CHLB Nam Tư..trong ký ức của ngay cả những bậc U.70, U.80 chúng tôi cũng là điều gì rất mù mờ. Xa xưa, nghe nói là một thành viên trong Cộng đồng XHCN. Bỗng trở thành tấm gương xấu của “ Những kẻ xét lại hiện đại”. Rồi lại được bắt tay tung hô vì là thành viên sáng lập của “ Phong trào không liên kết”...
Không phe cánh. Tự tìm được con đường riêng đưa đất nước phú cường, người dân no đủ, hạnh phúc một thuở. Và bỗng dưng lại rơi vào những toan tính của “ Các Ông Lớn” để xứ sở chia năm sẻ bẩy, anh em xóm giềng bắn giết lẫn nhau..
Tìm được trên báo “ Nhân chứng & Sự kiện” ( Nga ) mấy bài , gom lại dịch để mọi người đọc và suy ngẫm. TH
LẬT GIỞ VÀI TRANG QUÁ KHỨ
Vào tháng Tám năm 1949 Moskva loại trừ Nam Tư ra khói đội ngũ các nước là đồng minh của Liên Xô. Chính các mối quan hệ phức tạp giữa Liên Xô và Nam Tư trong những năm sau chiến tranh 1941-1945 đã giải thích mối mâu thuẫn của hai con người hết sức khác nhau: Stalin và Tito. Trên thực tế là như vậy, nhưng mâu thuẫn giữa hai con người này còn có gốc rễ sân sắc hơn nhiều..
Nếu các nươc khác trong phe XHCN ở Đông Âu được giải phóng khỏi ách chiếm đóng của phát xít Đức bởi Quân đội Xô Viết thì Nam Tư, tuy phía Liên xô trợ giúp về nhiều phương diện-vẫn được xem như tự giải phóng. Cần nói thêm, lực lượng tham gia việc giải phóng này chủ yếu là đội quân du kích dưới sự chỉ huy của Tito. Những nhóm du kích ấy vào thời kỳ cuối những cuộc chiến tranh đã thực sự trở thành một đạo quân chính quy. Hãy nhớ lại tham gia việc giải phóng thủ đô Belgrad bên cạnh những trung đoàn, sư đoàn Hồng quân có tới 8 sư đoàn thuộc Lực lượng quân đội giải phóng nhân dân Nam Tư. Và những đạo quân này là con đẻ của Ioxip Broz Tito.
Còn ở những năm tháng xa hơn nữa, tham gia chiến đấu với phát xít Đức còn có những người lính của tướng Mikhailovst với sự ủng hộ của chính phủ Nam tư tại London. Nhưng ảnh hưởng của phong trào này dần dần bị Stalin và Tito xóa bỏ để thành số O. Ngay từ năm 1942 Moskva đã gọi tướng Mikhailovst là “ kẻ hợp tác với địch” mà tiến hành thương lượng với viên tướng này là “điều không bao giờ”. Sau này thủ tướng Anh Winston Churchill gắng gỏi để “ những người Anh gốc Nam Tư “ cùng với quân đội của Tito tham gia vào việc thành lập chính phủ Nam Tư sau chiến tranh, nhưng đề nghị này bị Stalin gạt phăng.
Như vậy, có thể coi Tito, Nam Tư có một vị trí khá nặng đồng cân đồng lạng trên thế giới sau Thế chiến 2. Stalin ủng hộ điều này còn Phương Tây thì không tán thành. Tito cảm nhận một cách sâu sắc việc cần phải khẳng định Nam Tư là 1 thực thể độc lập. Tito luôn nêu ra thắc mắc tại sao Pháp kháng cự với phát xít Đức một cách yếu ớt lại được xem là một trong những kẻ chiến thắng chính; còn Nam Tư chống Đức mạnh mẽ, nhiều thành quả như vậy lại không được coi là một nước độc lập, thuộc phe chiến thắng. Nói một cách khác, cái nhìn riêng của Tito về quốc gia Nam Tư không xuất phát từ “ sự ương bướng” của riêng ông ta.Phía sau ông ta là cả một xứ sở đã được giải phóng và có quyền là một quốc gia độc lập. Và đây là một nhân tố không kém phần quan trọng trong cách xem xét vấn đề Nam Tư.
Phương Tây, với nỗi lực trước đây “ thu gọn lại” vai trò của những người du kích Nam Tư và những đóng góp của Nam Tư trong việc làm thất bại chủ nghĩa phát xít, nay tìm cách im lặng. Trong khi đó thì Moskva đề cao chiến công của đạo quân du kích Nam Tư, đề cao vai trò của Tito với dụng ý lập một Liên bang xã hội chủ nghĩa tại vùng Ban căng do Moskva chỉ huy. Người Nam Tư “sẽ tự điều hành xứ sở theo quan điểm của Moskva”. Nước “ dân chủ nhân dân” Nam Tư theo đường lối “ chuyên chính vô sản”, còn các Hội đồng nhân dân giải phóng Nam Tư thì sẽ cóp y nguyên các hội đồng Xô Viêt bên Nga. Góp yếu tố rất quan trọng là việc Tito khước từ kế hoạch Marsal đối với Nam Tư và sau đó lớn tiếng phê phán học thuyết Truman.Kết quả là Liên xô trợ giúp mạnh mẽ cho Nam Tư về kinh tế và quân sự; và từ Nam Tư nhiều chuyên gia khác nhau –trước hết là các chuyên viên quân sự kéo sang Moskva để học hỏi những gì Moskva đang làm.
Mối quan hệ cá nhân thân tình giữa Stalin và Tito sau này được thay thế bằng lòng căm ghét lẫn nhau. Nhưng sau chiến tranh Thế giới 2 thì quan hệ ấy thật tuyệt vời. Vào tháng 12 năm 1947, báo “ Sự thật” cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Liên Xô đã ngợi ca sự phát triển về phương diện chính trị và kinh tế tại Nam tư là “ chưa từng có”.
Và vào một năm trước khi bài báo kể trên xuất hiện, trong một chuyến thăm của Đoàn đại biểu Nam Tư tới Moskva, sau khi các cuộc thương thảo đã hoàn tất,mọi người đáp xe tới ngôi nhà nghỉ của Stalin ở Cuisevo để được thưởng thức những món ăn ngon và thứ rượu vang nổi tiêng của xứ Grudi, trong cơn cao hứng Stalin đã khoác vai Titô hùng hồn tuyên bố trước tất cả mọi người: “ Hãy bảo trọng đấy ! Tôi sẽ không còn sống được lâu đâu. Đó là quy luật của thời gian. Và anh sẽ còn lại với châu Âu”. Mọi người ngồi quanh bàn tiệc đã sững sờ đến lặng ngắt vì lời tuyên bô đó. Vị lãnh tụ tối cao của giai cấp vô sản vào thời điểm đó đã chỉ đích danh người kế nhiệm mình, không phải dành cho Liên Xô mà là cho toàn bộ phong trào cộng sản thế giới. Hiển nhiên vào thời điểm đó khi Stalin nói tới 2 chữ “ châu Âu ” là nói tới toàn bộ thế giới cộng sản.
Thật khó mà đoán định số phận nhân loại sẽ ra sao nếu Tito là người kế nhiệm của Stalin trong phong trào cộng sản quốc tế. Xét theo tính cách vừa cương quyết, vừa nhẹ dạ của Tito khi loại bỏ những đồng chí, đồng đội của mình thì hai thủ lĩnh này về nhiều phương diện khá giống nhau. Không loại trừ giả thuyết chính vì điểm này mà “Ông già Stalin” tín nhiệm Tito.
Một thời gian khá dài Stalin ủng hộ Tito cả ở những điều mà Stalin không muốn, bởi lẽ ủng hộ những yêu sách của Nam Tư tự nhiên sẽ dẫn tới việc làm sâu sắc thêm mâu thuẫn đối với phương Tây. Ví như Tito khăng khăng khẳng định những lãnh thổ của các nước khác được quân đội Nam Tư giải phóng trong chiến tranh nhất thiết phải ở dưới quyền kiểm soát của ông ta. Ví như một phần lãnh thổ của nước Áo mà Mỹ và Anh đòi thuộc về họ.
Tito cương quyết đòi cho bằng được những yêu sách của mình. Bế tắc là điều hiển nhiên. Nhưng Stalin không chiềng mặt với Đồng minh hay với Tito mà tìm ra lối giải quyết khác: Stalin nhường cho Nam Tư phần đất mà quân đội Xô Viết đã giải phóng. Và thế là Tito hài lòng.
Sự việc phức tạp hơn với những vùng đất, vùng bờ biển trước chiến tranh thuộc Italy. Tito tuyên bố một cách cứng rắn rằng: “..quân đội Nam Tư với tư cach là một trong những lực lượng của quân đội phe Đồng minh có quyền bình đẳng với các đạo quân giải phóng khác ở lại trên những vùng lãnh thổ họ đã từng đổ xương máu trong cuộc chiến khốc liệt chống kẻ thù chung”. Với quan điểm ấy mọi việc càng trở nên nghiêm trọng hơn. Washington và London có ý định dùng sức mạnh giành lại những vùng đất quân đội Nam Tư đang chiếm đóng. Nhưng họ đã vấp phải lời cảnh báo của Stalin nếu hành động như vậy Mỹ và Anh sẽ nhận hậu quả khôn lường. Vì thế có thể xem như những yêu sách của Nam Tư được Stalin coi là hợp hiến.
Nhưng chính vào thời khắc phức tạp ấy Tito đã phạm một sai lầm nghiêm trọng, gây nên cơn tức tối của lãnh tụ Moskva. Làm tình thế thêm rối ren và chọc tức các đồng minh, lãnh đạo Nam Tư có những lời lẽ trên thực tế làm mất lòng cả các nước Phương Tây lẫn Moskva. Chí ít ra là điện Kremli hiểu như thế. Tito khẳng định: “ Chúng tôi sẽ không trả nợ cho toan tính của những kẻ khác. Chúng tôi sẽ không chi ra một đồng xu mẻ nào. Chúng tôi không muốn lợi lộc của những người khác chi phố đường lối chính trị của chúng tôi. Chúng tôi cũng không muốn từ nay trở đi còn lệ thuộc vào ai nữa. Nam Tư sẽ không phải là món hàng hoặc vật để đổi chác.”
Dễ hiểu “ Tuyên ngôn độc lập “ kiểu này không hợp với khẩu vị của Stalin. Chính vì vậy qua Đại sứ Liên Xô tại Belgrad những lời lẽ sau đây đã được chuyển tới tai Tito: “ Hãy nói với đồng chí Tito rằng nếu còn tái diễn những lệch lạc trong quan hệ với Liên Xô như vậy một lần nữa, chúng tôi sẽ công khai phê phán đồng chí ấy trên báo chí và vạch mặt chỉ tên đồng chí ấy”.
Tito giật mình với lời cảnh cáo của người “đồng chí già” và giữa Moskva với Belgrad yên ổn được một thời gian nữa. Nhưng nhớ lại những lời lẽ Tito đã thốt ra, lập tức sẽ hiểu được ngay đường lối chính trị tiếp theo của Nam Tư, ví như về vai trò khởi xướng của Nam Tư trong Phong trào các nước không liên kết; sẽ hiểu rằng đó không chỉ là “ những lệch lạc”. Và cũng ngay ở thời điểm này không khó đoán ra những gì đã chín muồi trong cái đầu của Tito- Nam Tư cần bước tới tương lai trên con đường của riêng mình, không cần dựa dẫm cả vào Phương Tây lẫn của Moskva.
Tuy Phong trào các nước không liên kết ra đời tại Hội nghị Belgrad vào tháng Chín năm 1961, và sáng kiến về sự kiện này đã được nẩy sinh bởi bộ ba Ioxíp Tito, Gamal Abdel Nasser và Djavakharlal Neru đề xướng từ năm 1956; nhưng ý tưởng cốt lõi của sự ra đời phong trào này đã hình thành ở Nam Tư ngay từ những năm sau Thế chiến 2. Thiết nghĩ Stalin đã linh cảm thấy điều gì đó nên những sự bắt bẻ của ông ta với Tito nhiều lúc thấy vô lý. Tât cả như báo hiệu sự sụt lở nhanh chóng sẽ xẩy ra. Bước sang năm 1948 quan hệ giữa Moskva và Belgrad đã xấu đi, qua năm 1949 thì đã thành cực xấu. Vào tháng 8 năm 1949 Nam Tư không còn là đồng minh của Liên Xô nữa và bước qua tháng 10 quan hệ ngoại giao giữa hai nước phựt đứt.
Stalin và người kế tục “ không thành” của ông ta bắt đầu trao qua đổi lại những lời lẽ ” bất nhã” mà từ trước tới lúc đó chưa hề có trong quan hệ các đảng cộng sản với nhau. Ví như, trong năm 1948, Moskva cho công bố một văn kiện mang tựa đề như sau: “ Đảng cộng sản Nam Tư đã rơi vào tay bọn đao phủ và lũ gián điệp”.
Stalin không thể tìm ra cơ hội để đốn gục Tito; ngay cả với toàn bộ ảnh hưởng của mình trong quyền lực kiểm soát Phong trào cộng sản quốc tế ông ta cũng không thể làm gì được với thủ lĩnh Nam Tư. Kết quả xẩy ra một thời kỳ chống trả nhau. Tại Liên Xô và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa tràn lan một chiến dịch chống đối không sót thương “ những phần tử Tito”; còn ở Nam Tư người ta bài trừ những “ thân Stalin”. Cuối cùng, đã tồn tại giả thuyết Stalin tìm mọi cach thủ tiêu “ người kế nhiệm” . Và Tito chỉ thoát nạn khi Stalin chết vào tháng 3 năm 1953.
Sự đoạn tuyệt ấy kéo dài mãi tới ngày Khrusov tới thăm Belgrad vào năm 1957.Và được bắt đầu bằng tiếng cười không ngụ ý gì. Tưa như khi Khrutsov vừa xuống khỏi cầu thang máy bay, một quan chức Nam Tư nhanh nhẩu đoảng nào đó vội lên tiếng kết tội Stalin. Khrutsov liền vỗ vai quan chức này và nói to để Tito nghe thấy: “Đồng chí Tito! Khi đồng chí muốn chấm dứt các cuộc thương thảo với người Nga thì ngồi đầu bàn bên kia là Stalin, chứ đâu phải tôi!”.
Quan hệ Liên xô - Nam Tư bắt đầu thời kỳ mới bằng lời bông phèng như vậy…
NAM TƯ: VẤN ĐỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
VÀ THÂN PHẬN MỘT NƯỚC NHỎ
( Tiếp theo)
“ VÌ SAO CHÚNG TA LẠI BẮN GIẾT NHAU ?”
Chúng tôi đáp xe từ thành phố Banhia –Luca tới Saraevo, thủ phủ của Bosnhia và Hercegovina. Trải dọc theo đường là những nghĩa trang. Bắt đầu với bia mộ trắng của người Hồi giáo, sau đó bia mộ đen của những người Chính thống giáo, cuối cùng tới những hàng thập tự của người theo đạo Thiên chúa. Xe chạy với tốc độ cao chừng 5 phút vẫn chưa hết nghĩa trang. Tôi quay sang người bạn đồng hành thậm chí chưa kịp hỏi, anh ta đã gục gặc đầu và nói: “ Nằm kia toàn bộ là đàn bà và trẻ con! “. Những bãi tha ma được thay bằng toàn cảnh hàng chục ngôi nhà cháy rụi. “ Trước kia đấy là làng xóm-anh bạn lái xe giọng lạnh tanh nói- Ai kịp thì bỏ chạy. Xác những ai không chạy kịp bị gom lại quẳng xuống sông”. Ngày 1 tháng 3 năm 1992 tiếng súng nổ trong một đám cưới của người Serbia tại thành phố Saraevo mở đầu cho một cuộc chiến đẫm máu mà số người chết sau này được coi là lớn nhất ở châu Âu, tính từ Thế chiến 2. Trong 3 năm ở một nước cộng hòa dân số 5 triệu đã có tới 200 ngàn người chết; một nửa dân số bỏ chạy khỏi xứ sở.
Tại Mostr ( thành phố không xa biên giới với xứ Horvat bao cây số )- một nơi mới được trùng tu dành làm điểm đón khách du lịch, ta nhìn thấy những cây cầu xây từ thời quân Thổ Nhĩ Kỳ xâm chiếm nơi này, bị đổ gục xuống lòng sông trong thời kỳ chiến tranh, nay được sửa sang lại bằng đồng tiền của Liên Hiệp quốc. Qua cầu, đi thêm một đoạn nữa bạn sẽ lạc vào khu những ngôi nhà cháy với tấm biển treo trước cửa :” Cẩn thận! Có thể sập đổ!”. Giữa đám cỏ dại nổi lên ngôi nhà thờ của thế kỷ 14 xám đen: cây thánh giá và tháp chuông đổ gục, bên trong nhà thờ ngập ngụa rác rến. Một viên chức của cơ quan quản trị thành phố kể: “Bên này sông là người Hồi giáo, bên kia sông là người Horvat, trên núi là người Serbi.Thành phố bị bao vây 18 tháng, tất cả các đường phố đều nằm trong tầm hỏa lực của pháo binh.” Tôi có một ông láng giềng là người Horvat, bao năm nay sống hòa thuận như trong một gia đình. Khi chiến tranh nổ ra chúng tôi cầm súng nã đạn vào nhau.Tôi bắn gẫy chân hắn, hắn bắn gẫy tay tôi”. “ Mà tại sao hai anh lại xử sự như thế ? “. Ông viên chức kia nhún vai: “ Xin lỗi, tôi cũng không biết nữa !”.
-Anh cứ đặt cho mọi người câu hỏi này đi : “ Tại sao bao nhiêu năm các anh sống hòa thuận, vui vẻ để rồi bỗng nhiên xỉa dao vào lưng nhau? “ anh sẽ không nhận được câu trả lời rành rõ đâu-Danhiel Covatsevist, bình luận viên Đài Vô tuyến truyền hình nước Cộng Hòa Serbia tại Bosnia-Hercegovina giải thích- Điều này tựa như một cơn điên! Cho đến tận hôm nay nhiều người trong chúng tôi vẫn lo sợ những gì đã xẩy ra sẽ tái diễn. Ít người tin rằng mọi sự đã kết thúc vĩnh viễn.Sự phân rã của nước Nam Tư trước đây đẫn tới sự hoài nghi kỳ quái này: Chẳng lẽ trước kia các dân tộc chúng tôi đã từng sống hòa thuận, tốt đẹp với nhau ư ? Tình thế đóng băng này không biết bao giờ kết thúc. Anh sợ máu đổ, sợ tan hoang đấy, nhưng trong góc nhà anh vẫn dấu kín một khẩu tiểu liên.
Bosnia và Hercegovina đã tiến hành một cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập vào ngày 29 tháng Hai năm 1992. Serbia khước từ không tham gia cuộc trưng cầu này.Chỉ vài giờ sau sự kiện ấy đất nước chìm ngập trong đêm tối. 25 năm đã trôi qua tại các thành phố như Saraevo, Mostar, Gorajd cho đến tận hôm nay những dấu tích chiến tranh vẫn in đậm trên bức tường của các ngôi nhà. Nhà cửa có được sửa chữa phần nào đấy nhưng đạn bom và ngọn lửa đỏ đã thiêu cháy, làm đổ nát đến mức phải mất cả một thế hệ nữa mới mong hồi phục lại như cũ. Thành phố Travnhic xưa kia là nơi cư ngụ, làm ăn của cả người Hồi giáo, người theo đạo Chính thống giáo, người theo đạo Thiên chúa. Năm 1993 hàng chục người đã bỏ mạng để đánh nhau chỉ vì..một cửa hàng đồ chơi trẻ em (!). Vì những người cầm súng ai cũng muốn tòa nhà ấy thuộc quyền kiểm soát của họ. Kết quả là ngôi nhà hiền lành đã bằng địa hệt như có cánh mà bay. Vì sao vậy? “ Chính trị là thế đó!”-những người Bosnia buồn bã trả lời. Nước Nam Tư xưa thực sự đã chết, nhưng nỗi buồn nhớ nó thì sẽ không bao giờ nguôi ngoai. Tôi đã nghe được cùng một câu nói này thốt ra từ cửa miệng người Serbia, người Horva, người Hồi giáo quê hương ở Bosnia: “ Không bao giờ chúng tôi còn được sống quãng đời tốt đẹp như dưới thời Tito nữa! “
-Cách đây không bao lâu, một câu hỏi cứ ám ảnh tôi: Nói đại cục ra chúng tôi đã làm phân rã xứ sở nhắm mục đích gì nhỉ ?-Niiaz Babist, một thương gia ở Saraevo tâm sự- Vì một cuộc sống tốt đẹp hơn chăng mà chúng tôi bắn giết nhau và giết chết chính mình? Bosnia và Hercegovina là hai vùng đất nghèo. Họ đứng được là nhờ vào đồng tiền của EU và của Mỹ. Phương Tây tìm mọi cách làm tan rã Nam Tư. Họ nhồi nhét vào đầu chúng tôi rằng, chỉ có phân chia ra thành nhiều nước nhỏ, các người mới có cuộc sống như trên thiên đàng thôi. Bosnia vừa tuyên bố độc lập, ngay tức thì Đức và Mỹ công nhận. Còn khi người Serbia chúng tôi muốn sống riêng, không hiểu vì lý do gì họ lại khuyên chúng tôi không nên? Vì điều gì đây chúng tôi phải chôn cất tới 200 ngàn người? Để bây giờ ông già bà cả nhận được 100 euro tiền hưu trí ; còn gần nửa số dân lưu lạc sang Đức làm nghề rửa chén bát? Vì cuộc sống khốn khó như thế chúng tôi phải tiêu diệt xứ sở Nam Tư sao? Quả là phát điên lên mất !
Chúng tôi gặp cô bé Leila 12 tuổi đang đứng cầu nguyện tại một nghĩa trang của thành phố Mostar. Có 5 người thân của em nằm ở nghĩa trang này. “ Bọn Horvat khốn kiếp ! –cô bé nói rít qua kẽ răng-Lớn lên cháu sẽ giết hết bọn chúng! “ Một trong những mối xung đột khủng khiếp nhất ở châu Âu như vậy là chưa kết thúc. Nó vẫn âm ỉ cháy. “ Bây giờ ví như muốn giữ nguyên một nước Nam Tư thống nhất, giáu có như xưa hoặc thay đổi điều gì ở cái xứ sở ấy..-một người địa phương dẫn đường ở thành phố Travnhic nói với chúng tôi- Tất cả cũng đã quá muộn! Có lẽ phải đợi 2,3 thế hệ nữa. Còn với chúng tôi à ? Máu hận thù đã ngập tới đầu gối rồi! ”.
Câu nói “ Không bao giờ chúng tôi còn được sống sung túc, dễ thở như dưới thời Tito” bạn có thể nghe thấy ở bất cứ nơi nào trên mảnh đất Nam Tư cũ. Người lãnh tụ của một xứ sở không liên kết trong những năm từ 1945 đến 1980, gốc gác là người dân tộc Horvat, nhưng tên tuổi của ông cho đến tận hôm nay vẫn được tất cả các cộng đồng dân tộc thuộc Liên Bang Nam Tư cũ nhắc tới với niềm thương mến, kính phục. Tại bất cứ một nơi nào, ngay cả ở những nước cộng hòa phải tốn nhiều xương máu mới giành được độc lập cho xứ sở mình, đi trên đường phố dễ dàng bắt gặp những tốp thanh niên mặc áo phông với hàng chữ ghi trên ngực: “ Đồng chí Tito! Hãy quay về với chúng tôi! “, “ Người Hồi giáo, người Serbia, người Horvat –tất cả đều yêu kính đồng chí”. “ Đồng chí Tito mang lại cho chúng tôi tất cả mà không lấy đi của chúng tôi bất cứ thứ gì. Còn bây giờ bọn họ không cho chúng tôi mảy may gì mà lại cướp đi từ trên tay chúng tôi ngay cả một bơ lúa kiều mạch!”…Cách đây không lâu, nhân Bosnia tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày nổ ra cuộc nội chiến ( khiến hơn 200 ngàn người hy sinh ) đã diễn ra một cuộc trưng cầu ý dân chọn lựa tổng thống. Kết quả thật không ngờ: 60% dân số dồn phiếu cho Jiosip Broz Tito với giả định nếu ông ta sống lại. Còn tại Cosevo, ngay những người gốc Anbani cũng khẳng định như đinh đóng cột: Nếu Tito điều hành đất nước, không một ai muốn chia sẽ Nam Tư cũ thành nhiều mảnh như bây giờ!
Người ta hồi nhớ lại, khi Tito điều hành đất nước nền kinh tế Nam tư được xem tốt nhất trong “ Cộng đồng XHCN” ở Đông Âu. Vợ chồng trẻ mới thành hôn được chính phủ cấp căn hộ không phải trả tiền. Đồng lương cho công nhân, viên chức nhà nước giữ được ổn định và chỉ có tăng lên, không giảm đi.Tại các rạp chiếu bóng những bộ phim có cảnh sex được chiếu thoải mái. Bất cứ người công dân nào cũng có quyền qua Đức hoặc Pháp mà không cần visa. Cửa hàng, cửa hiệu tư nhân tự do mở cửa. Chỉ những xí nghiệp lớn mới thuộc quyền quản lý của nhà nước.
Khi biết chúng tôi là những nhà báo đến từ nước Nga, người dân Bosnia, Hercegovia, Montenegro..đều vui vẻ nói: “ Trong Thế chiến I Tito đã chiến đấu tại mặt trận Áo-Hung. Ông ta bị bắt làm tù binh, bi đưa sang Siberi. Ở Siberi Tito đã cưới cô vợ người Nga và bằng tất cả tấm lòng ông ấy yêu nước Nga. Sau đó Tito trở về Nam Tư làm cách mạng XHCN. Về những cuộc cãi cọ giữa Stalin và Tito mọi người hãy quên cho nhanh. Việc đó chỉ làm xấu đi mối quan hệ tốt đẹp giữa Liên bang Nam Tư và Liên Xô trước đây.”
Và họ cũng nói thêm với chúng tôi rằng, trên vùng Balcan này, xưa kia Josip Broz Tito nổi tiếng và được mến yêu không thua gì chúa Giesu !
Ghi chú ảnh:
1-Stalin và Tito
2-Thanh niên biểu lộ mối thiện cảm với Tito