân não Quãng thời gian nhưng nhức chuyện đi Nam Những cơn mưa rơi mãi tối sầm Họ lếch thếch ôm nhau đi từng mảng Tôi đã trở nên người ôm giận Tôi đem thân làm ụ cản đường đi

- Dừng lại!

- Đi đâu?

- Làm gì?

Họ kêu những thiếu tiền, thiếu gạo Thiếu cha, thiếu Chúa, thiếu vân vân Có cả anh nam chị nữ kêu buồn

- Ở đây

Khát gió, thèm mây...

Ô hay!

Trời của chúng ta gặp ngày mây rủ Nhưng trời ta sao bỏ nó mà đi? Sau đám mây kia Là cả miền Nam Sao nỡ tưởng non bồng của Mỹ! Tôi muốn khóc giữ từng em bé - Bỏ tôi ư? - Từng vạt áo - gót chân Tôi muốn kêu lên - những tiếng cộc cằn...

- Không! Hãy ở lại! Mảnh đất ta hôm nay dù tối Cũng còn hơn Non bồng Mỹ Triệu lần...Mảnh đất dễ mà quên? Hỡi bạn đi Nam Thiếu gì ư? Sao chẳng nói thật thà?

Chỉ là: - Thiếu quả tim bộ óc!

Những lời nói sắp thành nói cục Nhưng bỗng dưng tôi chỉ khóc mà thôi Tôi nức nở giữa trời mưa bão. Họ vẫn ra đi. - Nhưng sao bước rã rời? Sao họ khóc? Họ có gì thất vọng? Đất níu chân đi, Gió cản áo quay về Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống. Tưởng như đây là phút cuối cùng Trăng trối lại: - Mỗi lùm cây - Hốc đá - Mỗi căn vườn - gốc vả - cây sung Không nói được, chỉ còn nức nở Trắng con ngươi nhìn lại đất trời Nhìn cơn nắng lụi, nhìn hạt mưa sa Nhìn con đường cũ, nhìn ngôi sao mờ Ôi đất ấy - quên làm sao được? Quên sao nơi ấm lạnh ngọt bùi Hôm nay đây mưa gió dập vùi - Mưa đổ mãi lên người xa đất Bắc...

Ai dẫn họ đi? Ai? Dẫn đi đâu? - Mà họ khóc mãi thôi Trời vẫn quật muôn vàn tảng gió Bắc Nam ơi, đứt ruột chia đôi Tôi cúi xuống - Quỳ xin mưa bão Chớ đổ thêm lên đầu họ - Khổ nhiều rồ! Họ xấu số - chớ hành thêm họ nữa Vườn ruộng hoang sơ - cửa nhà vắng chủ Miền Nam muôn dặm, Non nước buồn thương Họ đã đi nhưng trút lại tâm hồn Ơi đất Bắc! Hãy giữ gìn cho họ!

Tôi ở phố Sinh Từ Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ

Nỗi đau riêng một gia đình thương khó gồm nhà thơ, người vợ mười chín tuổi không việc làm, con chó mực suýt bị tính giết đi.

Gặp em trong mưa Em đi tìm việc Mỗi ngày đi lại cúi đầu về - Anh ạ! họ vẫn bảo chờ...Tôi không gặng hỏi, nói gì ư? Trời mưa, trời mưa Ba tháng rồi Em đợi Sống bằng tương lai Ngày và đêm như lũ trẻ mồ côi Lũ lượt dắt nhau đi buồn bã...Em đi trong mưa cúi đầu nghiêng vai Người con gái mới mười chín tuổi

Em ơi. Em có biết đâu ta khổ thế này vì sao? Em biết đâu Mỹ miếc, Ngô nghê gì? Khổ thân em mưa nắng đi về lủi thủi Bóng chúng đè lên số phận từng người

Em cúi đầu đi mưa rơi Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Đất nước khó khăn này sao không thấm được vào Thơ? Những tủ kính tôi dừng chân dán mũi Các thứ hàng ế ẩm đợi người mua Nhưng mà sách - hình như khá chạy À quyển kia của bạn này - bạn ấy Quyển của tôi tư lự nét đăm đăm Nó đang mơ: - Nếu thêm cả miền Nam Số độc giả sẽ tăng dăm bảy triệu Tôi đã biến thành người định kiến Tôi ước ao tất cả mọi người ta Đòi thống nhất phải đòi từ việc nhỏ- Từ cái ăn cái ngủ chuyện riêng tư- Từ suy nghĩ nựng con và tán vợ. Trời mưa mãi lây rây đường phố Về Bắc Nam tôi chưa viết chút nào Tôi vẫn quyết Thơ phải khua bão gió Nhưng hôm nay tôi bỗng cúi đầu Thơ nó đi đâu? Sao những vần thơ Chúng không chuyển, không xoay trời đất? Sao chúng không chắp được cõi bờ? Non nước sụt sùi mưa Tôi muốn bỏ thơ làm việc khác Nhưng hôm nay tôi mê mải giữa trời mưa Chút tài mọn tôi làm thơ chính trị.

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.

Em ơi! - Ta ở phố Sinh Từ Em đương có chuyện gì vui hử? À cái tin trên báo - Ừ em ạ Hôm nay bọn Mỹ miếc, lũ Ngô nghê Chúng đang phải dậm chân đấm ngực! Vượt qua đầu chúng nó, mọi thứ hàng Những tấn gạo vẫn vượt đi Những tấn thư, tài liệu Vẫn xéo qua đầu chúng, giới ranh gì? Ý muốn dân ta là lực sĩ khổng lồ Đè cổ chúng mà xóa nhòa giới tuyến Dân ta muốn trời kia cũng chuyển Nhưng Trời mưa to lụt cả gian nhà: Em tất tả che mưa cản gió Con chó mực nghe mưa là rú Tiếng nó lâu nay như khản em à Thương nó nhỉ - Nó gầy - Lông xấu quá Nó thiếu ăn - Hay là giết đi ư? Nó đỡ khổ - Cả em đỡ khổ. Em thương nó - Ừ thôi chuyện đó Nhưng hôm nay em mới nghĩ ra Anh đã biến thành người định kiến Mực ơi! đừng oán chủ Mực à!...

Những ngày ấy bao nhiêu thương xót

Tôi bước đi không thấy phố không thấy nhà

Chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ.

…Hôm nay Cả nước chỉ có một lời hô THỐNG NHẤT Chúng ta tin khẩu hiệu ta đòi - Giả miền Nam! Tôi ngửa mặt lên trời Kêu một tiếng - Bỗng máu trời rơi xuống Vài ba tia máu đỏ rớt vào tôi Dân ta ơi! Những tiếng ta hô Có sức đâm trời chảy máu. Không địch nào cưỡng nổi ý ta Chúng ta đi - Như quả đất khổng lồ Hiền hậu lắm - Nhưng mà đi quả quyết...Hôm nay Những vần thơ tôi viết Đã giống lưỡi lê: Đâm Giống viên đạn: Xé Giống bão mưa: Gào Giống tình yêu: Thắm

Tôi thường tin ở cuộc đấu tranh đây Cả nước đã bầu tôi toàn phiếu Tôi là người vô địch của lòng tin Sao bỗng đêm nay, tôi cúi mặt trước đèn? Gian nhà vắng chuột đêm nó rúc. Biết bao nhiêu lo lắng hiện hình ra. Hừ! Chúng đã biến thành tảng đá chặn đường ta! Em ơi thế ra Người tin tưởng nhất như anh vẫn có phút giây ngờ vực Ai có lý? Và ai có lực? Ai người tin? Ai kẻ ngã lòng tin? Em ơi Cuộc đấu tranh đây cả nước Cả hoàn cầu Cả mỗi người đêm ngủ vẫn lo âu Có lẫn máu, có xót thương lao lực Anh gạch xóa trang thơ hằn nét mực Bỗng mặt anh nhìn thấy! lạ lùng thay! Tảng đá chặn đường này! Muôn triệu con người Muôn triệu bàn tay Bật cả máu ẩy đá lăn xuống vực! Anh đã nghĩ: Không có đường nào khác Đem ngã lòng ra mà thống nhất Bắc Nam ư? Không không! Đem sức gân ra! Em ơi em! Cái này đỏ lắm, gọi là TIM Anh dành cho cuộc đấu tranh giành THỐNG NHẤT

Bão giông qua đi hy vọng lại nhen lên

Hôm nay Trời đã thôi mưa thôi gió

Nắng lên đỏ phố đỏ nhà

Đỏ mọi buồng tim lá phổi

Em ơi đếm thử bao nhiêu ngày mưa! Bây giờ Em khuân đồ đạc ra phơi Em nhé đừng quên Em khuân tất cả tim gan chúng mình phơi nắng hết. Em nhìn cao tít trời xanh Dưới phố bao nhiêu cờ đỏ Hôm nay em đã có việc làm Lương ít - sống còn khó khăn! Cũng là may...Chính phủ muôn lo nghìn lắng Thực có tài đuổi bão xua mưa không thì còn khổ! Em treo cờ đỏ đầu nhà Lá cờ trừ ma Xua được bóng đen chúng nó...Đúng rồi!

Cờ bay đỏ phố đỏ nhà

Màu cờ kia là thang thuốc chữa cho anh.

Em có thấy bay trên trời xanh

Hàng triệu tâm hồn?

Em ơi Hôm nay trời xanh xanh đục

Nắng lên đỏ phố đỏ cờ...

Ta ở phố Sinh Từ Em này Hôm nay đóng cửa Cả nhà ra phố mít tinh Chúng ta đi nỗi bão biểu tình Vung cờ đỏ hát hò vỡ phổi Hỡi những người thành phố, thôn quê Đói no lành rách Người đang vui Người sống đang buồn Tất cả! Ra đường! Đi! hàng đoàn hàng đoàn Đòi lấy tương lai: HÒA BÌNH THỐNG NHẤT ĐỘC LẬP DÂN CHỦ Đó là tim là máu đời mình Là cơm áo! Là ái tình

Nhất định thắng!

1955

Nhà giáo Lương Duy Cán, một người là sinh viên khóa 1 Sư phạm văn khoa Hà Nội có kỷ niệm với bài Nhất định thắng như sau:

Tháng 7/1954, đang là học sinh lớp Đệ Tam ở Trường Trung học Chuyên khoa Khải Định, cũng đang chuẩn bị vào Huế tựu trường (tôi đã được đề nghị cấp học bổng), tôi bỗng quyết định: ở lại Quảng Bình, nghĩa là ở lại phần đất sắp trở thành Miền Bắc.

Với tâm hồn của chàng trai 17 đầy lãng mạn, tôi thấy mình đã có một sự lựa chọn đẹp. Cuộc kháng chiến là một cái gì thật tuyệt vời, những con người trở về từ cuộc Kháng chiến như là tượng trưng cho cái đẹp.

Thế rồi, tôi phải đi dự những buổi đấu tố, những lần chứng kiến “những tên địa chủ gian ác” đổ gục ngay trước mắt mình. Một cái gì đó đang bắt đầu vỡ ra.

May mà ngay từ đầu năm 1955, tôi đã ra Hà Nội. Tôi tiếp tục việc học hành. Rồi đến đầu năm 1956, tôi đang học lớp Đệ Nhất, chuẩn bị dự kỳ thi Tú tài cuối cùng của Miền Bắc. Tôi đã đỗ Tú tài Toán, nhưng sau đó lại vào Đại học ở một cái khoa trớ trêu, bắt đầu mọi khốn khổ cực nhọc cho đời mình: Khoa Văn!

Còn nhớ cái buổi học chiều đầu tiên sau Tết năm 1956 ấy. Thầy Trương Tửu bước vào lớp với dáng vẻ khá xúc động. Ngày ấy, thầy Tửu là thần tượng của tất cả chúng tôi. Riêng với tôi, ở gần nhà (nhà thầy số 53, tôi ở số 10 phố Hàng Gà) nên càng cảm thấy vinh dự.

Thầy kể cho cả lớp biết một sự việc quan trọng: hôm qua thầy vừa dự một cuộc họp để trao đổi về một hiện tượng văn học bất ngờ. Đó là một tập sách có tên là: Giai phẩm Mùa Xuân. Đây là một tập hợp gồm truyện, tiểu luận, phê bình, thơ, tranh… được phát hành bởi một nhà xuất bản tư nhân có tên là Minh Đức, mà chủ nhân tên là Trần Thiếu Bảo. Sau này thì các báo gọi ông này là Trần Thiếu … bảo đảm. Người viết toàn lã những tên tuổi “ghê gớm” những ngày này: Phan Khôi, Nguyễn Mạnh Tường, Lê Đạt, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Phùng Quán, Nguyễn Sáng, Sỹ Ngọc, Đặng Đình Hưng…

Hóa ra trong cái buổi gọi là phê bình văn học nghệ thuật hôm ấy, người ta đã đánh tới tấp cả tập sách Giai phẩm Mùa Xuân, quyết liệt cứ như đánh một tập đoàn những quân phản động! Hầu như ai cũng phải lên tiếng, tìm cho ra chỗ để kết tội. Phải kết tội được kẻ xấu mới chứng tỏ được mình là người tốt chứ! Không thể đánh mất ý thức cách mạng, tinh thần cảnh giác cách mạng!

Tuy nhiên, cái đinh trong buổi kết tội này chính là một bài thơ của Trần Dần: “Nhất định thắng”!

Đến nay, ngồi đọc lại, tôi cũng không hiểu vì sao bài thơ này đã bị quăng quật đến như vậy. Bài thơ tuy có những ý buồn, những câu buồn, nhưng vẫn khẳng định niềm tin lạc quan vào tương lai kia mà! Tên của bài thơ còn là “Nhất định thắng” kia mà!

Bài thơ có những đoạn tâm sự tuy buồn nhưng rất đáng yêu:

Có những câu, những đoạn, những ý thơ cũng đầy lạc quan, nếu không nói là rất hào hùng.

Tuy nhiên, phần lớn những câu thơ, những ý thơ trong bài này lại dành cho những điều buồn, những chuyện buồn. Cũng phải thôi. Cuộc sống đang trải qua, vừa trải qua, những chuyện buồn, mà là buồn ghê gớm. Cuộc Cải cách Ruộng đất vừa nhận ra cả một đống sai lầm, mà là sai lầm ở tầm cỡ ghê gớm! Rồi một trận vỡ đê Mai Lâm! Rồi cả thiếu đói! Chỉ kẻ vô tâm, cứng lòng, mới không nhận ra, mới có thể vui, dù là vui gượng!

Trong cái buồn chung, lại còn cả cái buồn riêng. Làm sao mà không buồn! Làm sao mà bắt mình “lạc quan cách mạng” được?!

Cái hình ảnh cô gái trẻ Hà Nội đi trong cơn mưa “cúi đầu nghiêng vai” đúng là buồn, buồn đến nao lòng! Lại cũng là một hình ảnh mang sức mạnh nghệ thuật rất cao, cứ đọc là phải nhớ.

Phải nói rằng nếu gọi “Nhất định thắng” là một bài thơ thì quả là một bài thơ lạ lùng xưa nay chưa từng có. Bài thơ gồm đến 9 đoạn, được đánh số rõ ràng, mà đoạn nào cũng tương đương với một bài thơ dài.

Đúng hơn, đây là một bài xã luận, một bài chính luận bằng thơ. Thì chính Trần Dần đã nói trắng ra rồi mà: “Chút tài mọn tôi làm thơ chính trị”

Nói thật, tôi khá bị bất ngờ khi thấy tên tác giả bài thơ. Trần Dần là tác giả văn xuôi chuyên nghiệp cơ mà. Ông là tác giả cuốn “Người người lớp lớp” đang chiếm vị trí trang trọng trên các quầy sách kia mà!

Ai ngờ Trần Dần làm thơ, mà thơ ông điêu luyện đến thế, cao tay đến thế! Thì chính cái điêu luyện ấy, cái cao tay ấy đang làm khổ ông đấy.

Chết ai thì chưa biết, nhưng tác giả của nó thì chắc là phải chết. Sau này, có những người, dù chưa hề đọc bài thơ của Trần Dần, nhưng thuộc cả đoạn thơ đó để rồi viện dãn nó ra theo ý đồ này hay ý đồ khác.”

Xung quang những sai lầm của việc đánh giá Nhất định thắng người viết bài này thấy có mấy diểm như sau:

Những người phê phán bài thơ luôn xuất phát từ thành kiến quá khứ coi tư tưởng tự do là phản động. Phê bình duy danh định nghĩa cắt bỏ toàn bộ văn bản bài thơ, chỉ lấy hai câu để bình luận. Quy chụp theo suy đoán của phía kẻ thù. Định kiến kéo dài nhiều thế hệ, trong đó có sự a dua a tòng, sự mù quáng, rập khuôn. Từ một câu thơ duy cảm trở thành một bản án chính trị, vu vơ mà sắt đá, mà vùi dập chết người. Màu cờ đỏ trong Nhất định thắng là một biểu tượng hiện thực vì nó còn có cả hệ thống bài, còn có biểu tượng Nắng lên đỏ phố, đỏ cờ…Nếu khắt khe hơn đó là biểu tượng nghiêm nhặt đối với hiện thực Hà Nội lúc đó nhưng quyết không phải là biểu tượng bôi đen, phản động. Bởi vì với những năm của thế kỷ 21 khi Hà Nội bị lạm dụng cờ biểu ngữ màu đỏ ngoài đường phố, nhiều hôm người tôi cũng có cảm giác giống Trần Dần.

Hoài Thanh đánh.

Ngày mùng 7 tháng 3 năm 1956: báo Văn Nghệ số 110 có đăng bài Vạch trần tính chất phản động trong bài thơ "Nhất định thắng" của Trần Dần do Hoài Thanh viết. “…Trần Dần đã viết nên những câu thơ hằn học xuyên tạc và bôi nhọ cái thực tế đẹp đẽ của miền Bắc chúng ta. Anh Văn Giáo đã đứng lên vạch cái chân tướng ấy của thơ Trần Dần” Bài Thơ Nhất Định Thắng của Trần Dần là kết quả sự sa ngã của người viết vào những cặn bã mà đế quốc đã để lại ở đây. Với bài thơ ấy, Trần Dần đã đi vào cá nhân chủ nghĩa, nghệ thuật vị nghệ thuật do đó đã hóa ra thảm hại khiếp nhược. Cái nhìn của Trần Dần là cái nhìn kém lập trường phản nhân dân của kẻ địch”.

Lời nói của Văn Giáo đầy nhiệt tình và căm giận. Và đó cũng là ý nghĩ nỗi lòng chung của anh chị em có mặt trong buổi họp. Cùng một nhận định ấy, phát triển trong nhiều khía cạnh khác nhau. Tú Mỡ, Nguyễn Tuân, Trần Cư, Trúc Đường, Lương Ngọc Trác, chị Thanh Hương, chị Ngọc Khanh, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Xuân Huy, đều phát biểu ý kiến của mình. Một người ngồi xuống là hàng chục cánh tay khác đã giơ lên xin nói. Càng đi sâu vào những chứng minh cụ thể càng thấy rõ những sai lầm nghiêm trọng và tư tưởng phản động của bài thơ Trần Dần…”

Toàn bài của Trần Dần toát ra một sự hằn học sâu sắc đối với chế độ tươi sáng ở miền Bắc, đối với sự nghiệp đấu tranh cho hòa bình, thống nhất của nhân dân ta. Tôi không kết luận về người. Tôi chỉ căn cứ vào bài văn. Tự nó, bài “Nhất định thắng” trong lời và chữ của nó, chứa đựng những tư tưởng phản động, đứng về phía địch chống lại nhân dân ta, chống lại cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.

Trong nền văn nghệ chúng ta đầy tin tưởng ở hiện tại và tương lai của chế độ, của dân tộc, bài “Nhất định thắng” của Trần Dần thật đúng như lời đồng chí Nguyễn Tuân nói, là một thứ mụn lở trên một cơ thể lành mạnh.

Nhưng chúng ta vốn đã biết trong cuộc đấu tranh quyết liệt của chúng ta, những phản ứng như vậy của tư tưởng địch là chuyện tất nhiên. Nó tuyệt đối không thể cưỡng lại sức mạnh của chính nghĩa, của nhân dân đang tiến mau như thác cuốn.

Gió lật chiều Nhận lỗi

Sau Lớp học 18 ngày do Nguyễn Hữu Đang tổ chức, bước đầu khuynh hướng cấp tiến thắng thế trong một bộ phận lãnh đạo và văn nghệ sỹ. Hoài Thanh đã phải viết bài Tôi đã sai lầm như thế nào trong việc phê bình bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần. Bài viết này được đăng trên báo Văn Nghệ ngày 20.9.1956.

“ Tôi đã không làm như thế. Thường vụ Hội Văn nghệ tổ chức cuộc họp để phê bình bài “Nhất định thắng”. Kể muốn tập trung vào một bài mà phê bình cũng được. Nhưng ý thức của tôi trong khi tham gia điều khiển cuộc họp ấy là muốn cô lập anh Trần Dần và tranh thủ những người khác có bài trong Giai phẩm. Cái lối cô lập và tranh thủ ấy dựa trên ý định lấy nhiều người đàn áp một người là một điều trái với nguyên tắc đấu tranh tư tưởng.

Hôm ấy lại không có mặt anh Trần Dần hình như lúc bấy giờ anh còn ở nông thôn nhưng chúng tôi không hề nghĩ đến việc cần phải tìm anh về và mời anh phát biểu. Cuộc phê bình rõ ràng là không bình đẳng.

Nhất là chúng tôi trong chủ tịch đoàn lại không hề uốn nắn nhiều lời phê bình quá đáng. Nên trước sau hội nghị chỉ phát biểu một chiều.

Vẫn sự lầm lẫn nghiêm trọng ấy trong bài phê bình của tôi đăng trên báo Văn nghệ. Trong bài này tôi đã nói: tính chất phản động của bài “Nhất định thắng” bài “Nhất định thắng” chứa đựng những tư tưởng phản động v.v… Tôi đã dùng hai chữ phản động không cân nhắc. Nhưng thực ra không phải chỉ là vấn đề dùng chữ. Toàn bài phê bình của tôi đều cùng một tinh thần ấy. Tôi nói tôi không kết luận về người chẳng qua chỉ có nghĩa là tôi không nói anh Trần Dần là ở trong một tổ chức của địch. Kết luận thế nào được? Có chứng cớ gì đâu mà kết luận? Nhưng trong ý nghĩ của tôi thì đúng là địch rồi dầu chưa có thể kết luận là ở trong một tổ chức địch. Tôi nhặt từng câu từng chữ để chứng minh rằng tác giả đã cố ý nói xấu chế độ ta cố ý vu khống miền Bắc. Nay tôi bình tĩnh đọc lại bài “Nhất định thắng” thì thấy tuy có câu không được rõ nghĩa nhưng không có gì để kết luận như thế. Không có chứng cớ mà kết luận như vậy thực là coi rẻ một cách quá đáng sinh mệnh chính trị của một người. Do đâu mà tôi đã kết luận như vậy?

Phải trở lại hoàn cảnh đầu năm nay. Lúc bấy giờ là lúc mới bước vào Cải cách ruộng đất đợt 5 chúng ta bắt đầu đánh vào dinh lũy cuối cùng của đế quốc phong kiến ở miền Bắc. Trước nguy cơ bị tiêu diệt địch phá hoại điên cuồng. Nhưng có khi chúng ta đã đánh giá địch quá cao tưởng chừng như chỗ nào cũng có địch. Riêng trong địa hạt văn nghệ những tin tức về vụ Hồ Phong bên Trung Quốc cũng vừa truyền sang. Trong trí tôi nẩy ra ý nghĩ: Trung Quốc có Hồ Phong biết đâu chúng ta lại không có một Hồ Phong. Rồi một số dư luận về những quan hệ gia đình và xã hội của anh Trần Dần trong quá khứ và trong hiện tại tuy không có căn cứ gì nhưng cũng đã ảnh hưởng đến tôi. Hơn nữa cái không khí phẫn nộ chung đối với bài “Nhất định thắng” và một số bài khác của anh Trần Dần như bài “Anh Cò Lấm” đăng trên báo Tổ quốc nhất là việc có người đọc Giai phẩm tức quá xé ngay làm cho tôi càng thêm yên trí.

Sự yên trí ấy làm sai lạc cả nhận xét của tôi. Lúc đầu đọc bài “Nhất định thắng” tôi chỉ có cảm giác đây là một tâm trạng âm u điên loạn không chịu được ánh sáng của chế độ ta nhưng chẳng mấy chốc tôi đã chuyển sang nghĩ đây là một sự cố tình vu khống.

Làm cái việc phê bình mà mang sẵn thành kiến trong mình lại dựa dẫm vào ý kiến chung quanh không thực sự cầu thị không bình tĩnh suy xét thì thật là nguy hiểm nhất là khi đứng trong cương vị lãnh đạo thì lại càng nguy hiểm.

Bài phê bình của tôi đăng báo hồi tháng 3 đến tháng 4 Đảng phê bình chúng tôi tôi bắt đầu thấy sai nhưng vẫn xem rất nhẹ cái sai của mình. Sau đó chúng ta học tập nghị quyết của Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ 20 một luồng gió mới thổi rất mạnh vào trong Đảng và trong nhân dân. Liền đó là lớp học lý luận văn nghệ do Hội tổ chức; dưới ánh sáng của những nguyên tắc cơ bản về văn nghệ anh em văn nghệ phê bình việc này rất sôi nổi. Lúc bấy giờ tôi mới đo được cái sai lầm của tôi. Nhưng đi theo với những lời phê bình rất chính đáng cũng có nhiều những lời đả kích những lời bịa đặt. Tôi nổi tự ái lên tôi không tự phê bình. Rồi những công việc sự vụ hàng ngày lôi cuốn tôi đi. Tôi cứ thế buông xuôi. Mãi đến hôm Quốc khánh vừa rồi ở Quảng trường Ba Đình trước hàng chục vạn đồng bào Hồ Chủ tịch sau khi nhắc lại những thắng lợi của ta nói rõ ràng cái điều trước đó đã đăng báo nhưng hôm ấy tôi nghe như rất đột ngột là ta cũng đã phạm những sai lầm lớn tôi cảm thấy sâu sắc cái vĩ đại của chế độ của Đảng đang vươn mình lên trên mọi sĩ diện tự ái động cơ cá nhân nhỏ nhặt để sửa chữa khuyết điểm khắc phục khó khăn đưa nhân dân đến những thắng lợi mới. Tôi thấy tôi không thể nào không đấu tranh quyết liệt với mình để góp phần vào sự nghiệp chung của Đảng.

Nhưng nghĩ lại đấu tranh với sai lầm của người sao mà tôi vội vàng thế đến khi đấu tranh với sai lầm của mình lại chậm chạp thế? Và cả hai thái độ trên đây đều đã gây rất nhiều tai hại.

Trước hết tôi đã làm cho nhiều người nhất là những bạn đọc ở xa không hiểu rõ đầu đuôi cũng nhận định sai lầm như tôi. Thật là một điều oan ức đối với anh Trần Dần. Không có một chứng cớ gì rõ rệt mà đã bị buộc tội trên mặt báo trước hàng vạn người! Một đồng chí Trung ương Đảng nói: “Gắn một chữ phản động vào tên người ta như vậy là một điều đến mấy đời sau này con cháu người ta còn lấy làm khổ”. Tôi rất thấm thía về điều này.

Sự lầm lẫn bạn thù trong việc phê bình còn gây một không khí e ngại không có lợi. Có người đã phải nói: “Làm văn nghệ khó thật”. Người sáng tác cũng như người biểu diễn có có được cái tư thế của những con người hoàn toàn giải phóng thì công trình sáng tác biểu diễn mới có điều kiện thực sự thành công.

Một điều tai hại hơn nữa là những sai lầm của tôi cùng với những sai lầm khác có thể làm cho một số người hiểu lầm về bản chất của văn nghệ ta là nền văn nghệ hoàn toàn tự do thực sự tự do đầu tiên trong lịch sử văn nghệ Việt Nam.

Những sai lầm của tôi trong cuộc phê bình bài “Nhất định thắng” đối với tôi là một bài học lớn.”

Những người viết bài đánh Trần Dần

So với những yếu nhân của Nhân Văn Giai Phẩm Trần Dần được coi là đối tượng cốt cán bị rất nhiều bài đấu tố. Trong đó nhiều người vốn là bạn thân của ông.

Huy Vân viết:

Nhiều người ở Nam Ðịnh đều biết Trần Dần là con một nhà địa chủ và tư sản đã dựa vào thế lực thực dân để bóc lột nhân dân lao động. Sống trong một gia đình "ngồi mát ăn bát vàng" như vậy, Trần Dần đã sớm đi vào con đường truỵ lạc, bê tha. Khoảng từ năm 1943, Trần Dần đã là học trò của một bọn văn sĩ tơ-rốt-kít.

Cách mạng tháng Tám thành công, trong lúc số lớn thanh niên ta đều đem trái tim và tuổi trẻ của mình cùng với cha, anh đón chào thắng lợi của cách mạng, thì "trái tim, khối óc" của Trần Dần vẫn ngập trong khói thuốc phiện. Ở Hà Nội cuối năm 1946, cả dân tộc sắp đi vào kháng chiến toàn quốc, thì Trần Dần cùng với Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Ðịch đã lập ra nhóm "thi sĩ tượng trưng" viết báo Dạ Ðài để cho ra cái tuyên ngôn ngày 16-11-1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ“. Rồi giữa đêm 19 tháng Chạp, trong lúc bộ đội và nhân dân thủ đô xông vào khói lửa chiến đấu để bảo vệ tổ quốc, thì Trần Dần và những kẻ cùng nhóm vẫn còn chạy chọt để hòng cho ra số 2 của báo Dạ Ðài sặc mùi thuốc phiện! Những việc kể trên đây có thể tóm tắt phần nào cái thái độ lạc lõng xa lạ của Trần Dần đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc của toàn dân ta. Trần Dần cũng đi vào kháng chiến, nhưng vẫn không chịu từ bỏ những quan điểm nghệ thuật sa đoạ của hắn. Trong "Nhóm văn nghệ Sơn La”, hắn đã vẽ toàn lối tối tăm khó hiểu, biến hình ảnh anh dũng và đẹp đẽ của bộ đội ta thành những hình thù rất quái gở, làm thơ cũng vậy. Ở Sơn La, cái lối sống và quan niệm sáng tác đã đưa Trần Dần đến nhiều sai lầm, bị thi hành kỷ luật.

Mặc dù tư tưởng của Trần Dần có nhiều bê bết của cái cũ, Ðảng và quân đội ta vẫn hết lòng giáo dục, cải tạo. Chính vì muốn cải tạo Trần Dần có kết quả hơn, mà sau các kỳ chỉnh huấn, tổ chức của ta đã giúp cho hắn đi vào thực tế chiến đấu của bộ đội, tạo điều kiện cho hắn viết được cuốn Người người lớp lớp với ít nhiều tiến bộ về nội dung, song nghệ thuật vẫn còn non kém. Với cuốn sách đó, đáng lẽ Trần Dần phải tự thấy mình còn phải cố gắng nữa, nhưng trái lại, hắn đã vội dương dương tự đắc, lấy đó làm cái vốn để yêu sách Ðảng và quân đội.
Hữu Mai, một người bạn cùng quê và rất thân Trần Dần trong quân đội viết:

Trần Dần đã phản bội lại quyền lợi của nhân dân không phải vì ngẫu nhiên.
Bản thân gia đình Dần, cái nôi chăm ẵm Dần từ khi lọt lòng, là một cuộc chống đối nhau kịch liệt để tranh giành quyền lợi giữa những kẻ cùng sống trên mồ hôi nước mắt của người khác; quan hệ vợ chồng, cha con, anh em nhiều khi rất tàn nhẫn. Mẹ Dần, người Dần yêu quý nhất, hồi đầu chiến tranh sau mấy tháng tản cư, quay về thành phố thấy mấy chục ngôi nhà bị bom đạn tàn phá, đã tiếc của phát điên mà chết. Cùng với những tư tưởng ăn trên ngồi trốc hưởng lạc đồi trụy, Dần còn mang thêm trong dòng máu một sự hằn thù giai cấp. Trước cách mạng, cái xã hội do đế quốc thống trị đã bước vào thời kỳ phát-xít, chỉ cho phép Dần phá phách và mưu đồ danh vọng bằng cách làm thơ lập dị (thực tế chỉ là học mót tư tưởng nghệ thuật quẫn loạn mới nhập cảng của giai cấp tư sản phương Tây), và trốn vào sinh hoạt sa đoạ nhầy nhụa, để thoả mãn mọi dục vọng điên cuồng của mình.

Dần đã mang tất cả những cái đó đi vào cách mạng. Với những điều kiện thực tế tham gia kháng chiến của Dần, chất thù địch trong người Dần mới chỉ co lại

Về Hà Nội, con người cũ của Dần hồi sinh mau chóng. Vì bị dồn ép một thời gian khá dài, nó bật tung ra. Gặp khi cách mạng vấp khó khăn, các tư tưởng phản động của bọn Hồ Phong, trốt-kít, của bọn “xét lại” quốc tế, bọn gián điệp đế quốc, bọn tư sản phản động, cũng đang quẫy, Dần hút những cái đó vào mình như nam châm hút sắt. Dần đã phá phách hung hãn. Được ngụy trang bởi cái áo khoác “10 năm kháng chiến”, đeo thêm cái chiêu bài bịp bợm “chống công thức tìm cái mới”, Dần càng có điều kiện tác hại.

Vì vậy, không phải ngẫu nhiên, trong một thời gian khá dài, Trần Dần đã chạy theo bọn thù địch điên cuồng chống phá lại chúng ta.Từ 2 tháng 11 đến giữa tháng 2 năm 1956, được phân công đi tham quan cải cách ruộng đất đợt 5 tại Bắc Ninh. Trong thời gian này ở Hà Nội, Hoàng Cầm cho đăng bài thơ "Nhất định thắng" trong Giai Phẩm Mùa Xuân. Tờ tạp chí bị tịch thu. Nội dung bài có mô tả những trăn trở về những người di cư vào Nam theo quân Pháp năm 1954: Trần Dần đã phản bội lại quyền lợi của nhân dân không phải vì ngẫu nhiên.

Đỗ Nhuận một người bạn trong quân đội đã cùng Trần Dân ký tên vào Bản kiến nghị đồi thay đổi đường lối lãnh đạo văn nghệ trong quân đội cũng viết:

Xuất thân từ một gia đình địa chủ kiêm tư sản có nhiều ruộng muối, có nhiều nhà cho thuê ở Nam Định và cho thuê xe tay, bản thân lại đi thầu khoán, Trần Dần đã ăn chơi trụy lạc từ hồi còn ít tuổi. Trần Dần đọc nhiều sách Tây trụy lạc, và đã nhiễm phải những tư tưởng phản động của sách báo tư sản phản động Pháp từ hồi đó. Năm 1946 sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Dần cùng bạn bè lập ra nhóm “thi sĩ tượng trưng” và tờ báo Dạ đài. Nhóm này chuyên hút thuốc phiện, chơi gái và làm thơ trụy lạc, bế tắc điên cuồng, giữa không khí cách mạng sôi nổi, lại có một tờ báo lạc điệu như vậy, có người đã phải gọi tờ báo này là tờ Dạ đái, ra được một số rồi chết. Toàn quốc kháng chiến, Trần Dần về Nam Định làm công tác thông tin. Nhờ hoàn cảnh kháng chiến và nhờ sự dìu dắt của Đảng, năm 1948 Trần Dần vào bộ đội Sơn La, làm cán bộ tuyên truyền mặt trận Sơn La, nộp đơn xin vào Đảng và được Đảng kết nạp. Do hoàn cảnh kháng chiến, không có điều kiện ăn chơi, nhưng với cái đuôi nghệ thuật tư sản cũ vẫn thòi ra trong thời kỳ ở nhóm văn nghệ “Sông Đà” ví dụ: làm thơ bí hiểm, vẽ tranh theo lối góc cạnh rất bị quần chúng phản đối. Năm 1951, sau khi dự một lớp chỉnh huấn có kết quả, Trần Dần được điều về ban phụ trách đoàn văn công quân đội, có địa vị, sinh ra độc đoán, đả kích cán bộ sáng tác, chụp mũ diễn viên, định yêu một chị nữ diễn viên Trần Dần nói bịp là: “tôi rất trong sạch về chuyện ái tình”. Bị thi hành kỷ luật, Trần Dần về cục tuyên huấn viết báo và trong chiến dịch Điện Biên Phủ viết được quyển truyện Người người lớp lớp. Khi hòa bình lập lại, Trần Dần hiện nguyên hình là con người trụy lạc phản động

Ngoài ra còn Từ Bích Hoàng một người bạn bạn trong Phòng Văn nghệ quân đội với bài Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số cầm đầu trong nhóm phá hoại Nhân Văn Giai Phẩm. Nhà thơ Huyền Kiêu có bài Con người Trần Dần- một thủ đoạn chính trị bất lương của nhóm “Nhân văn”

Ý chí sắt đá vì chân lý

Nhà văn phải phục tùng sự thực hay phục tùng chính sách, chỉ thị, phục tùng tuyên huấn? Trần Dần trả lời:

"... Sự thực lớn gấp triệu triệu lần bất cứ chỉ thị, lý luận nào... Nếu như sự thực ngược lại chính sách chỉ thị, thì phải viết sự thực chứ không phải là bóp gò sự thực vào chính sách. Không bao giờ được biến chính sách, chỉ thị thành định kiến "đinh ninh"... (...)

"... Người viết chỉ viết do thôi thúc của thực tế. Những chân lý lớn, nhỏ, anh ta tự giác thấy ở cuộc sống, ở quân đội. Không phải viết để vừa lòng Tuyên huấn, vừa lòng cấp trên. Để có cái danh phục vụ kịp thời. Một triệu lần, không có mùi mè giác ngộ, phục vụ gì cả! Cái áo không thể che được mùi thối trong ruột. Cách mạng không cần những người vỗ tay hoan hô nhắm mắt. Những anh hót ca chính sách. Thậm chí những anh "thày cúng chính sách", leng keng bóp méo, nghèo nàn... (...)

"... Liệu cứ viết như một anh thày cúng ê a căm thù yêu nước xông lên, có phải là trách nhiệm không?"

Tập Trần Dần ghi 1954-1960 là một trong những tư liệu do nhà xuất bản Văn Nghệ tại California in năm 2001.

Sự ghi ấy đến với chúng ta như thế nào, sau nửa thế kỷ? Nó cho biết một phần sự thật về thế giới đã bị chôn vùi, dĩ nhiên là dưới con mắt chủ quan của người ghi. Một sự chủ quan đầy ý nghĩa vì đây là những hàng nhật ký chứ không phải hồi ký. Đây là những ghi chép hàng ngày, tại chỗ, còn nóng hổi, chỉ để giúp trí nhớ của riêng mình, không có hậu ý cho người khác đọc. Mà dù có muốn người khác đọc, thì cũng không chắc có một ngày người ta sẽ đọc. Bị xếp trong hòm, nó còn mang tính cách trăn trối, trăn trối với mình, trăn trối với người, trăn trối với nghệ thuật. Vì không cốt yếu viết cho "người khác" đọc, cho nên nó không cần phải "làm đẹp" lên hoặc "làm xấu" đi, không phải giả đò tự phê phán mình để tỏ niềm trung thực, như một số hồi ký viết về thời kỳ này, cốt viết và in cho người khác đọc.

Trần Dần ghi:

Hoà Bình rồi, người ta mới có thể biết trong chiến tranh người ta đã mất mát và thu hoạch được những gì. [...] Tôi nói rằng chúng ta mất nhiều hơn. Tại vì tôi nghĩ tới chiến tranh và tội ác của nó. Và tại vì tôi so sánh những cái thu hoạch 9 năm chiến tranh vừa qua với những cái thu hoạch lớn hơn gấp bội nếu 9 năm qua là 9 năm kiến thiết Hoà Bình. [...] Vì thế tôi muốn viết nhiều, muốn viết những cái tôi chưa dám viết. Và tôi muốn viết không có kiểm duyệt. [...]

Tôi vừa viết xong cuốn "Người người lớp lớp". Viết về chiến tranh ở Điện Biên Phủ đấy. Nhưng mà tôi đã chán rồi. Tại vì rằng tôi ít thấy sự thực của chiến tranh trong đó quá. Và vì rằng tôi thấy ít sự thực của bản thân trong đó quá. Chưa phải là chiến tranh và chưa phải là tôi. Cho nên tôi viết tới hơn 300 trang mà không thích bằng một bài thơ tôi cũng mới làm về chiến tranh: "Anh đã thấy" (mes douleurs) trên dưới có 6 trang! Vài trang thơ này tôi còn thấy chiến tranh nhiều hơn, và thấy tôi nhiều hơn 300 trang "Người người lớp lớp".

[...] Tôi muốn tả những người chiến sĩ. Người rất già người rất trẻ. Người bần cố và người con địa chủ. Người con tư sản và người công nhân. Người học sinh và người không biết chữ. Người đã làm sư và người đi ăn cướp. Người đi buôn và người đã bị buôn. Người đã lừa lọc và người đã bị lừa lọc. [...] Người anh hùng và người dút dát. Người lấy súng bắn địch và người lại lấy súng tự thương. [...] Người thuần, người ngổ ngáo. Người chỉ biết phục tùng, người hay cãi bướng. Và đa số là ngại học tập, ngại nghe đả thông. Ngại nghe cán bộ nói nhiều. Ngại bị "nắm tư tưởng". Nắm, nắm con cặc.

[...]

Tôi nghe người ta nói đừng viết cuộc sống telle qu'elle est (chú thích: cuộc sống như nó đang diễn ra) mà phải viết la vie telle qu'elle doit être! (cuộc sống như nó phải được diễn ra) - Tôi lại hiểu rằng: viết cuộc sống telle qu'elle est tức là viết cuộc sống telle qu'elle doit être.- Tôi hiểu rằng không có gì đẹp hơn, không có gì cao cả hơn, không có gì cộng sản hơn là: Sự Thực không tô điểm, Sự Thực trần truồng. Và cũng không có gì xấu hơn, không có gì yếu ớt hơn, phi cộng sản hơn là Sự Thực tô điểm, Sự Thực mặc áo hồng, áo xanh, áo hoa. Tôi nói rằng, dù áo hoa đó thích hợp, dù sự tô điểm đó là tô theo phương hướng thực của cuộc sống thực, thì cái áo đó và sự tô điểm đó vẫn cứ là không đáng tán thành. Cuộc sống cởi truồng, nó có ý nghĩa như những sự tô điểm và những bộ áo đẹp và lý tưởng nhất. Màu da của cuộc đời toute nue, đó là tất cả các bộ áo của trần gian rồi[...]

Chính vì vậy tôi muốn viết chiến tranh telle qu'elle est. 10 cây số máu. Xương phơi đầy đường. Người đáng sống thì chết. Kẻ đáng chết thì sống mãi. Tôi tưởng rằng, nếu mà nói giáo dục, thì không gì giáo dục hơn là sự thực ở trần. Chiến tranh cởi truồng là có thể giáo dục Chiến tranh, lại giáo dục cả Hòa Bình [...]

Cho nên tôi rất muốn viết về chiến tranh. Viết thật trần truồng. Không gì lớn hơn Sự Thực. Vì vậy cho nên không bao giờ tôi viết được Sự Thực[...] Nhưng mà cũng không bao giờ tôi lại không muốn tả cho đúng Sự Thực." (trích những dòng ghi từ 16/9 đến 1/10/54, trang 43-48).

Lời ghi trên đây là một tuyên ngôn trần trụi về mục đích của văn học, về nhân cách của nhà văn. Suốt cuộc đời, Trần Dần đã tôn trọng nó: ông đã ghi lại cuộc sống của mình, của những người xung quanh, bằng trái tim, một trái tim dù bị dìm dẫm, bằm vặp, nhầu nát nhưng vẫn giữ tròn nhiệm vụ lọc máu để nuôi sống con người.

Bi kịch nội tâm hay con người mềm yếu

Trong hai lớp học kiêm đấu tố ở Thái Hà, trước áp lực của cái nồi áp suất tập thể rất kinh khủng nhóm chủ chốt Nhân Văn đã đầu hàng. Mặc dù sau này các ông nói là giả hàng nhưng chết nỗi sự giả hàng lại rất thành khẩn, tội lỗi được nhận lớn hơn cái nó vốn có. Vừa hài kịch vừa bi kịch! Trần Dần là một điển hình cho sự phân thân đó.

Trong nhật ký Trần Dần ghi ông ghi lại rằng sau khi đi học chỉnh huấn chính trị, ông đã nhận ra việc Nhân Văn - Giai Phẩm lợi dụng văn nghệ để hoạt động chống đối chính trị, và tỏ ra hối hận khi tham gia phong trào này:

Nhân văn Giai phẩm thế là đã đứng về phe tư bản chủ nghĩa, phản đối xã hội chủ nghĩa; hơn thế, lớp học trình bày sự thực, làm cho tất thẩy đều thấy rõ chân tướng bọn cầm đầu Nhân Văn - Giai Phẩm, đó là một công ty phá hoại bao gồm những kẻ phản cách mạng, đứa là phần tử Quốc Dân Đảng cũ (Phan Khôi), đứa là mật thám (cho Pháp) trước đây, đứa là tên bất mãn chống Đảng có lịch sử, đi đến chủ nghĩa trotskisme (Nguyễn Hữu Đang)... chúng ngoặc với bọn trotkistes Trương Tửu, Trần Đức Thảo, và với bọn gián điệp vẫn liên lạc với mật thám Pháp Sainteny, là Thụy An

Sớm mai toà xử Thụy An gián điệp và Nguyễn Hữu Đang phá hoại... Tôi đã từng có đứng với nhóm do Đang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" (Nhân văn Giai phẩm) đó... Đang đã thấy cái sai lớn của Đang chưa? (...) Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ơi!

Về những sôi động ở Thái Hà ấp, ngày 16/4/1958, Trần Dần ghi:

"Hiện nay Nguyễn Hữu Ðang, Thụy An, Minh Ðức đã bị bắt, chẳng bao lâu sẽ ra tòa. Báo chí vẫn tiếp tục diệt đánh Nhân Văn Bộ 6 Giai Phẩm Mùa Xuân [Hoàng Cầm, Văn Cao, Lê Ðạt, Trần Dần, Sỹ Ngọc, Tử Phác]. Bộ 6 đã buông nhau ra. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm cũng ô-rơ-voa nhau hết [...] Sỹ Ngọc đóng cửa, miễn tiếp khách. Bản thân tôi, do chỗ đã tự giác đình bản tư tưởng thù địch (thứ tự giác kết quả của áp lực...) nên mọi mặt khác, tôi cũng đình bản cả giao du, đình bản cả việc viết lách. Có nên đi gặp những đồng chí lãnh đạo để hỏi những việc cần phải làm không? Ði thì lại sợ bị hiểu lầm. Nhưng nếu ngồi nhà, tiêu cực đợi, có khi còn bị hiểu lầm gấp bội. [...]

Bọn Ðang - Minh Ðức - Thụy An thân thì bị cầm tù, tội ác thì đem bêu đầu trên báo chí. Vai trò của bọn chúng trong các vụ phá hoại 3 năm đang được vạch trần. Phan Khôi thì đóng cửa, nằm khàn, không đọc báo. Trương Tửu, Trần Ðức Thảo làm gì? Còn cả loại B chúng tôi hiện ra sao? Làm gì? Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Ðạt đang tiếp tục kiểm thảo ở cơ quan, cùng với những Quang Dũng, Trần Lê Văn, v.v...

Chúng tôi đi sâu vào kiểm điểm sáng tác hơn nữa. Kiểm điểm sáng tác cho sâu mới thật là khó sao! Cứ như phải rứt bỏ một mảng thịt của mình. [...] Tôi chịu cái hình phạt ấy, nhẫn nại và đau khổ. Hình phạt của một người bị bung dừ [...] Tôi vừa là một tội nhân, vừa phải cố tách mình ra, làm một đao phủ thủ, hành hạ cái chủ nghĩa xét lại có thực trong tôi và đám Nhân Văn." (trang 244, 245- 260)

Phải nhận tội, phải cắt bỏ những suy nghĩ ưu tú của mình, phải tự chửi rủa mình, phải tìm gặp lãnh đạo, phải tố cáo bạn bè để xin một chút ơn huệ thừa, nhưng rồi cũng không ai thoát được guồng máy, không ai tránh khỏi bị ninh rừ.

Con người Nhất định thắng ấy, sau trận đánh Thái Hà, đã thua, đã hàng, đã nhận tội, đã ly khai những lý tưởng ngày trước, đã phải đứng về phía bên này, để nhìn "bọn" bên kia: gồm những "tên thủ lĩnh chủ nghiã xét lại" Nguyễn Hữu Đang, "tên phá hoại" Minh Đức, "con mụ gián điệp" Thụy An... đã xuống đến nấc thang cuối cùng của sự "giẻ rách hoá" con người.

10/12/ 59, Trần Dần ghi:

Người có một cái gì văng vắng. Tôi đã có đứng với nhóm Ðang cầm đầu. Tôi đã ly khai với "lý tưởng" đó. Cả khi đứng ở đó, cả khi ly khai, cả bây giờ, tôi vẫn cứ rớm máu. Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ "Đúng" mới nhiều máu làm sao? Tương lai có để dành cho tôi nhát dao nào nữa không? Đang đã nhìn thấy cái sai lớn của Đang chưa?[...].

Ngoài trời mưa bụi. Rét xoàng. Không có gió. Ðôi lúc vài tiếng chuông xe đạp. Năm nay rét muộn. Ðang ra tòa cuối năm. Tôi cũng không thể nào nhởn nhơ với sự kiện này. Chao ôi! Con đường để đi tới chỗ "Ðúng" mới nhiều máu làm sao!" (Trần Dần ghi, trang 376) GHI. Trg 240, 241.

Trích:

“Tôi là cái gì?

Trước Cách Mạng, tôi là một thứ hổn lốn phản động của những tư tưởng tư sản, địa chủ: hưởng lạc đến đồi trụy, hám danh to đến bệnh “vĩ đại cuồng”, vô chính phủ đến phá phách mọi trật tự, thoát ly đến rơi vào sinh hoạt sa đọa, và đi vào các trường phái nghệ thuật vị nghệ thuật, tượng trưng, lập thể, siêu thực và vào triết học ru ngủ tối phản động của Bergson.

Trong Kháng Chiến, con người phản động đó bị trấn áp, hoàn cảnh chiến tranh và chân lý vô sản đè cổ nó xuống, nhưng việc nạo rửa mới chỉ được một phần nào.

Trở về hòa bình, nhân cơ hội cách mạng gặp khó khăn khắp thế giới và trong nước, lại gặp hoàn cảnh một thành phố “Mỹ hóa” như Hà Nội, tức thì con người phản động cũ của tôi nó lộn lại. Nó không hiện nguyên hình như cũ, mà khoác áo mới, những “chống công thức”, “đi tìm cái mới”, thực chất đó chỉ là cái vỏ che đậy cho cái ruột thối của chủ nghĩa xét lại và tư tưởng trotskiste. Con người phản cách mạng như thế phát triển với tốc độ “tử vì đạo”, nó phá phách khi hung hãn, khi tinh vi mọi cản trở, tức là mọi nguyên tắc và lý luận cách mạng, nó húc đầu bướng bỉnh và tàn nhẫn vào quy luật phát triển khách quan của lịch sử. Nó đấu tranh ở bộ đội, ra Giai Phẩm Mùa Xuân, làm thơ phá hoại, đứng cùng hàng ngũ bọn NVGP, bắn lại cách mạng, bắn lại Ðảng, trong khi Ðảng vẫn dang lớn hai cánh tay kêu gọi nó lộn về, ngực Ðảng hở, vô tình, bị viên đạn nhẫn tâm nó bắn đến bị thương.

Không thể đếm hết được những viên đạn ròng rã trong ba năm qua tôi đã bắn vào Ðảng, khi thẳng mặt, khi bắn sau lưng, lợi dụng tình thương của Ðảng mà phản bội. Cứ thế, đối Ðảng, đối nhân dân, đối bạn bè, đối gia đình, đối văn học, tôi đã gây biết bao tình tội, mà suốt một đời còn lại, làm việc và ăn năn hết lòng, cũng khó mà xóa đi cho hết.”

Thụy Khuê:

Từ lâu "ghi trở nên một hình phạt". Nhưng vẫn ghi. Cuốn sổ 1958 ghi lại con đường của những người muốn ngoi lên để đi đến chỗ "Đúng". Ai cũng muốn tìm một đường "máu" để thoát thân: biết đâu Đảng chả đoái thương mà nghĩ lại? Phương tiện nào cũng tốt kể cả "khai". Cả "tố". Bao nhiêu khuôn mặt đã bước trên con đường "nhiều máu "ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã vo ve sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu tên tuổi đã đạt được sự "Đúng" ấy? Trần Dần ghi. Bao nhiêu khuôn mặt đã "Sai." Trần Dần ghi. Cả đúng lẫn sai đều lầm than, đều dần dần đi tới chỗ tha hóa. Họ tan tác cả. Họ chia tay. Có những oán hận, căm thù. Thành công lớn nhất của guồng máy là đã đánh vào những yếu tố thiêng liêng nhất của con người, đánh vào tình bạn, tình người, đánh tan tác hết.

Những người "Nhân Văn" không chết, nhưng họ bị rút máu, rút gân, rút dần sinh lực. Họ đều rời rã, đều muốn đầu hàng. Nhiều người đã đầu hàng, trong đó có Trần Dần. Họ muốn được lãnh đạo thương xót, họ muốn được lãnh đạo đoái thương. Họ đã xuống đến đáy vực thẳm, họ chịu hết nổi. Họ sẵn sàng "chút lòng trinh bạch từ nay xin chừa" nhưng người ta vẫn lạnh lùng quay đi. Người ta vẫn không cho ngoi lên. Cái phận người nhỏ nhoi. Cái phận người Nhân Văn phải đi vào sa lầy, phải lún xuống, phải chịu nhận cái thời không nhân văn của dân tộc mình. Câm và điếc. Như đã chết. Và điều đó chỉ có mỹ học khổ đau của Trần Dần mới viết nên được.

Một sự kiện đáng ghi nhớ về 30-4-1975

Tôi được đọc một bức thư của Trần Dần gửi một lãnh đạo sau ngày 30- 4- 1975 trong hồ sơ.

Đây là một đoạn:

Rồi đám cháy tắt. Đất nước dập tắt cái đám cháy ngoại xâm ấy. Mỹ cút...Tôi hy vọng...vấn đề cuộc đời tôi lại đặt ra, ít nhất cũng với tôi, vợ con, gia đình, ở ngưỡng cửa của Đất nước chiến thắng...

Tôi vẫn hy vọng. tôi còn ít nhiều năm tháng. Còn một phần đời. Một phần đời, một ngày cũng đáng sống. Dù một buổi chiều. Nhất là trong khi ngày ấy, buổi chiều ấy, phần đời ấy dù là bé bỏng nhưng nằm ở ngưỡng cửa Khải hoàn môn...

Tôi hy vọng. Tôi còn một phần đời. Để sống nó. Để làm việc. Con cái. Sự gây dựng. Sự chuộc lại...Tôi xin sự giúp đỡ. Sự rộng lượng. Ở các anh. Ở tổ chức.

Cũng như Trần Dần những văn nghệ sỹ bị án về Nhân Văn Giai Phẩm đều có hy vọng như vậy. Văn Cao đã viết bản nhạc Mùa xuân đầu tiên

Tiếc rằng lãnh đạo đất nước và những người đứng đầu nền văn hóa, văn nghệ đã im lặng. Không có ai lên tiếng. Mùa xuân đầu tiên cất tiếng ở Thành phố Hồ Chí Minh rồi im bặt. Thêm mười năm, vào lúc con người còn đang sung sức có thể làm việc tốt hơn... Nếu như cánh cửa mở ra sớm hơn, nguyện vọng của các ông được thực hiện sớm hơn...


Cuộc chiến tiếp tục với con chữ, với Khát vọng Dạ đài

Tuyên ngôn ngày 16 tháng 11 năm 1946 với những câu: "Chúng tôi, một đoàn vong gia thất thổ, đã đầu thai nhằm lúc sao mờ..." Đến ngày ngày 19 tháng 12 năm 1946, ông cùng nhóm Dạ đài ra số báo Dạ Đài 2.

Thi phái Dạ Đài khát khao đổi mới thơ Việt cũng xuất phát từ quan niệm về sự cạn kiệt, bất lực của các thi sĩ lãng mạn đã được khai mở từ hơn mười năm trước: “Vả lại, làm sao người ta cứ lặn lội mãi trong mối thất tình eo hẹp? Làm sao người ta cứ khóc mãi, than mãi, rung động mãi theo những con đường rung động cũ? Làm sao người ta cứ nhìn mãi vũ trụ ở ba chiều, và thu hẹp tâm tư ở bảy dây tình cảm! Chúng ta còn có nghèo nàn thế nữa đâu?”

Cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ năm 1946 đã làm gián cách quan niệm thơ Dạ Đài. Khát vọng của Dạ đài rụi tắt trong không gian văn học lớn nhưng nó không tắt trong con người Trần Dần. Trong Nhân Văn Giai Phẩm một số người lụi tắt hẳn nhưng một số thì vẫn tồn tại được với nền văn học. Họ đã chiến thắng số mệnh trong cuộc chiến âm thầm tại cái giường của mình, trong vuông nhà chật hẹp của mình.

Nhà thơ Dương Tường gọi Trần Dần là một “ca đặc biệt” trong văn học Việt Nam. Ông cũng cho rằng, tác giả của Đi! Đây Việt Bắc!, Cổng tỉnh chính là nhà cách tân số một của văn học hiện đại nước nhà.

Nhà thơ Nguyễn Duy cũng nhận định tại buổi tọa đàm Thơ Trần Dần tối 1/3 ở L’espace, Hà Nội: “Nếu đời viết của đa số người cầm bút là công cuộc tìm tòi, gom nhặt, sàng lọc chữ nghĩa, thì Trần Dần là người chế tạo chữ nghĩa mới”.

joạc jờ jêrô… vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹojoạc jờ nào?
sao cứ thun thút những sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
tôi biết jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc người đi.
hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp một con nữ vận động viên ướt jượt toàn thân
chạy joạch vòng mưa jòng jòng
1 – 9 – 6 – 3 min mét nữ.
jờ jạchx nở jòn jọtx
chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx.
Tôi gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx.

Dương Tường: “Ở Việt Nam, nếu có một người xứng đáng được nhận giải Nobel thì người đó là Trần Dần.

“Trần Dần là một người khổng lồ, không dưới 30 tập thơ, ba tiểu thuyết, không kể những bản thảo bị mối mọt hay thất lạc … Còn phải nhiều năm nữa người ta mới đánh giá được kho tàng văn học do Trần Dần để lại”.

Dương Tường từng khẳng định Trần Dần là nhà cách tân thơ số một của Việt Nam. Ông giải thich:

“Suốt một thời gian dài, thơ Việt Nam nằm trong quỹ đạo của Thơ Mới. Người đầu tiên tạo nên một vết cắt, đưa thơ Việt Nam ra khỏi quỹ đạo đó là nhà thơ Nguyễn Ðình Thi. Nhưng Nguyễn Ðình Thi không đi hết con đường của mình. Còn Trần Dần, từ những ảnh hưởng của Maiakovski, ông chuyển sang viết Jờ Joạcx, Mùa sạch… với những cuộc tìm kiếm không ngừng đến cái mới. Thơ Trần Dần đầy chuyển động, không bao giờ lặp lại chính mình, nhưng vẫn giữ nguyên cái cốt cách Trần Dần”.

Trần Dần từng kêu gọi “Phải chôn Thơ Mới” ….” phải viết khác đi, phải cách tân, phải quên những thành tựu của tiền chiến để sáng tạo nên những thành tựu mới, phải cướp được độc giả của tiền chiến”…

“Tệ” hơn, ông còn đòi “chôn” cả Nguyễn Du:

“Với tôi, Du (Nguyễn Du), Hương (Hồ Xuân Hương), Khiêm (Nguyễn Bỉnh Khiêm), Quát (Cao Bá Quát) hay Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương là thầy. Nhưng học trò phải “chôn” thầy. Thơ nay hầu như vẫn đặt nghĩa. Tôi đặt thơ là chữ. Con chữ nó làm nghĩa. “Mai sau dù có bao giờ” là con chữ “Chữ tài liền với chữ tai một vần” là đặt nghĩa”.

Bởi vì, ông tuyên bố:

“Tôi đã leo nhiều ngõ cụt cổ điển” (Sổ bụi 1979).

Ông đòi hỏi nhà văn phải là:

“Kẻ viết đạp đổ chân trời? Xổng xích các chân mây?” (Sổ bụi – 1985).

Trong quyển Một Trần Dần ghi 1954-1960, có những dòng sau:

- Người Sáng tạo là đại biểu cho Tương lai. Nên hắn mâu thuẫn rất mạnh với Hiện tại.

- Người Sáng tạo chỉ làm chủ được ở Tương lai. Còn ở Hiện tại, hắn phải chịu như là thua, nhường cho những kẻ tầm thường khác làm chủ.

- Nếu có chịu được búa rìu của thành kiến mới có thể làm người sáng tạo được. Phải có dạ lim trí sắt.

- Phải có gan đứng lên trên dư luận, chửi mắng, mưa bão. Phải biết đạp mưa xéo gió. Phải phá vỡ cái luân-lý-hiện-hành, những nguyên tắc tục lệ hiện nay đang làm chủ. Ðó là bỏ cái ba lô của hiện tại, mới có thể xốc tới tương lai.

- Số phận người sáng tạo bao giờ cũng phải chịu hiểu lầm, chịu những sấm sét của cái cũ nó phản công. Vì người sáng tạo là kẻ thù không đợi trời chung của cái cũ. Mà cái cũ nó không chịu chết ngay, nó nhiều kế độc, hại ngầm và hại ra mặt.

Ðiều kiện tiên quyết để sáng tạo: Tự do”

Nhà văn Phạm Thị Hoài viết:

“Trong văn học Việt Nam, tôi chưa biết một trường hợp nào mà ham muốn sáng tạo và cách tân quyết liệt như ở Trần Dần. Nghĩa là ham muốn vượt qua, hoặc ít nhất là khác đi với cái cũ, hoặc cái đã trở thành cũ, ở bên ngoài mình đã đành, lại còn liên tục tự mới với chính mình, tự vượt qua mình, mà lại làm điều ấy trong từng chi tiết, cho đến tận nét chữ chẳng hạn. Từ 1958 đến nay Trần Dần làm cái việc mà ông gọi là “làm quốc ngữ”, trong bóng tối, cách bức với những phong trào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” cứ thỉnh thoảng lại ồn ào dấy lên bên ngoài. Công trình quốc ngữ của một cá nhân lẻ loi lặng lẽ như Trần Dần hoàn toàn khác. Con chữ nào qua tay ông là mang một cuộc đời mới.

“Tôi thuộc lớp trẻ, nợ ở ông một lòng ưu ái, mang theo lời đúc kết rất Trần Dần: nhân cách của nhà văn chính là văn cách của anh ta. Tối thiểu tôi phải có một văn cách.”

Nguyễn Quang Lập viết:

Về phần tôi, tôi sẽ không bao giờ ngừng nhớ đến những câu thơ của Trần Dần. Cái tựa, “Sổ bụi”, chẳng hạn, làm sao có thể quên nổi? Ước gì tôi có thể dùng nó để chỉ công việc của mình hôm nay! Ước gì tôi «ăn cắp» được của Trần Dần mấy chữ này thôi! Điều đó nói lên sự quyến luyến của tôi, kể từ nay, với ông.

Sáng hôm sau, tôi đến khách sạn phòng 4 Khu A, Khách sạn 2 - Lê Lợi Huế hầu chuyện ông. Thấy ông ngồi một mình trên giường, tôi hỏi sao không đi chơi đâu đó với anh Quán. Ông nói: Phùng Quán ngồi không yên, chỉ thích đi. Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ “bụi”, sổ “ngao du”. Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra, có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình.

Ông vẫn thầm lặng sáng tác, từ năm 1954 đến 1989 vẫn đều đặn viết nhật ký, những số đầu tiên có tựa là Ghi vặt, từ năm 1973 thành Sổ thơ và từ năm 1979 thành Sổ bụị. Nhận xét về giai đoạn này, ông có nói: Mình ngồi ba chục năm quen rồi. Ngồi mà vẫn đi, vẫn ngao du. Mình có cuốn sổ "bụi", sổ "ngao du". Mình đi chơi lang thang trong cuốn sổ này. Đây là sổ để ghi tất cả những gì mới nghĩ ra. Có khi ngoài cả ý thức. Đó là cách đi của mình.

Ông vẫn kiên trì công cuộc cách tân thơ của mình. Ở Sổ bụi 1988 khi nói về Thơ mini ông có viết: tôi thích viết cái chưa biết, mặc các ông viết cái đã biết. 90 có hoàn thành không? có thành công không để mà đốt đi? Tôi đã đốt tôi đi không phải chỉ đôi lần… cái chưa biết- cái khó - thậm chí cái bất khả thu hút và đắm đuối tôi.[9] Sổ bụi cuối cùng viết năm 1989, trước khi những năm cuối cuộc đời bệnh tật đã cướp đi của ông trí nhớ và sự minh mẫn (Di chứng của những lần xuất huyết não, lần đầu tiên ông bị là vào năm 1983)

Đặc biệt, Trần Dần tin rằng đến một ngày tác phẩm của mình được xuất bản trở lại. Sau khi ông mất, trong di cảo của ông, các con ông đã tìm thấy một tập bản thảo có ghi "Trần Dần tự xuất bản", hay tập thơ "Bao giờ em đi lấy chồng" mà ông đã tự trình bày và minh họa sẵn cách đấy 35 năm.”

Đôi khi trong cõi viễn du mù mịt Trần Dần bỗng phát sáng một mệnh đề thơ bất tuyệt, một chân lý:

Tôi khóc những chân trời không có người bay

Lại khóc những người bay không có chân trời


Mưa rơi không cần phiên dịch


tôi khóc những chân trời_bụi đỏ

ở đó: vắng người

không có người biết khóc – các chân mây


Họ cứ vu oan mặt trời ngủ


Kẻ viết đạp đổ chân trời? Xổng xích các chân mây?

Một tập bản thảo

Những ngày đầu đầu đổi mới tôi được giao chuẩn bị báo cáo về tình hình số văn nghệ sĩ trong vụ Nhân Văn Giai phẩm để đề xuất với Trung ương việc giải quyết chế độ chính sách cho các ông.


Tôi hay lại nhà Trần Dần vì số 7 Vũ Lợi rất gần cơ quan tôi.

Tôi hay ngồi với Trần Dần, có lúc im lặng rất lâu, ngắm cuốn sách Phân tâm học bằng tiếng Pháp của Kar Jung cũng im lặng nằm trên tay ông. Một ông già nhỏ bé gương mặt nhàu nát vì dấu vết của quá nhiều biến cố đau đớn đi qua. Giọng nói ông cũng đã yếu ớt, thều thào chậm rãi. Chỉ có cặp lông mày và đôi mắt là còn nguyên vẻ quắc thước, nhất là đôi mắt, đôi mắt sáng và sâu.


Thế rồi cái gì phải đến cũng đến. Hội Nhà văn làm quyết định khôi phục hội tịch cho các ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Hoàng Tích Linh, Lê Đạt, Phùng Quán. Thực ra không phải là khôi phục hội tịch. Cả năm ông chỉ bị khai trừ có thời hạn người thì 1 năm, người 2 năm, người 3 năm kèm theo là treo bút trong thời gian đó. Rồi kỷ luật đã hết nhưng không ai đứng ra đề nghị cho các ông trở lại sinh hoạt bình thường. Cứ lãng quên như vậy và các ông tưởng như bị lãng quên...

Đến nay trong số 9 người này, các ông Trần Dần, ông Lê Đạt, vợ chồng ông Phùng Quán, ông Hoàng Tích Linh, ông Nguyễn Khải, ông Xuân Thiều và đại tá Quốc Minh đã mất. Ông Hoàng Cầm cũng mất. Tôi đã gác kiếm nghỉ hưu đi chơi với anh em.


Dạo ấy, trong các tập hồ sơ nhàu cũ từ những năm 60, 70 tôi thấy mấy cuốn sổ tay khổ nhỏ chép tay các tập thơ mới của Trần Dần. Đây là các tập Tờ vụn, Jờ joạcx, Sổ bụi... mãi đến năm 2008 mới ra mắt bạn đọc trong tuyển tập Trần Dần Thơ. Các cán bộ thuộc cấp của tôi gần như không hiểu các bài thơ đó là thế nào. Tôi cho rằng Trần Dần rất sòng phẳng, tự ông nộp các tập bản thảo chép lại này cho cơ quan quản lí để người ta biết ông đang làm gì. Ông không dấu diếm công việc sáng tác của mình, kể cả cái việc thể nghiệm thơ có vẻ như là quái gở.


Ở một cặp khác dày cộp là bản thảo bản dịch tiểu thuyết Những người chân đất của Stancu nhà văn Rumani, bản thảo tiểu thuyết thơ Cổng Tỉnh, tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn.


Tôi bỏ ra vài ngày ngồi đọc. Những người chân đất thì đã được xuất bản với tên người dịch khác. Cổng Tỉnh không có vấn đề gì. Những ngã tư, những cột đèn thì quá tốt.

Một anh ngụy binh sau khi quân Pháp rút chạy khỏi Hà Nội, không đi theo chúng mà ở lại thành phố làm lại cuộc đời mình. Anh tìm mọi cách vượt qua các định kiến xã hội hăng hái tham gia công tác bảo vệ trị an khu phố. May mắn có một người cảnh sát khu vực nhân hậu giúp đỡ anh. Anh đã tìm thấy hạnh phúc cho mình, cho cái tổ ấm của anh. Ở chỗ ngã tư, anh đã nhìn thấy những cột đèn.

Tìm hiểu, tôi được biết năm 1963 ông Trần Dần đã đến Bộ công an đề nghị tạo điều kiện cho ông được đi tìm hiểu thực tế sáng tác, phục vụ cho thành phố một công việc có ích. Thế là ông được bố trí tìm hiểu công tác cải tạo những người lính Việt trong quân đội Pháp đang sống tại các khu phố trong thành phố Hà Nội. Người cảnh sát khu vực đã giúp đỡ ông tận tình sau trở thành nguyên mẫu của nhân vật trong tiểu thuyết chính là ông Hoành sau làm Phó Giám đốc Công an Hà Nội. Năm sau, 1964 ông hoàn thành tiểu thuyết Những ngã tư, những cột đèn. Điều quan trọng là cuốn tiểu thuyết đã được viết với bút pháp hiện đại đang thịnh hành ở châu Âu. Cũng như nhiều nhân vật khác của Nhân Văn Giai Phẩm ông thường chép bản thảo ra làm nhiều bản. Khi thì tự chép, khi thì bắt con cái chép. Trần Dần nói có nộp bản thảo cho Công an Hà Nội. Có thể ông cũng nộp cho đơn vị tôi trên Bộ một bản. Hoặc công an Hà Nội đã chuyển tập bản thảo này lên đơn vị tôi.


Tôi đề xuất với cấp trên trả lại bản thảo cho ông Dần. Tôi thấy Những ngã tư, những cột đèn có nội dung về công tác bảo vệ trật tự an ninh của ngành công an nên gợi ý ông Dần để tôi gặp các nhà xuất bản xem có xuất bản được không.

Rất tiếc là ở vào thời điểm đó Những ngã tư, những cột đèn lại chưa thích hợp, những tập bản thảo như thế lại chưa được coi là thứ kỷ vật quý giá. Các ông Lữ Huy Nguyên, Lê Tri Kỷ, Vũ Tú Nam Giám đốc các nhà xuất bản Văn học, Công an, Hội Nhà văn không thể nhận lời. Một phần chưa có tiền lệ cho các cuốn sách như thế. Mãi đến 1991 trường ca Bài thơ Việt Bắc của ông mới được in ở Nhà xuất bản Tác phẩm mới. Đấy là cuốn sách đầu tiên được in lại của ông. Tôi buồn rầu đem tập bản thảo trả lại Trần Dần, nói với ông hãy đợi một thời gian. Sau vài tháng ông khoe với tôi cuốn Tạp chí của Hội Văn học Nghệ thuật Hà Sơn Bình đã mạnh dạn in 2 chương Những ngã tư, những cột đèn. Sau một hời gian sửa chữa Những ngã tư những cột đèn cũng đã ra đời, gây hiệu ứng bất ngờ. Người ta không ngờ Lại có một Trần Dần mới mẻ thế, kỳ lạ thế trong nền văn xuôi đương đại. Nó đã được tái bản nhiều lần. Bản gần đây nhất cả bìa, minh họa, được trình bày theo phong cách Trần Dần.

Một bạn đọc viết:

Với cuốn tiểu thuyết Những ngã tư và những cột đèn, cuốn tiểu thuyết lần đầu ra mắt sau 44 năm nó được hoàn thành ở dạng bản thảo, người ta lại biết thêm một tác phẩm của quá khứ làm xạm mặt hiện tại: những gì là cách tân theo lối phương Tây như tự sự đa điểm nhìn, trùng phức thời gian – không gian, xóa bỏ thời tính, hình thức tiểu thuyết – nhật kí, tiểu thuyết – trinh thám, dòng ý thức,… thường được dùng như lời khen tặng với các nhà văn ham tìm tòi của Việt Nam thời đang sống, Trần Dần đã “thể nghiệm” cả. Mà Trần Dần chắc chắn không phải là gia tài ngoại biệt của Quá Khứ – phải viết hoa. Cũng vậy, với Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, và nhiều các tác giả văn – thơ khác. Khoan bàn đến giá trị, chỉ riêng việc Quá Khứ đó được hiện diện trở lại, đã là những tài sản quý, và sẽ gạt bớt đi những nỗ lực-thừa. Người ta nói rằng người trẻ hiện nay nên nối tiếp quá khứ. Nhưng tôi nghĩ phải biết thêm: nối tiếp cái quá khứ nào?

Dostoievski, tác giả tiểu thuyết Tội ác và trừng phạt mà hình bóng nó chập chờn các trang văn của những ngã tư và những cột đèn, được coi là một nhà thơ dù không làm thơ. Trần Dần vốn dĩ không phải một nhà–văn xuôi. Ông là nhà thơ mọi lúc. Từ góc độ một cuốn tiểu thuyết–văn xuôi, cá tính các nhân vật (dù được xây dựng với lời kể từ ngôi thứ nhất, xưng “tôi”) dường như bị xóa nhòa, đúng hơn, bị đồng nhất với cái Tôi–Trần Dần. Ông không giỏi dựng cốt truyện mạch lạc, không giỏi “cá tính hóa” nhân vật bằng tâm lý, bằng lời thoại. Nhìn tổng thể, những ngã tư và những cột đèn đích thị một bài thơ-trường thiên. Nhân vật thực sự của cuốn tiểu thuyết–thơ này là một Tôi đa nhân cách: một Tôi luôn “sinh sự” với Bóng, với Sọ, với Chữ. Người đọc có lẽ nên tạm gạt ra ngoài mọi chờ đợi về cốt truyện, nhân vật, tâm lý, triết lý để thưởng thức sự phong phú và độc đáo của ngôn từ, cả lối trình bày chữ riêng biệt, như trong các bài thơ của ông. Đây là một tác phẩm bất khả tóm tắt, mà đoạn đối thoại của các nhân vật trong truyện có thể góp phần lí giải lựa chọn về phong cách của Trần Dần: “Kể ra thì dài. Mày muốn nghe tóm tắt hay nguyên văn? Tôi nói: “Vừa tóm tắt vừa nguyên văn. Miễn lí sự. Miễn tả cảnh” (tr 225).


Hơn nửa thế kỷ vẫn gặp định kiến

Tháng 2-2008 Nửa thế kỷ từ sau biến cố Nhân văn - Giai phẩm, cuốn Thơ Trần Dần dày gần 500 trang, do NXB Đà Nẵng và Công ty Nhã Nam ấn hành, được xem là tác phẩm bề thế nhất từ trước tới nay của nhà thơ được in chính thức ở Việt Nam. Nhà sách Nhã Nam đã dành khá nhiều công sức cho việc giới thiệu quyển thơ của Trần Dần, nhân vật được coi là đi đầu trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, một thời gian dài bị lên án, bị cấm tại Việt Nam, nhưng gần đây được công nhận trở lại, được đánh giá công trạng.

Tuy nhiên, trong ngày thứ Ba 26-2, tin đồn về chuyện tập thơ vừa mới xuất bản của Trần Dần có thể bị thu hồi trở thành đề tài liên tục được các blogger trên mạng bàn tán. một đoàn cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, Cục Xuất bản... tới công ty Nhã Nam lập biên bản ngừng phát hành tập thơ, niêm phong toàn bộ sách trong kho. Tuy nhiên số sách này, nói như ông Chánh thanh tra Bộ thì "hình như họ in nhiều, giờ trong kho chẳng còn đáng mấy". Tuy vậy, thái độ của giới lãnh đạo văn nghệ tại Việt Nam có vẻ vẫn còn ít nhiều e dè với cả lý lịch lẫn tư tưởng cách tân của nhà thơ Trần Dần.

Trong Ngày Thơ Việt Nam ở Văn Miếu hôm 21-2, tập Thơ Trần Dần đã không được phép bày bán tại đây. Mấy cái poster về Trần Dần do Nhà sách Nhã Nam trình bày cũng không được trưng bày.

Trước mắt, tin đồn trên mạng khiến một số người yêu thơ chạy đi mua những quyển thơ đang còn nằm trong hiệu sách.

Từ Hà Nội, những người có trách nhiệm ở nhà sách Nhã Nam từ chối trả lời chính thức bất cứ câu hỏi nào của BBC.

Đây là sản phẩm do Nhã Nam cộng tác với NXB Đà Nẵng. Ông Nguyễn Đức Hùng, phó giám đốc NXB Đà Nẵng và cũng là người chịu trách nhiệm biên tập di cảo thơ của Trần Dần, không khẳng định với BBC là tập thơ có bị thu hồi hay không. Nhưng ông nhấn mạnh nếu có quyết định thu hồi, thì đó là quyết định sai lầm.

"Tất cả quy trình chuẩn bị cho việc xuất bản tập thơ được làm rất kỹ và đúng luật. Bản thảo giao cho chúng tôi là 2006, nay mới xuất hiện. Không có lý do gì mà thu hồi cuốn sách.

Ngày 5 tháng 3 năm 2008, 134 các nhà văn hóa, học giả, khoa học lên tiếng đề nghị thu hồi lại quyết định ngừng phát hành tập thơ, viết thư ngỏ gửi đến Quốc hội và Chính phủ Việt Nam. Lý do họ viết thư ngỏ bởi vì: "chúng tôi lấy làm hoài nghi lý do được đưa ra để ngưng phát hành Trần Dần – Thơ", sợ rằng "Trần Dần Thơ" sẽ lại bị thu hồi và thủ tiêu với lý do vi phạm hành chính giống như tiểu thuyết Chuyện kể năm 2000 của nhà văn Bùi Ngọc Tấn (2000) và việc gỡ bỏ tác phẩm đang triển lãm của hai họa sĩ Trương TânNguyễn Quang Huy (2007). "Hai vụ việc này đều được thực hiện với lý do vi phạm hành chính, mặc dù ai cũng hiểu bản chất thực của việc cấm đoán là gì", mà "không bao giờ có một văn bản đàng hoàng nói rõ lý do sách hoặc tranh bị cấm ra mắt công chúng".

Ngày 7 tháng 3, công văn số 145/QĐ- XPHC do ông Nguyễn Thanh Hải ký, không nói gì đến tiêu hủy hay đình chỉ, mà là: nhắc nhở và phạt Nhã Nam "Xuất bản Thơ Trần Dần không có quyết định của Giám đốc Nhà xuất bản". Cụ thể: Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam không kiểm tra giấy ủy quyền của Phó Giám đốc, đã ký hợp đồng với Phó Giám đốc vào ngày 10 tháng 8 năm 2007, nên đã thực hiện hợp đồng vô hiệu. Phạt Nhã Nam tiền mặt 15 triệu đồng và hình thức phạt bổ sung là: Tịch thu 19 cuốn "Thơ Trần Dần" (vốn bị niêm phong từ hôm 26/2) và tiếp tục cho phát hành tập thơ.



Chuyện ngoài lề

Tôi có vài lần nói chuyện với bà Khuê về đời sống gia đình những năm khó khăn trong nghề dạy học của bà, khó khăn trong việc học hành của ba đứa con ông bà. Để chống đói bà được bạn bè mách cho cách sau mỗi lần nấu cơm bớt lại một bát để ghế lại vào đợt sau cho cơm nhiều lên để xới ra bát được nhiều hơn, để đánh lừa con mắt và cái bụng bọn trẻ. Có nhiều Tết không có gì, đến Ba mươi còn phải chờ bạn bè, người nhà, người quen chạy qua tiếp tế một chút. Ông anh của ông Dần thỉnh thoảng đạp xe đến cho quà cháu nhưng không bao giờ vào nhà, Ông vẫn ngồi trên yên xe đạp, chống chân, hỏi vài câu xong đạp xe đi luôn. Có năm đến cuối chiều 30 vẫn chưa có tấm bánh nào, bà vừa quay vào bếp thì quay ra thấy có cặp bánh chưng ở cửa, chạy ra người cho đã biến mất và phải hai mươi năm sau mới biết được người cho bánh là ai. Ông Dần cũng bị cô độc vì bạn bè rời bỏ. Có người trông thấy ông ở đầu phố liền quay lại đi đường khác.

Nhiều năm tôi thường được Trần Trọng Văn con giai trưởng của Trần Dần mời dự giỗ ông. Tại bữa giỗ tôi thường gặp nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân, có lần cả hai vợ chồng Quân, nhà thơ Hữu Việt con trai nhà văn Hữu Mai. Lớp trẻ bây giờ buông bỏ những thành kiến của cha mình nhẹ nhàng hơn.

Để kết bài này tôi muốn gửi cho mọi người một đoạn thơ của Trần Dần để suy ngẫm:

Tôi yêu đất nước này, có cỏ cây làm chứng

Tôi yêu chế độ này, cờ đỏ cãi cho tôi.


Trước Tết Giáp Thìn 2024