Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THÚ NHÀN VÀ SỰ GẶP GỠ CỦA CÁI TÂM

Vũ Bình Lục
Thứ tư ngày 24 tháng 2 năm 2010 5:07 PM

Những nhà Nho chân chính ở Việt Nam thời Trung đại, thường gặp nhau ở một điểm cơ bản dễ thấy, đó chính là lý tưởng đại dụng: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Bởi thế, họ ra sức dùi mài Kinh Sử, mong được đỗ đạt, bia đá bảng vàng, trước hết, để “vinh thân”, sau nữa là “phì gia” và cao hơn là giúp vua giúp nước. Xét cho cùng, đó là lý tưởng sống đẹp đẽ, mang đậm dấu ấn lịch sử và tinh thần thời đại. Điểm thứ hai, cũng dễ thấy ở các nhà Nho Việt Nam là quan niệm “xuất” và “xử”. Nghĩa là gặp “chúa Thánh vua Hiền” thì gắng đem hết tài “Lương đống” với mong mỏi “Những vì Chúa Thánh âu đời trị” ( Nguyễn Trãi). Nhưng khi gặp thời loạn, ước mơ một xã hội “vua Nghiêu Thuấn dân Nghiêu Thuấn” không phỉ sở nguyền…thì họ sẵn sàng cởi áo từ quan về sống cảnh thanh nhàn, xa lánh chốn quan trường “đào mận ngặt chăng thông”, dơ bẩn, cố giữ mình trong sạch thanh cao. Khí tiết nhà Nho như thế, thật là những nhân cách lớn, đủ để làm tấm gương cho đời soi chung! Đã có nhiều những nhà Nho như thế xuất hiện trong suốt chiều dài lịch sử các triều đại Phong kiến Việt Nam.

    Tuy nhiên, nếu như “chữ trinh kia cũng có ba bảy đường” (Nguyễn Du) thì chữ “Nhàn” với các nhà Nho Việt Nam, cũng thật lắm hình nhiều vẻ. Mỗi người, với những cảnh ngộ khác nhau, điều kiện lịch sử chi phối khác nhau, tâm tính khác nhau, bản lĩnh khác nhau, ngoài điểm chung có tính hình thức là lui về ẩn dật ở “nơi vắng vẻ”, cũng có chỗ khác nhau ở chữ “Nhàn” này. Xem xét trường hợp Nguyễn Trãi (1380-1442) và Nguyễn Bỉnh Khiêm (11491-1585) qua một số bài thơ tiêu biểu, sẽ thấy hiện lên chân dung đích thực của hai nhà Nho cỡ lớn của một thời kỳ lịch sử có biết bao biến cố thăng trầm.
    Trước hết, với Nguyễn Trãi, cái gọi là cảnh sống nhàn dật khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh xâm lược, có thể nói ngay rằng, đó hoàn toàn không phải là sở nguyện của ông. Nguyễn Trãi từng tự xem mình cốt cách thanh cao, tài “lương đống” đủ làm rường cột cho nước nhà, lại quý hiếm như “phục linh hổ phách”, ông còn muốn cống hiến nhiều hơn nữa cho dân cho nước, như “con ngựa già còn ham rong ruổi”. Bởi thế, tiên sinh chẳng muốn sống cuộc sống thanh nhàn mà ông hoàn toàn có quyền được hưởng. Nguyễn Trãi từng viết những câu thơ tâm huyết thế này:
            …Những vì Thánh Chúa âu đời trị
            Há kể thân nhàn tiếc tuổi tàn!...
                    (Tự thán-II)
Vậy nên, dù ông viết: “Rỗi hóng mát thuở ngày trường”(Bảo kính cảnh giới số 43), hoặc như có vẻ như lý sự:
            Một phút thanh nhàn trong buổi ấy
            Nghìn vàng ước đổi được hay chăng?
                    (Tự thán_XII)
Lại còn tỏ ra an phận, tự an ủi lấy mình:
            Lều nhàn vô sự ấy lâu dài
            Nằm ở chẳng từng khuất nhiễu ai
                (Tự thán-XVI)
    Thì đó cũng chỉ là một chút tâm tư thầm kín, một chút dỗi hờn bất đắc chí của kẻ có tài mà bỗng dưng bị vô hiệu hoá, thất sủng, bị gạt ra ngoài đời sống chính trị của đất nước, nhất là khi đất nước đang rất cần đến ông để sửa sang việc nước, củng cố hoà bình sau chiến tranh tàn phá. Nỗi đau đớn day dứt giằng xé trong tâm hồn Nguễn Trãi, phải tìm ở phía sau, ở phía khuất lấp của những câu thơ có vẻ “nhàn” mà nặng trĩu tâm tư của người anh hùng thất thế. Dẫu sao, chính vì có những năm tháng “thất nghiệp” như vậy, ức Trai tiên sinh mới có dịp gần đời hơn, gần thiên nhiên hơn và do đó, ông đã để lại cho đời những bài thơ Nôm vào loại kiệt tác, truyền mãi đến muôn sau!

    Nguyễn Bỉnh Khiêm ra đời sau cái chết oan khuất của Nguyễn Trãi gần nửa thế kỷ. Cũng lại tới gần nửa thế kỷ sau ông mới đi thi, đỗ ngay trạng nguyên triều Mạc Đăng Doanh. Những tưởng được đem tài học giúp đời, nhưng tiếc thay sở nguyện của ông chẳng thành. Ông dâng tấu xin vua chém đủ mười tám tên lộng thần tham nhũng, nhưng không được vua nghe theo. Trạng Trình liền cáo quan về thẳng, không mảy may băn khoăn luyến tiếc. Điểm này thì ông có phần hơi khác với ức Trai. Ông tự vui với thú nhàn, với tự do tự tại:
        Một mai, một cuốc, một cần câu
        Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào…
    Rồi ông tự xem mình là kẻ dại khờ. Ông đem cái dại cái khờ cái ngu của mình mà đối lập với cái khôn cái ngoan cái khéo của người đời:
        Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
        Người khôn, người đến chốn lao xao…
Câu thơ như thoáng một chút kiêu hãnh của bậc thức giả có thừa kinh nghiệm, có thừa từng trải việc đời, lại có vẻ như ngầm mỉa mai những kẻ thật là khôn  mà lại hóa ra là dại. Tiên sinh rất vừa lòng với cuộc sống ở “nơi vắng vẻ”của mình, dẫu cho cuộc sống sinh hoạt thường ngày có phần đạm bạc, đơn sơ, dân dã mà hoàn toàn trong sạch thanh cao:
        Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
        Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…
    Về sự dại sự khôn, trước Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm một thế kỷ, ức Trai tiên sinh cũng đã từng hào hứng “tuyên bố” rằng:
        Hễ kẻ làm khôn thời phải khó
        Chẳng bằng vô sự ngáy pho pho!
            (Bảo kính cảnh giới-XL-IX)

Tuy nhiên, ức Trai chỉ nói cho đỡ cơn buồn cơn giận, chứ làm sao mà ông có thể ngáy pho pho, bởi trong lòng ông chưa bao giờ yên tĩnh:
        Còn có một lòng âu việc nước
        đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung…
            (Thuật hứng-XXIII)
    Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, thực sự ông không hề muốn trở lại chốn quan trường đầy nhố nhăng, đầy mưu toan cướp giật và trục lợi. Bằng chứng là nhà Mạc đã nhiều lần mời ông trở lại, thậm chí ban thêm tước Trình Quốc Công nữa (khi ông cáo quan mới có tước Trình Tuyền Hầu), nhưng ông nhất mực từ chối mà thảnh thơi “ngồi xem phú quý tựa chiêm bao”, mà buồn cho cái sự đời đảo điên, buồn cho “thế gian biến cải vũng nên đồi”!

    Từ bỏ con đường danh lợi sau tám năm làm quan cho nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm sống thanh thản với thú nhàn ở nơi vắng vẻ. Ông cho rằng “ ở trong được thú vui của tâm, của thân; bên ngoài khỏi phải chạy vạy để phục dịch cho hình xác” (Cảm hứng). Tuy nhiên, tôi cho rằng cũng như Nguyễn Trãi tiên sinh, trong tư tưởng và hành động, cả hai ông đều chẳng có lúc nào nhàn đâu! Nguyễn Trãi, thì như đã phân tích ở trên, còn Trạng Trình cũng vậy. Ông ở quê, dù không tham dự chính sự một cách trực tiếp, nhưng tấm lòng ông không thể nguôi ngoai, không thể nào yên tĩnh, không thể nào “nhàn” được, vì đất nước còn lắm khổ đau, nhân dân còn lầm than, loạn lạc trong cuộc chiến giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến Lê-Mạc, rồi sau là cả Trịnh- Nguyễn…Lại thêm những cuộc nổi loạn của các loạn thần, những quan lại có thế lực bất mãn. Chiến tranh nồi da nấu thịt, huynh đệ tương tàn không ngừng không nghỉ. Bài thơ “Hữu cảm” có thể xem là tiêu biểu cho tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm được ông viết sau loạn cuối năm Nguyên Hoà thứ 14, đời Mạc Phúc Nguyên, tức năm 1546:
        Giặc dã ngông cuồng lấn đế kinh
        Vua lo, tôi nhục, thật thương tình
Mong vua, khắc khoải lòng dân vọng
Trừ bạo ai người dấy nghĩa binh?
Bốn bể theo về mưa móc cũ
Trời cao sáng lại sắc thanh bình…
Rồi tác giả kết luận bài thơ như một bài học lịch sử, như một tiếng chuông cảnh tỉnh, như một chân lý giản dị mà vô cùng sâu sắc:
        Xưa nay nhân giả là vô địch
        Lọ phải ôm hoài mộng chiến tranh
            (Vũ Bình Lục dịch thơ)

    Nguyễn Bỉnh Khiêm nói rằng ông muốn quên hết sự đời, tự nhận mình là Khách tiên; lại khi “Một mai một cuốc một cần câu / thơ thẩn nào ai vui thú nào”…nhưng thực ra ông vẫn luôn hành động. Ông cho dựng Quán Trung Tân để giao du cùng những bậc thức giả trong thiên hạ. Ông mở lớp dạy học, tự nguyện làm thầy đào tạo cho đời nhiều nhân tài lỗi lạc. Hóa ra, ông vẫn cống hiến cho đời ở một lĩnh vực khác thanh tao, trong sạch và cao quý. Việc ông tắm táp. ăn uống xuề xòa, thảnh thơi vô sự nói trong thơ, tôi ngờ rằng ông chỉ nói cho vui, thoang thoáng một tý tự trào cho đủ lệ bộ như một hàn Nho ngoài vòng cương tỏa của “chốn lao xao” mà thôi !

    Rõ ràng, Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, mỗi người một thời một thế. Có người quằn quại đớn đau, ngậm sầu nuốt tủi. Có người ăn chua uống chát, cố dấu đi bao nỗi niềm vào nghiên mực…Văn chương ức Trai cao khiết, sừng sững như Thái Sơn; còn cái tình của Phu Tử (Trạng Trình) thì dạt dào như sông Tuyết. Nhân cách nhà Nho của hai ông lại hoàn toàn tương đồng, đều là những nhân cách lớn, đối lập hoàn toàn với hạng nhà Nho tầm thường, hạng nhà Nho mà “Muốn chê họ, chẳng có gì chê, muốn trách họ thì chẳng có chỗ gì trách! Họ đồng hoá theo thói tục thông thường, họ dung hợp với cõi ô trọc. Họ có vẻ trung tín, hành vi của họ có vẻ liêm khiết. Dân chúng có vẻ thích họ mà họ cũng tự nhận mình là trung tín, liêm khiết, nhưng họ không thể cùng đi với đạo Thuấn, Nghiêu” (Tận tâm Hạ-Mạnh Tử). Khổng Tử thì gọi những hạng người như vậy là “kẻ thù của đức” Luận Ngữ)!

    Ức Trai và Tuyết Giang Phu Tử đều là những nhà văn hoá lớn, sư biểu của muôn đời. Buồn thay, cả hai ông đều là những người bất đắc chí, tuy mỗi người một cảnh ngộ khác nhau. Song có một điều thú vị là cả hai nhà Nho lớn này đều gặp nhau ở một điểm, ấy là cái tâm trong sáng và cao thượng. Yêu nước thương dân hết mực và suốt đời hành động vì nghĩa lớn cao cả, nhưng buộc phải “nhàn cư” vì thất sủng hoặc được trọng dụng nhưng vì chán ghét thời thế mà lui về để giữ mình khỏi chết chìm trong ô trọc, đó chẳng phải là bi kịch của những con người lỗi lạc hay sao ?

Đăk lắk 2004-Hà Nội 2010