Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

NGƯỜI “BẠC TÓC TRÊN MỘT DÒNG SÔNG NHỚ”

Kim Chuông
Thứ ba ngày 10 tháng 10 năm 2023 2:40 PM




Mỗi lần nhớ và nghĩ về Hà Cừ, trong tôi lại vang lên câu thơ anh viết. “Anh bạc tóc trên một dòng sông nhớ”.

Câu thơ sẽ chạm ngân. Ở phút “linh,” phút đồng hiện này, Hà Cừ, một dáng vẻ dịu lành, yêu thương “đến nỗi” nhiều lúc, tôi đùa, “gắt’ lên rằng, “Này, bạn ta! Sao lúc nào “nhà ngươi” cũng chỉ “màu trong xanh” là thế ?

Hà Cừ tuổi Kỷ Sửu (1949). Quê An Thổ, Tứ Kỳ, Hải Dương, cách Làng Thắng, Vĩnh Bảo, Hải Phòng quê tôi chỉ vài sải chèo qua một dòng sông Luộc.

Tôi có chung với Hà Cừ một mặt trời mọc lên từ bờ đê cỏ. Một ngọn gió thơm ngào ngạt hương đồng. Một cơn mưa bỗng chen về ngày nắng …

Sự thống nhất giữa hiện thực của một vùng đồng bằng với Hà Cừ, với nét riêng nơi sinh ra, lớn lên, tắm gội “miền thiên nhiên” ấy…dễ làm tôi mê anh ở cái “Có” đang lặn chìm và hiện diện trong tâm hồn “chàng thi sĩ” được trời phú cho sự ăn khớp giữa thơ và con-người-thơ như thế.

Gốc gác Hà Cừ ở Gia Khánh, Gia Lộc, Hải Dương. Dòng dõi Nho gia. Ông cụ thân sinh Hà Cừ là Lương y nổi tiếng một vùng. Vốn thanh nhã, thông minh, lại mịn màng trong ngôn ngữ, ngay từ buổi thiếu thời, Hà Cừ đã có sức “chinh phục”, chiếm được niềm yêu mến của đông đảo bạn bè.

Không lận đận trong gia cảnh khó nghèo. Nhưng dọc bờ sông Luộc, bến Quý Cao mênh mông lau lác, một thuở, Hà Cừ cũng nếm trải không ít nắng mưa. Những buổi quên mặt trời đuổi cáy, câu tôm trên bãi vắng. Những buổi chăn trâu, cắt cỏ nhìn ngọn gió chuyển mùa qua ráng chiều, qua bờ tre gốc rạ. Những buổi ngồi trong lớp nhìn bông lúa đỏ đuôi, hạt “ngậm nắng đồng.” Những đêm trăng chở lúa trên con đường làng gập ghềnh sống trâu, lênh loáng ánh vàng… Tất cả những gì nơi “hương đồng cỏ nội”, giàu chất thi vị này đã ngấm vào Hà Cừ, hình thành nên những dòng chữ ban đầu trong câu thơ chắp cánh, trong những cái gọi là ký thác của anh ở tâm tình nồng đượm.

Năm 1966, Hà Cừ trở thành người lính sau hai người anh trai đã lần lượt lên đường đi vào chiến trận.

Đi trong những ngày sôi động của dân tộc, những chấn động lớn lao của năm tháng, đời người…Ở một góc lặng xa của nhịp bước hối hả yêu tin trước lý tưởng một thời, Hà Cừ vẫn lặng thầm viết, cất dấu cho riêng mình những câu thơ “tự lấp đầy khoảng trống” nào đó, ở nhật trình, ở công việc, ở cảm rung, ở nghĩ suy và tình yêu tuổi trẻ.

Nối vào đời lính, những ngày sau đấy là Hà Cừ, một thầy giáo trẻ măng về dạy học ở trường làng. Rồi, từ duyên nợ với nghệ thuật, anh trở thành sinh viên của trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội.

Tốt nghiệp, là một hoạ sĩ, Hà Cừ về Hải Dương, công tác tại tờ báo của Đảng bộ tỉnh. Ở đây, Hà Cừ làm đủ việc, từ họa sĩ trình bày makét đến phóng viên, biên tập viên, thư ký tòa soạn, rồi Phó Tổng Biên tập. Tiếp đến hơn mười lăm năm lien tiếp làm Tổng Biên tập với ba nhiệm kỳ là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Hải Dương.

“Cầm nắm” một cơ quan ngôn luận đứng đầu hàng tỉnh, nhìn cái dáng thư sinh ấy, nhiều bạn bè không khỏi ngạc nhiên, khi Hà Cừ vững vàng, chững chạc gánh dậy những tháng năm phát lộ, toả sáng ở một Toà Báo, được công chúng bạn đọc, bạn viết trong tỉnh và nhiều miền đất khác đem lòng tin yêu, quý trọng .

Điều dễ hiểu, Hà Cừ là Tổng Biên tập, lại là một Nhà báo, Họa sĩ, Nhà thơ. Với một tờ báo tỉnh, nhiều nơi khác nhìn về và nghĩ, có một Tổng Biên tập như anh thật hiếm, “thật lý tưởng”. Bởi, với cương vị đang có, anh là người tiêu biểu cho các phẩm chất, nhu cầu khá hệ trọng có được ở cơ quan báo chí, một lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp rất nhạy cảm.

Nội lực là vậy. Cái “Có” trong Hà Cừ là vậy. Song, cái gốc làm nên niềm yêu thương, lắng đọng nơi con tim bạn bầu là cái Tâm, cái Đức và cái Tài của Hà Cừ với một lối đi riêng.

Sống bên Hà Cừ, dường như không mấy ai và không mấy khi bắt gặp “chàng thư sinh” này nổi “cáu”. Nhiều người có chút địa vị, nhất là kẻ ngồi chiếu “hạng Ba, họ thường “gân” lên, lúc nào cũng chỉ dùng một thứ quyền để đe nẹt, quát tháo. Với Hà Cừ, khác hẳn. Vẻ khoan thai, lịch lãm, lúc nào Hà Cừ cũng đào sâu trí tuệ. Anh rủ rỉ, tâm tình. Anh nhẹ nhõm từng bước đi, cái nhìn, giọng nói. Anh giống như nhà hiền triết, luôn làm chủ được cơn giận dữ và đứng trên mọi sự vô tình, vô tâm hoặc sự thấp đuối nào khác. Hà Cừ sợ những người xung quanh, nhất là những bạn bầu yêu dấu ở phút chạnh buồn hoặc hiểu lầm, làm mất đi cái không khí trong lành, ấm áp. Thực tế, ai gặp Cừ cũng đem lòng cảm mến. Ở Hà Cừ, người tiếp xúc không gợn lên chút nghi ngờ, xa lạ. Họ thấy anh chân tình, gần gũi, tự toả lan sức hút mát lành. Vậy mà, ở vị trí gánh vác, một công việc phức tạp của mặt trận báo chí – mặt trận tư tưởng, văn hóa của một thời đổi mới đang khoác lên đôi vai, người ngỡ như chỉ có ở lòng mình dòng khơi độc đạo là “vương đạo” – Là riêng lối ứng xử - “Là tình”… !

Vậy mà, bao nhiêu năm phụ trách tờ báo, Hà Cừ tập hợp, đoàn kết được anh em cơ quan trong nút buộc đẹp đẽ, chặt bền. Tờ báo vững, hay ở các vấn đề được đề cập. Các chuyên mục được tổ chức, kết cấu sinh động, phong phú, vừa chính trị, vừa khoa học và nghệ thuật. Bên giá trị phản ánh là giá trị phát hiện. Là chất lượng có được từ nhiều phía đã nâng dậy tầm vóc một tờ báo của một vùng địa linh nhân kiệt.

Cứ nhìn bạn viết từ khắp miền đất nước tìm đến tờ báo, tìm đến Hà Cừ ở nhiều cuộc gặp mặt được tổ chức hằng năm, đủ thấy, chưa dễ gì nơi nào có được. Từ Hà Nội, Sài gòn, Nghệ An, Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Phú Yên, Khánh Hòa, Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Phú Thọ…nhiều cây bút được nhiều thế hệ bạn đọc ngưỡng mộ đều quy tụ, có mặt ở tờ báo chững chạc này.

Không bó khuôn trong “địa phương” nhỏ hẹp. Quan niệm “mở” của Hà Cừ trong ngôn luận, đăng tải biểu hiện mối bang giao, biểu hiện cái “tầm” người cầm cân nảy mực ở cái nhìn, cái nghĩ. Bởi vậy, Hà Cừ luôn được sự quan tâm cộng tác, giúp đỡ của nhiều thế mạnh hỗ trợ. Nhiều người thích “chơi” với Hà Cừ và tìm đến anh. Bằng cái tài, cái tình của mình, Hà Cừ quy tụ được nhiều gương mặt, nhiều “cây đa, cây đề” trong làng văn, làng báo cả nước. Từ nhà văn Học Phi, Đào Vũ, Phạm Ngọc Cảnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Hoa, Nguyễn Trọng Tạo, Y Phương, Lê Đình Cánh, Tô Đức Chiêu, Dương Trọng Dật, giáo sư viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng, giáo sư Văn Tạo… đến nhiều nhà báo, nhiều văn nghệ sĩ khác. Phòng Hà Cừ thường đầy tiếng cười vui và ý nghĩa của những cuộc gặp.

Người gặp Hà Cừ, lúc nào cũng thấy anh toan lo, bận mải. Nào báo ngày, báo tuần, báo tháng. Ấy vậy mà, thi thoảng, Hà Cừ lại “ới” anh em tìm gặp nhau để thăm nom, “nhắc nhớ”. Anh có tài động viên, cổ vũ, kết nối mọi người, giữ bền chặt mối quan hệ bạn bè. Có người đề cao Hà Cừ, “phong” cho anh là “Tống Công Minh”, người đứng đầu những “anh hùng” chốn “Lương Sơn Bạc”.

Mấy chục năm làm báo, trong thành tựu chung, phải nói, Hà Cừ có công tạo “đất,” tạo “ mùa màng” cho khá đông cây bút trong và ngoài tỉnh được cấy gieo, thử thách và trưởng thành trên trang báo của mình. Hà Cừ quan tâm chăm lo nhiều tới những người viết có khả năng, tâm huyết. Tôi nhớ, ngày đang phụ trách Tổng Biên tập tờ Văn nghệ Thái Bình, Báo của cơ quan tỉnh Đảng bộ Thái Bình cũng thuê tôi thường xuyên lo giúp trang văn nghệ. Tôi thường nhận được những bài viết tay của Hà Cừ của nhiều tác giả với những bức thư đọc “dễ xiêu” lòng. Hà Cừ giới thiệu với tôi và nhờ tôi đăng tải. Cứ ngỡ, anh em ruột thịt gì mà Hà Cừ tận tình “hết cỡ”. Ai dè, đấy là những người viết mà anh quý. Họ viết hay, viết nhiều, gửi nhiều, lại đang chịu nhiều gian nan trong cuộc sống thường nhật. Từ đó, tôi trọng Hà Cừ, thêm trọng và thêm yêu những bạn viết mà Hà Cừ chăm chút.

Một kỷ niệm với Vũ Thành Chung, nhà thơ.

Tôi còn nhớ, mới ngày nào từ nước Nga về, tôi dẫn Chung gặp Hà Cừ. Từ bấy, Chung quay lại với mối tình văn chương đã một thuở xa quên. Vũ Thành Chung được Hà Cừ “đốt lửa”. Chung viết được nhiều. Hà Cừ cũng luôn giành cho Chung sự xuất hiện đậm. Trước nguồn khơi quý báu, nhiều khi có ý nghĩa thật lớn với cuộc đời người viết. Từ cảm hứng gọi dậy cảm hứng. Từ trang thơ nối đến trang thơ. Và, cuối cùng, từ thành công đã đắp dầy thành công và khẳng định một bến bờ neo đậu. Bây giờ, Vũ Thành Chung là Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam. Cùng với Vũ Thành Chung, Tô Ngọc Thạch, Trường Giang, Cao Năm, Hoài Khánh… Nhiều cây bút ở lĩnh vực khác nhau như : tranh, ảnh, âm nhạc,báo chí… Với Hà Cừ, là bạn. Là hạt nhỏ phù sa đã góp vào sắc hương nơi lặng thầm bến bãi.

Đời thật công bằng, có giá. Trong quan hệ nhân quả, Hà Cừ sống tốt với nhiều người. Nhiều người cũng đối với Hà Cừ thật tốt. Chỉ riêng chuyện vào Hội nhà văn! Hà Cừ xứng đáng và mong muốn chứ. Đấy là một Hội sang trọng. Hội của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ nước nhà. Nhưng, khá nhiều năm, nhiều bạn bè đang theo dõi phụ trách công việc sáng tác và việc kết nạp hội viên của Hội. Anh em bảo Hà Cừ viết đơn. Cừ ngại ngần, khiêm tốn. Cừ im lặng nghe xung quanh. Im lặng nghe mình, chờ đợi mình. Thật sốt ruột cho anh chàng cứ ngồi “ôm” cái kiểu “hữu xạ tự nhiên hương”. Rốt cuộc, hai nhà thơ Y Phương, rồi Kim Chuông phải tự tay viết đơn, đứng tên nhà văn chính thức giới thiệu rồi gửi về cho Nguyễn Hoa, Ban công tác Hội viên Hội Nhà văn. Dĩ nhiên, nhiều người đã đọc thơ Hà Cừ và hiểu Hà Cừ.

Bây giờ, Hà Cừ dã mười bảy năm, trở thành Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nhà thơ của đất nước.

Với gần nửa thế kỷ cầm bút. Từ “Gió chân mây” đến “Thăm thẳm cõi người” ... Đến “Buông.” Rồi “Hai và những bài thơ khác” … Từ kỹ càng chọn lựa. Từ in chung đến in riêng, Hà Cừ đã có hơn mười tập thơ lần lượt trình làng.

Thơ Hà Cừ là sức rung của tâm hồn thi sĩ. Là nguồn chảy giàu có, dồi dào của cái nhìn, cái nghĩ. Là vệt loang da diết của nỗi quặn se trước thế giới nhân sinh.

“Anh bạc tóc trên một dòng sông nhớ”.

Vâng. Nói về Hà Cừ và thơ, chỉ đọc lên câu thơ ấy, đã đủ hiện lên một Hà Cừ với tất cả dáng vẻ, tâm tình. Một con người của vũ trụ yêu thương, gày hao và đặn đầy nhân ái.

Nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo gọi Hà Cừ là thi sĩ của mùa thu. Quả tình, những bài viết về mùa thu, tâm hồn Hà Cừ nghe lảng bảng, xác xao một nỗi buồn thẳm xa, man mác. Cái đa cảm, đa tình, đa buồn thương, hệ luỵ…khẳng định rằng, Hà Cừ và thơ là bào thai luôn quẫy đạp. Nó sinh sôi, tuôn chảy trong cái nguồn dạt dào, không khi nào chịu cạn khô, ngưng nghỉ.

Từ “gió chân mây”, “Những nẻo đường thơ”, “Thơ những ngày xa”, hay “Dòng sông năm tháng”… Ở những tập thơ này, thơ Hà Cừ là tiếng nói thầm sâu, da thiết. Là cái đối diện trước bao nhiêu hiện thực ngổn ngang ở một phía cuộc đời. Nhưng đối diện, tiếp cận thật gần, thật sâu cái “nhỡn tiền chi sự” đấy. Nhưng Hà Cừ lại luôn tách mình, đẩy mình về quãng xa để chỉ còn lại riêng mình với tiếng lòng dội vang trong suy tư, cảm nhận.

Thơ Hà Cừ lấy mạch ngầm làm nét đậm. Cái ngoài ta, cái thuộc về thế giới bề mặt hiện diện qua mô tả, phản ánh đều bám vào gốc rễ của nhu cầu từ cái bên trong. Dùng nội lực để đánh thức và khơi sâu chính nó là hướng tìm, thấy được sự quan tâm, một ý thức nhen nhóm ở hồn thơ, ở câu thơ anh viết.

Sinh ra, lớn lên, gắn bó với một vùng đồng bằng, giữa hai đầu cảnh quê và tình quê, thơ Hà Cừ tươi xanh, đằm thắm của tâm hồn người quê vốn trong lành, hiền hậu. Thơ như cô gái dịu dàng, thơ mộng. Hà Cừ có những câu thơ tinh tế trong cảm xúc trước cái nghe, cái nghĩ nơi biến cải dòng đời :

Không phải là hè, chưa hẳn đã là thu

Sao trời đất cũng dùng dằng lạ thế

Chỉ một chút mà lòng như sóng bể

Giữa không gian xao xác gió sang mùa

(Thơ những ngày xa)

Rồi, vẫn hình ảnh “Lời mẹ xưa” với “Cỏ biếc bờ đê”… từ nét tĩnh tại này, Hà Cừ đã tìm lấy cái động, cái vang ở chiều sâu từ phía lòng mình :

Hai mươi năm cỏ vẫn biếc bờ đê

Lòng thương nhớ cứ dào lên như sóng

Lời mẹ xưa chiều nay như tiếng vọng

Gọi ta về

Ngày ấy

Một chiều mưa

(Điệp khúc thời gian)

Là Nhà thơ, Hoạ sĩ, Hà Cừ mê những đường nét tạo hình, chấm phá. Nhưng làm thế nào để những sắc màu, hình khối thực này có được nét vẽ ảo đi ? Để ảo đấy, mong manh đấy mà thơ lại gợi về cái đậm, cái ấn tượng mang vệt loang, sức thấm nhiều chiều. Cùng với cái tinh tế của cảm xúc tâm hồn, người đọc nhớ thơ Hà Cừ ở bài “Chợ quê” với nét “điển hình” trong câu thơ tả thực :

Chợ quê con tép cũng gầy

Con cua con cá dính đầy bùn tươi

Hay nét quan sát dội lên từ ký ức trong nỗi nhớ thôn làng :

Vầng trăng đầu tháng xanh trong

Nhịp chày giã cốm lượn vòng bờ tre

(Ngày xưa hương cốm)

Hoặc :

Thanh minh trời ẩm ướt hạt mưa

Đường lầy lội cỏ bờ xanh như khói

Xanh như thể nỗi niềm tiếc nuối

Những ngày xa vĩnh viễn chẳng quay về

( Làng quê chiều thanh minh)

Thơ Hà Cừ đằm thắm. Chất trữ tình là nền tảng cho cảm xúc, cho mọi khả năng liên tưởng và sáng tạo.

Có lẽ, từ cách cảm, cách nghĩ của Hà Cừ, ở “Dòng sông năm tháng”, một cái “linh” nào đấy cứ loé lên trong khoảng tối lặng thầm. Dẫu độ đậm, độ dày của trang viết chưa đủ sức làm sáng lên thi pháp “duy linh”. Nhưng, một chút gợi, chút day trở lấp lánh cái “Linh” này mà ngườì đọc thấy được trong câu chữ, ảnh hình từ sức cảm phát lộ.

Anh lặng thầm nghe từng chiếc lá rơi

Nghe rõ cả trái tim mình thổn thức



Dù vẫn biết chẳng thể nào giữ được

Sợi nắng vàng như lụa giữa lòng tay

Hoặc, khi cái cảm gợi về :

Có một chiều gió thổi trắng chân mây

Bờ đê rộng, cánh đồng lên xanh thẳm

Thì cái “linh” loé lên ở hai phía giao hoà :

Vừng trăng non, vừng trăng non bỏ ngỏ

Lấp lánh bên trời, lấp lánh trong anh

( Có một chiều)

Hoặc “cảm” và “linh” nằm trong nhau được đánh thức ở

câu thơ lục bát :

Nén nhang tôi thắp lòng thành

Ấp iu sợi khói bóng hình thi nhân

Nghe như nhè nhẹ bước chân

Nhìn ra chỉ thấy trắng ngần mưa bay

(Thiện Vịnh chiều nay)

Từ cái Cảm, cái Linh ở tâm hồn có độ rung như thế, Hà Cừ muốn tìm được cái lý, cái chiều sâu ở suy tư, phát hiện. Ở “Dòng sông năm tháng”, những bài thuộc dạng thơ triết luận, nhất là ở vệt thơ anh viết những ngày khi tuổi đã dần cao. Khi trải nghiệm và chiêm nghiệm đã đầy lên, đã nén dồn, đã đòi hỏi sự giải thoát nào đó … Thơ Hà Cừ bộc lộ thật sâu, và đậm ở sức thuyết phục trước những câu thơ, hình ảnh thơ thật ấn tượng và khái quát :

Sông dài đo được đáy

Biển rộng tưởng vô cùng

Ta vẫn còn đo được

Nhưng lòng người thì không

(Đo)

Hoặc :

Bao lá khác khi rụng thành cát bụi

Riêng sống đời rụng xuống hoá

mầm xanh

( Lá sống đời)


Cái có lý. Cái không lạ với quy luật thơ, quy luật đời ngưòi là vậy. Bây giờ, Thơ Hà Cừ dường như, gạt đi phần ngắm nghía của “thi nhãn.” Thơ đi thẳng vào cái lõi của hiện tượng, sự vật. Thơ mang chiều sâu. Thơ đánh thức con tim “thêm những lần mở mắt”. Thơ là tiếng vọng vang nỗi niềm với nỗi trở trăn cõi nhân tình, thế thái. Và, chúng ta hãy đọc những câu trong “Thu khúc” thế này:

Nắng thu

Mắt lá đọng đầy

Nghe lòng vời vợi

Biệt ngày em xa


Còn gì

Trong cõi riêng ta

Còn gì

Trong cõi bao la

Tháng ngày…!

Hoặc, trong “ Sóng giữa lòng tay”

Rợn mình đã ngoại mấy mươi

Chiều thu nắng quái, nét cười chân chim

Ngửa tay con sóng nổi chìm

Hư vô năm tháng còn in cõi người.

Hoặc, trong “ Lời bào chữa cho hoa hồng” :

Người ta nói :

“Hoa hồng có gai”

Oan cho hoa biết mấy !


Từng đoá nhung vô tư

Nở hết mình đến vậy


Gai chỉ ở thân cành

Hoa có gai đâu ?

Vâng. “Gai chỉ ở thân cành”, ở chính mình gánh chịu. Còn là hoa, thì : mịn màng nhung ! Rực rỡ đến dường nào. Vâng. Hoa đấy hay Hà Cừ đấy. Thơ Hà Cừ là tất cả “cái Có” từ nguồn chảy xa lắc, nơi đất quê An Thổ, Tứ kỳ. Nơi ông cụ thân sinh ra anh là nhà Nho, một Lương y giàu lòng cao đẹp và yêu mến văn chương. Nơi bà mẹ hiền hậu, trong câu chuyện thường ngày hay ví von bằng ca dao tục ngữ. Nơi hai anh ruột Hà Cừ đều say mê nghệ thuật hội họa và văn chương, và mỗi người đều có những thành công trong lao động sáng tạo. Nơi Hà Cừ, với nội lực từ anh và phía này, trời phú cho anh…

Trong bạn bầu văn chương tôi lấy làm vui, đã yêu và viết tặng Hà Cừ hai bài thơ tâm đắc. Hai bài thơ kể sự, kể tình. Chất Hà Cừ hiện lên trong đặc điểm không lệch đi đâu được. Nhiều người từng gặp Cừ, sống, gắn bó với Cừ đều lấy làm lý thú.

Tôi xin chép ra đây:

BÀI THỨ NHẤT


Bạn quê An thổ , Tứ kỳ

Ta người Vĩnh Bảo có gì là xa

Con sông chảy giữa hai nhà

Ta mơ mộng lắm, bạn tha thiết nhiều


Ta đi tìm lấy nàng Kiều

Bạn nhờ mẹ nói hộ điều tương tư

Ta cùng dòng dõi thi thư

Cùng làm lính trận, cùng từ đất quê

Cùng mê thơ phú bề bề

Cùng run rẩy gặp trăng kề gió mây


Ta thành ông ngoại rồi đây

Bạn không trẻ nữa những ngày hiển vinh

Trời sinh mỗi đứa tính tình

Nhưng sao ta lại giống mình quá thôi

Bạn lành như hạt mưa rơi

Còn ta ai hẹn nửa lời là tin

Dấu làm sao được cái nhìn

Trời chưa động gió đã vin cành sầu

Ta thường lạnh lắm đêm sâu

Nhiều hôm thức dậy gọi bầu bạn ơi


Gặp nhau thoáng đã xa rồi

Đêm nay lại bóng ta ngồi với ta.






BAI HAI


Hà là bạn của lòng ta

Nhưng sao ta giận thằng cha này nhiều

Đời còn đâu lắm Thuý Kiều

Nên ta đã gặp là theo đến cùng


Bạn ta ngập ngập, ngừng ngừng

Sợ cha , sợ mẹ, sợ vừng trăng xưa

Sợ câu mình lỡ nói đùa

Trời đang nắng thế bỗng mưa thì phiền

Tốt thì ai chả muốn khen

Nhưng ngàn sau , hỡi bạn hiền ta ơi


Nhiều khi trót lỡ lầm rồi

Ta trong xanh, khác hẳn hồi trong xanh


Bạn ta chẳng sống cho mình

Chút thương dành vợ, chút tình dành con

Lòng ơi, nhiều lúc héo mòn

Là khi bạn biết ta còn nỗi đau

Ta ôm cả đất trời sầu

Mà sao lòng bạn cao sâu hơn nhiều

Bạn ta bận sớm, bận chiều

Nhiều công việc hẹn, nhiều điều toan lo

Thôi thì ta cũng mừng cho

Một sông với một con đò bạn đi


Ta yêu bạn đến thế thì

Nên ta muốn bạn cái gì cũng ta.


Hải Phòng, một ngày Thu, 2023

K. C