Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân:Thưa chư vị, tôi cũng đã từng nhiều năm ngụp lặn trong kho sách Hán Nôm, cũng bận tâm tra cứu các thư tịch cổ về các chuyện "nguyệt hoa hoa nguyệt" đã nhiều phen, song chưa bao giờ có được may mắn như Tam Uyên Trần Quang Đức ở Nhã Nam. Trưa hôm qua, được Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương phô rằng có cái này hay lắm, bèn đứng lại ở sảnh Hàn Lâm viện để truy vấn. Chuyết Chuyết kể câu chuyện – mà chư vị sẽ xem dưới đây. Tôi choáng quá!Lúc ấy, trước mặt không có thư tịch, nên Chuyết Chuyết phải dùng cả đôi tay và cả toàn thân để mô tả những điều mà chàng định tả. Tôi càng choáng hơn!Sáng nay, tại Thư khố Hán Nôm viện, bọn tôi gồm: Tam Uyển Trần Quang Đức, Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương, U Cốc khách Tô Lan cùng nhau mở 3 văn bản chữ Nho để đối chiếu và xác minh xem Tam Uyển có vì vui chuyện mà tự thêu thùa thêm chữ nào không. Quả thực là đúng như bài của Tam Uyển, không hề có sai nhầm gì. Kíp khi ấy, Kim Anh nữ sĩ cũng có mặt, bèn được bọn tôi mời vào làm chứng!Đêm tân hôn của Hoàng đế Quang Trung 33 tuổi, còn Ngọc Hân công chúa vừa 16 tuổi. Trời đất! Trai anh hùng gặp gái thuyền quyên!Vậy đã đủ chứng, mời chư vị thưởng thức áng văn chương “vô tiền khoáng hậu” này. Xin đa tạ Tam Uyển Trần Quang Đức đã ưng cho Nguyễn Xuân Diện-blog đưa về hầu chư vị bốn phương. Xin đa tạ Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương đã có bài dịch ra thơ ngay trong trưa nay để kíp hầu chư vị.Dưới đây là nguyên văn chép từ Trần Quang Đức-Blog:Việt Nam đệ nhất dâm thi Tây Sơn hànhTam Uyển Trần Quang ĐứcBữa trước trong lúc dư nhàn, mỗ có tìm đọc cuốn Tản Ông di cảo (散翁遺稿mang ký hiệu A.2157) của danh sĩ thời Lê là Trần Danh Án. Đọc đến bài Tây Sơn hành thì quả thật hãi hùng chi thậm. Ông này là tôi trung của nhà Lê, kiên quyết bất hợp tác với triều Tây Sơn, thủy chung coi Tây Sơn là giặc mọi, thậm chí tỏ thái độ thù hằn và phất uất khi vua Lê gả công chúa Ngọc Hân cho Quang Trung Nguyễn Huệ. Nay đọc Tây Sơn hành mới càng thấy rõ điều đó. Có điều, từ ý tứ đến ngôn từ trong bài thơ này đều hết sức dâm bôn xằng bậy, càng ngẫm càng thẹn cho kẻ mũ cao áo dài. Xét tự cổ chí kim, văn chương nước nhà chưa có áng dâm thi nào đặng so sánh được. Nay xin tạm phiên âm dịch nghĩa ra đây, rồi sau xin các bậc thiện Nôm chi quân tử cùng diễn ra thơ quốc âm vậy. (Bài thơ này còn được chép trong cuốn Thù thế danh thư 酬世名書 ký hiệu VHv.2239 và cuốn Danh nhân văn tập 名人文集 ký hiệu VHv.2432)西山行
時阮整引西山阮惠兵來京城,景興皇帝以玉欣公主下嫁阮惠,故有此作.
海宇承平二百年,深宮春色鎖嬋娟,嫣紅錦褥人眼獨淺翠花裀蝶夢纏,不是神仙無對偶,可堪芳景忽流連
紗窗寂寞梅酣雪,邃篽離披柳困煙,花事闌珊春已矣殘英落絮總堪憐,鼕鼕何處城邊鼓,羯塵漫塞長安路亟夏方旋振葉風,深春忽點催花雨,鬚眉無膽控危城釵扇將身抵驕虜,天王姊婦上公妃,不比尋常花巷主尊榮貴寵對天潢,奠聘奩儀優特數,雲水騶從翠綺羅風流儐相紛紳冑,扇夫轎子儘非常,都人見者呼為父人羡新郎如一口,妾見新郎墜雙手,衣裳熳爛語侏离骨相崚嶒皮皺古,頂上高堆張角巾,腿間不著韓信褲其中一物望巍然,直與四肢峙為五,靜似高僧兀坐忘動如弁子歌身舞,不言不笑不溫存,大吼一聲烈如虎千鈞飛蹲據酥胸,怒裂羅裙披雪股,此物誰知解刺人頡頏插入溫柔戶,嬌花枝上狂鶯揉,狂鶯不為嬌花護花膜重重裂繒聲,鉛爐片片飛煙縷,牙咬肉顫汗如油亂搗胡抽做不住,須臾裙帶落新紅,暗點春籌翻幾度妾身兩孔似連環,瞬息通成一大圈,捲襦點閱忽驚訝頏摩不值半文錢,黑暗既非前度白,縈紆又改舊時圓呼鬟拿甕尿一尿,尿水之聲如飛泉,飛泉瀲灧去不返陽風打落桃花片,桃花嬌怯不勝風,風斂花魂猶覺倦盈盈柳骨瘦三分,褶褶湘羅寬一半,底事雖然不殺人暮雨朝雲安熟爛,自從奇苦得奇歡,歡後卻忘舊苦艱不患漁翁揮棹澀,溶溶桃浪漲平灘,左掬右摸探花髓鶯不停梭蹀不攔,玉癢香搔失害羞,上摟下扭圓團團風情蕩漾花心急,恐放東君頃刻間,蠻人老實多高興不會輕挑只會鑽,浮世青雲如過客,一生幾度托春眠衾裯樂處無夷夏,痴徇空名誤玉顔,不見錦機脂粉隊西兵去後幾人還,誰將此為語姊妹,嫁郎及早嫁西山Phiên âmTÂY SƠN HÀNHThời, Nguyễn Chỉnh dẫn Tây Sơn Nguyễn Huệ binh lai Kinh thành, Cảnh Hưng hoàng đế dĩ Ngọc Hân công chúa hạ giá Nguyễn Huệ, cố hữu thử tác.Hải vũ thừa bình nhị bách niên, Thâm cung xuân sắc tỏa thuyền quyên
Yên hồng cẩm nhục nhân nhãn độc, Thiển thúy hoa nhân điệp mộng triền
Bất thị thần tiên vô đối ngẫu, Khả kham phương cảnh hốt lưu liên
Sa song tịch mịch mai hàm tuyết, Thúy ngự ly phi liễu khốn yên
Hoa sự lan san xuân dĩ hĩ, Tàn anh lạc nhứ tổng kham liên
Đông đông hà xứ thành biên cổ, Yết trần mạn tắc Trường An lộ
Cức hạ phương toàn chấn diệp phong, Thâm xuân hốt điểm thôi hoa vũ
Tu my vô đảm khống nguy thành, Thoa phiến tương thân để kiêu lỗ
Thiên vương tỉ phụ thượng công phi, Bất tỉ tầm thường hoa lộng chủ
Tôn vinh quý sủng đối thiên hoàng, Điện sính liêm nghi ưu đặc số
Vân thủy sô tùng thúy ỷ la, Phong lưu tấn tướng phân thân trụ
Phiến phu kiệu tử tận phi thường, Đô nhân kiến giả hô vi phụ
Nhân tiện tân lang như nhất khẩu, Thiếp kiến tân lãng trụy song thủ
Y thường mạn lạn ngữ thù ly, Cốt tướng lăng tằng bì trứu cổ
Đính thượng cao đôi Trương Giác cân, Thoái gian bất trước Hàn Tín khố
Kỳ trung nhất vật vọng nguy nhiên, Trực dữ tứ chi trì vi ngũ
Tĩnh tự cao tăng ngột tọa vong, Động như biền tử ca thân vũ
Bất ngôn bất tiếu bất ôn tồn, Đại hống nhất thanh liệt như hổ
Thiên quân phi tồn cứ tô hung, Nộ liệt la quần phi tuyết cổ
Thử vật thùy tri giải thích nhân, Hiệt hàng sáp nhập ôn nhu hộ
Kiều hoa chi thượng cuồng oanh nhu, Cuồng oanh bất vi kiều hoa hộ
Hoa mạc trùng trùng liệt tăng thanh, Diên lô phiến phiến phi yên lữ
Nha giảo nhục chiên hãn như du, Loạn đảo hồ trừu tố bất trụ
Tu du quần đới lạc tân hồng, Ám điểm xuân trù phiên kỉ độ
Thiếp thân lưỡng khổng tự liên hoàn, Thuấn tức thông thành nhất đại khuyên
Quyển nhu điểm duyệt hốt kinh ngạc, Hàng ma bất trị bán văn tiền
Hắc ám ký phi tiền độ bạch, Oanh vu hựu cải cựu thời viên
Hô hoàn nã úng niệu nhất niệu, Niệu thủy chi thanh như phi tuyền
Phi tuyền liễm diễm khứ bất phản, Dương phong đả lạc đào hoa phiến
Đào hoa kiều khiếp bất thắng phong, Phong liễm hoa hồn do giác quyện
Doanh doanh liễu cốt sấu tam phân, Triệp triệp tương la khoan nhất bán
Để sự tuy nhiên bất sát nhân, Mộ vũ triều vân an thục lạn
Tự tòng kì khổ đắc kì hoan, Hoan hậu khước vong cựu khổ gian
Bất hoạn ngư ông huy điệu sáp, Dung dung đào lãng trướng bình than
Tả cúc hữu mô thám hoa tủy, Oanh bất đình thoa điệp bất lan
Ngọc dạng hương tao thất hại tu, Thượng lâu hạ nữu viên đoàn đoàn
Phong tình đãng dạng hoa tâm cấp, Khủng phóng đông quân khoảnh khắc gian
Man nhân lão thực đa cao hứng, Bất hội khinh thiểu chỉ hội toàn
Phù thế thanh vân như quá khách, Nhất sinh kỉ độ thác xuân miên
Khâm trù lạc xứ vô di hạ, Si tuẫn không danh ngộ ngọc nhan
Bất kiến cẩm cơ chi phấn đội, Tây binh khứ hậu kỷ nhân hoàn
Thùy tương thử vị ngữ tỉ muội, Giá lang cập tảo giá Tây Sơn.
Dịch nghĩa:TÂY SƠN HÀNHBấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ tới Kinh thành, Hoàng đế Cảnh Hưng gả công chúa Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ, cho nên có bài thơ này.Bờ cõi thanh bình đã hai trăm nămỞ nơi thâm cung xuân sắc, người đẹp bị khóa chặtCô đơn nằm trên nệm gấm hồng tươiSay giấc mộng bướm dưới lớp áo hoa biêng biếcKhông phải là thần tiên không có người sánh đôiMà cám cảnh thơ ngây bỗng vương lòng lưu luyếnSong the hiu quạnh, bông mai đượm tuyếtVườn uyển sâu thẳm, liễu ám khói sươngMùa hoa đi qua, xuân cũng đã hếtCánh hoa tàn, tơ mành buông, thật là đáng thươngTùng Tùng! Đâu đó vang lên tiếng trống ven thànhLũ rợ Kiệt đến, bụi mù khắp Tràng AnChưa cuối hè mà đã có gió lay láĐương xuân chín mà bỗng lác đác giọt mưa bứt hoa.Đấng mày râu không có gan giữ được cung thànhĐể bực quần thoa phải gán thân cho giặc mạnhCon gái Thiên vương phải làm phi cho Thượng CôngNào phải bậc chúa hoa tầm thường.Để tỏ lòng tôn vinh đối với hoàng tộcSính lễ cùng nghi thức hết sức đặc biệtNgựa xe như mây nước, tùy tòng mặc toàn gấm vócĐám phù rể phong lưu, áo mũ xênh xang.Bọn phu quạt, phu khiêng kiệu đều lạ lùngNgười kinh đô thấy đều gọi là ‘cha’Ai cũng hâm mộ chú rểCòn cô dâu trông thấy chàng rể thì buông đôi tay.Quần áo thì sặc sỡ diêm dúa, giọng nói thì trọ trẹDáng dấp ngang tàng, da dẻ nhăn nhúmTrên đầu chất cao cái khăn của Trương GiácGiữa chân không mặc cái quần của Hàn TínỞ bên trong, một vật trông rất nguy ngaCùng với tứ chi, sừng sững thành năm ngọnLúc tĩnh lặng, giống như cao tăng nhập tọaLúc động đậy, tựa như võ biền vừa hát vừa múaChẳng nói chẳng cười chẳng từ tốnGầm lớn một tiếng, mãnh liệt như hổNghìn cân sà xuống, chồm hỗm chiếm bộ ngực như bơTức tối xé rách chiếc váy là đang che cặp đùi tựa tuyếtVật này ai cũng biết là có thể đâm ngườiNgúc ngoắc rồi chọc vào cánh cửa êm ấmBông hoa kiều diễm trên cành bị oanh khùng giày vòCon oanh khùng không hề giữ gìn bông hoa kiều diễmLớp lớp màng hoa, tiếng xé vảiMảnh mảnh lò chì bốc lên những ngọn khóiRăng nghiến, xác thịt rung, mồ hôi như dầuNện bừa, rút quấy, làm không dừngPhút chốc, giọt hồng trinh rớt trên dải váyÂm thầm mấy độ xuân quaTrên thân thiếp hai lỗ tựa vòng khâuTrong nháy mắt thông thống thành một hốc lớnVén áo lót kiểm tra bỗng kinh ngạcBị sờ bóp không đáng giá nửa xuThâm tím, không còn màu trắng xưa kiaMéo mó, khác rồi khối tròn thưở trướcGọi a hoàn bưng chậu nước đi tiểu một cáiTiếng nước tiểu như dòng thác tuônDòng thác sóng sánh một đi không trở lạiNgọn gió thổi rụng cánh hoa đàoHoa đào kiều diễm, khiếp sợ, không chịu nổi gióGió ngớt, hồn hoa còn thấy mệt lảVóc liễu gày đi ba phầnÁo lụa gấp rộng một nửaViệc này tuy không đến nỗi chết ngườiNhưng cứ sớm mây chiều mưa sao lại không nát bét chứTừ khi chịu cái khổ lạ lùng lại được cái sướng lạ lùngSau khi sướng lại quên hết nỗi gian khổ ngày xưaChẳng lo ông chài khua chèo bị rítSóng đào bát ngát dâng ngập bờ cát phẳngVốc bên trái, sờ bên phải, thăm dò nhị hoaCon oanh chẳng ngừng luồn, con bướm chẳng ngăn cảnNgọc ngứa, hương gãi, không còn thẹn thùngTrên ôm, dưới siết, cuộn lại tròn voCuộc phong tình tràn ngập, lòng hoa bướm háo hứcChỉ sợ rời ‘chúa hoa’ trong khoảnh khắc.Kẻ man di thật thà, rất nhiều khi lên cơn hứngChỉ biết đâm dùi, chứ không biết nhẹ nhàng ve vuốtCảnh đời mây nổi, tựa như khách qua đườngCả đời được mấy lúc hưởng trọn giấc xuânThú chăn gối không phân biệt người Kinh, người rợSi ngây chuốc lấy danh hão, người ngọc lỡ lầmKhông thấy đám phấn son ở Cẩm Cơ saoSau khi quân Tây Sơn đi, có mấy thằng quay lại?Ai nấy hãy đem việc này nói rõ với chị em:Lấy chồng thì cứ sớm lấy bọn Tây Sơn ấy.Nguồn: Trần Quang Đức-BlogDưới đây là bản dịch thơ của Chuyết Chuyết Trần Trọng Dương:Cõi thanh bình hai trăm năm lẻChốn thâm cung khóa trẻ đương tơGấm tươi phô nét hững hờÁo hoa biêng biếc, bơ thờ[1] giấc xuânKhách thần tiên chưa lần sánh mộngLòng thơ ngây chợt động tơ vươngSong mai tuyết đọng chán chườngVườn hoa thăm thẳm khói sương liễu bồHoa đã rụng xuân hồ cũng hếtXác còn buông mấy nét tơ sươngThoắt thôi trống động biên cươngBao nhiêu rợ mọi ngập đường Tràng AnBuổi cuối mùa gió man lay láĐương xuân hồng mưa rã nhị hoaMày râu trốn hết đâu mà?Để cho má phấn phải ra gán mìnhThân công chúa thình lình thiếp giặcThân ấy đâu phải bậc tầm thườngHoàng cung quốc sắc thiên hươngThì thôi sắm lễ tiện đường rước điXe như nước ngựa phi giăng gấmPhù rể trông cũng thậm xênh xangLạ lùng tôi tớ khiêng sangLê dân Kẻ Chợ bàng hoàng xuýt xoaHâm mộ ngắm chàng ta rể quýNàng Ngọc Hân gạt lệ xuôi tayNgười đâu trọ trẹ thế nàyDa thời nhăn nhúm, dáng rày[2] ngông nghênhKhăn với áo xông xênh diêm dúaGiữa hai chân không khố lão HànBên trong một vật hiên ngangNgũ chi sừng sững như đang thượng tòaKhi lúc lắc tựa là nhảy múaChẳng nói năng sấn sổ xông raCọp gầm hùng hổ chu choaNghìn cân sà xuống một tòa thiên nhiênXé toạc váy giở miền ngà ngọcVật này ôi đã xọc thân hoaXăm xoi ngúc ngoắc vào raOanh khùng khục tiếng, hoa dà dà sonÔi giày xéo hoa don vật vãNhụy non tơ rách tã còn đâuHơi hùm bốc khói trên đầuThịt rung răng nghiến như dầu bôi thânChọc bừa đâm quấy tần vầnGiọt hồng cứ giỏ mấy lần nếp voanÂm thầm bấy, mầu xoan vuột mấtNhụy thuở nào e ấp xinh xinhThoắt thôi hoang hoác thân[3] mìnhNhìn xem xiêm áo thất kinh rụng rờiThân vàng ngọc đáng thời nửa cắcMàu trinh nguyên đã mất vẻ xưaNgực non méo mó dật dờBuồn cơn đổ xuống một bờ thác tuônThác đã tuôn cũng khôn níu lạiCánh hoa đào gió tãi nào vunE rằng gió giật chăng dừngHồn hoa mệt bã vô chừng bấy hoaThân liễu yếu ngót ba phần đủXiêm y thay, thít chửa vừa thânMây mưa đã giãi phong trầnTuy chăng mất mạng, cũng dần nát tanCàng đau lạ lại càng sướng lạSướng này thôi cũng hả đau kiaChèo khua chẳng ngại gẫy chìaSóng đào bát ngát dâng kìa bãi xaĐôi trái cấm xuýt xoa kia nọOanh chăng ngừng, bướm tỏ nguồn yêuNgọc ngà ngứa ngáy hương phiêuTrên ôm dưới siết còn đâu thẹn thùngCuộc phong tình bướm hoa háo hứcChẳng nỡ rời một lúc một giâyVũ phu hứng động dâng đầyVuốt ve chẳng đoái, cuốc cầy quen chânCảnh mây nổi một thân làm kháchKhách qua đường chớ trách mộng xuânGối chăn đâu cũng xoay vầnDanh suông để hão, trong ngần vấy nhơĐám phấn son Cẩm Cơ chửa đủGã Tây Sơn liệu có quay vềViệc này nói tỏ cho nghe :Lấy chồng cứ lấy chẳng nề quân Tây !-------------
[1] Bơ thờ (từ cổ): uể oải, lười.[2] Rày: nay[3] Theo nguyên bản nên dịch là “cửa”, nhưng nay đổi chữ cho nó đỡ dữ.*Phụ chép: Tiểu sử của Trần Danh Án – tác giả của bài Tây Sơn hành:Trần Danh Án (1755 – 1794), người xã Bảo Triện huyện Gia Định – nay là thôn Bảo Triện, xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Cháu Trần Phụ Dực, con Trần Danh Lâm.Thi Hương đỗ Giải nguyên. Thi Hội đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787) đời Lê Mẫn Đế.Làm quan đời Lê Chiêu Thống đến chức Viên ngoại lang, hành Chiếu khám. Khi Lê Chiêu Thống chạy lên vùng Bắc Giang, ông đang giữ chức Nội hàn, đi theo làm tùy tùng. Chiêu Thống chạy sang nhà Thanh, ông ở lại quê nhàm cùng Trần Quang Chân, Dương Đình Tuấn dấy binh chống triều Tây Sơn. Khi nghe tin Chiêu Thống chết ở Trung Quốc, ông gào khóc thương tiếc rồi mất.Nguồn: Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919. Ngô Đức Thọ chủ biên.
Nxb. Văn học, Hà Nội, 2006. trang 645.