ĐĨA VỎ ĐẠN ĐỒNG
Giỗ bố bạn mời ăn cơm
Ban thờ đĩa vỏ đạn đồng sáng choang
Bạn tôi nước mắt hai hàng
Thời cải cách Đảng giết oan bố mình.
02/9/2016
PHỐ “ĐẦY TỚ”
... “Đã quen tiếng chó tiếng gà
Mái tranh lạt buộc, phên nhà dậu thưa”
Vũ Quần Phương
Thôi đành đáp lễ bạn thơ
Cách nhau chưa đến nửa giờ đạp xe
Phố đông nem nép bên hè
Có bốt gác, ba-ri-e chắn đường
Ô tô trong dãy như gương
Nhủ thầm mình lạc phố phường hay không
Hình hài xơ xác lão nông
“Con ngựa” bạc phếch không chuông, không đèn
Này ông đứng lại nói xem?
Họ hàng hay bạn bè quen... nhà nào...?
Đứng chờ điện thoại nôn nao
Đạp chân nhấc chắn hàng rào cho tôi
Sau lưng rinh rích tiếng cười
Thơ ư !? Khố rách nửa người nửa ma
Người khôn hạ cánh trước già
Về làm thơ để tụng ca mây giời
Bạn rằng: Trộm cắp như rươi
“Xóm em” thuê gác chặn người ăn xin...
Thơ từ biệt phủ buyn đinh
Lạnh như xác ướp trong bình rót ra
Chia tay về với “chuồng nhà”
Phố “đầy tớ” chó ít ra ngoài đường.
26/8/2016
PHẢN BIỆN CA DAO
“Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu thẳm như cơi đựng trầu”
(Ca dao)
Đàn ông chưa hẳn giếng khơi
Đàn bà đâu phải là cơi đựng trầu
Hỏi rằng trong đám mày râu
Vá trời đội đất trên đầu là ai ?
Thù trong và giặc bên ngoài
Đầu voi khăn trở thiên tài ngày xưa
Trưng Vương lên ngự ngôi vua
Hát Giang sóng của bốn mùa vẫn xanh
Vọng về Nông Cống tỉnh Thanh
Hồn bà Triệu Ẩu đập bành thúc voi
Dương Vân Nga dám nhường ngôi
Ngai vàng Thập Đạo thay trời cứu dân
Lý Chiêu Hoàng chẳng phân vân
Âu vàng vạn thuở nhà Trần còn đây
Đồ Bàn thành nát bụi bay
Bảy trăm năm Huế - Công này Huyền Trân
“Ai Tư Vãn” của Ngọc Hân
Trời sầu đất thảm quỷ thần cũng run
Chúa Nôm còn một Xuân Hương
Vua quan một lũ bụi đường cả thôi...
Ngày xưa đám hủ nho bồi
Đàn bà đem ví là cơi đựng trầu
Nghe này hỡi đấng mày râu
Câu ca dao mới bắt đầu từ đây:
VẬY TỪ NAY SỬA LẠI:
“Đàn bà nông nổi giếng khơi
Đàn ông sâu thẳm như cơi đựng trầu”
Từ Hải chết đứng vì đâu?
Lông mày còn chặt được đầu quân vương.
Tháng 9/2016
CÓ AI BUỒN GIỐNG TÔI KHÔNG?
Khoét ruột núi phá rừng sâu
Hồ khô, đồng cạn bạc màu đất đai
“Chữ tai liền với chữ tài” (*)
An toàn hạ cánh đúng sai mặc giời
Bấy nhiêu sông nghẹn dòng trôi
Người ta bức tử ở nơi đầu nguồn
Trời thì bán, đất thì buôn
Có ai buồn giống nỗi buồn tôi không
Đuổi theo bảy sắc cầu vồng
Qua cầu rút ván ngang sông thì chìm...
Dấu hài trinh nữ còn in
Con đường lông ngỗng trái tim dại khờ
Dã Tràng cõng cả đời thơ
Vẫn không lấp kín được bờ thương đau
Kìa tằm đang gặm lá dâu
Biển Đông xanh biếc nhuốm màu đỏ tươi
Chó sói đeo mặt nạ người
Hang cùng ngõ hẻm đang ngồi tụng kinh
Lẩn trong thập loại chúng sinh
Võ Tắc Thiên hiện nguyên hình âm binh
Tổ tiên ta rộng nghĩa tình
Cho nương náu để hồi sinh giống nòi...
Bao phen lửa bỏng nước sôi
Nhục Lê Chiêu Thống nghìn đời còn đây
“Kẻ nào dâng đất hôm nay”...
Quên thì đọc lại lời này Thánh Tông (**)
(*) Kiều - Nguyễn Du.
(**) Một thước núi, một tấc sông của ta có lẽ nào tự tiện vứt bỏ đi được. Nếu người nào dám đem một thước, một tấc đất của vua Thái Tổ để lại làm mồi cho giặc thì người đó sẽ bị trừng trị nặng. (Trang185 Các triều đại Việt Nam - NXB Thanh Niên, 2006)
06/9/2016
MẶT TRÁI HUÂN CHƯƠNG
( Nhớ thiên phóng sự đẫm nước mắt của VTV1)
Không nhà thì ở cống bi
Nuôi con ăn học phòng khi tuổi già
Cha đành an phận của cha
Chiến tranh thất học ùa ra chiến trường
Con ơi mặt trái huân chương
Áo cơm trước mắt, giảng đường thì xa
Nhớ xưa trên chốt rừng già
Nắm cơm sẻ nửa, quả cà chia đôi
Hòa bình mấy chục năm rồi
Nhà mình giặc đói như hồi chiến tranh
Nuôi con như của để để dành
Dẫu rằng còn chút vỏ chanh cuối đời…
Ngàn năm vẫn thế con ơi
Xương chất thành núi, vua ngồi càng cao
Máu như thác đổ ào ào
Thành vàng để dệt hoàng bào, giát ngai
Cờ tàn ngẫm chuyện đúng sai
Qua hà phận tốt đứng ngoài cuộc chơi…
Học đi con, học làm người
Dẫu giời có mặt nhưng giời bất công
Cống bi còn rộng mênh mông
Vẫn hơn một hố chất chồng….bạn cha.
Hải Phòng 6-9-2016