Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

HOÀNG CẦM THƠ

Vũ Hữu Trác
Thứ ba ngày 2 tháng 2 năm 2010 9:13 PM
 
Con người từ mẹ sinh ra, nhưng muốn lớn được phải tách ra mẹ. Mỗi bước trưởng thành đi ra là một bước xa nguồn cội. Nhưng càng đi xa bao nhiêu thì lòng hướng về, càng nặng bấy nhiêu. Phải chăng đó là nghịch lý của phận người?
Bình thường không phải ai cũng bỗng dưng nhảy ra khỏi cỗ xe thời gian đang lăn về phía trước. Chỉ những khi vấp ngã, người ta mới quay về lòng mẹ để tìm sự an ủi, giải thoát. Hình ảnh người mẹ lồng trong khung cảnh quê hương thời thơ ấu, còn thi nhân thì dẫu muốn, cũng không thể được vỗ về hai lần trong lòng mẹ xưa.
Ta, con chim cu về gù rặng tre
Đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng,
đưa mây lành những phương trời lạ
Về tụ nóc cây rơm.
                                      (Về với ta)
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh.
Hôm qua thu mới về,
Với một cành hoa gẫy.
 Sương nặng gieo đầu tre,
Lạnh tràn theo gió đẩy
Có gì giống với “Thu” của Huy Cận.
Ta, con phù du ao trời chật chội,
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều nay
dềnh mặt nước hương sen
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
Đôi cá đòng đong
                                              (Về với ta)
Những bức ảnh ấu thời có nét phác mờ của giấc mơ, cả của huyền thoại chuyện cổ tích. Trong thơ những bức ảnh của hội hè đình đám xứ Kinh Bắc, ảnh của con người đời thường, muôn vật, cây cối… được bày biện cách ngẫu nhiên vẫn như bàn tay một đứa trẻ :
Tôi chỉ xin nàng đôi giọt lệ.
Cài lên lá cỏ phía quê hương 
                                            “Kiều Loan” - Hoảng Cầm.
Cuốn băng ghi hình bị xóa đi chỉ còn lỗ chỗ một ít hình :
Ngày Chị bảo em quên
Tranh tố nữ, long hồ gián nhấm
mất chân đi,
má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi,
thơ thẩn vách chiêm bao
                                     (Nước sông Thương)
Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
                                     (Quả vườn ổi)
Về Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với cánh đồng nhiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, với những con gà trụi, con châu chấu...và những con thú như hổ, voi, cá mập, sư tử, bạch hầu, hồng hạc, thậm chí cả cò bợ, ễnh ương, nhái bén... làm người đọc nhớ đến dòng thơ Nguyễn Bính. Có thể chỉ ra những khác nhau nữa giữa hai người, Nguyễn Bính dân dã, chân quê, thơ Nguyễn Bính thuần lãng mạn hơn, Hoàng Cầm thô thiển, hiện đại hơn. Thực ra, Nguyễn Bính bận tâm đến nông thôn và cả thành thị, sống ở đây mà vẫn nhớ ở kia, sống hôm nay mà vẫn nhớ ngày xưa. Đám cưới trong thơ Nguyễn Bính cũng gắn liền với ước mơ tình yêu, với sự thi đỗ “Võng anh đi trước võng nàng, Cả hai chiếc võng cùng sang một đò” (Giấc mơ anh lái đò). Chàng và Nàng hóa thân thành đôi bướm, cưới nhau... Đám cưới của Nguyễn Bính một là giấc mơ tình yêu thật, tình yêu đầy lãng mạn, đầy chất platonique, vui tươi, mầu sắc, và thỏa mãn.
Còn với Hoàng Cầm thì sống ở thành phố và đã trở nên mặc cảm với cái cũ ở thôn quê, với tình yêu không thoả mãn. Cùng là viết về quê, nhưng những băn khoăn của Nguyễn Bính, không làm  Hoàng Cầm bận tâm. Hoàng Cầm để ý ở dạng phổ quát, thắc mắc với nó chính nó, để bóc lột nó năng đỡ nó tự vượt lên thành thơ, những cảnh Về Kinh Bắc là tâm cảnh của thi nhân. Và tâm cảnh ấy, đến lượt nó, vẫn thăng hoa một cách vô thức trong ông.
So sánh Hoàng Cầm là đã phần nào so sánh thơ ông với Thơ mới, không chỉ có lãng mạn như trước đây người ta nhầm tưởng. Đám cưới thơ Hoàng Cầm là giấc mơ buồn. Nhiều khi đó chỉ là giấc mơ con trẻ đóng giả
Ngựa Ô truy lao cầu vồng Yên Thế
Râu cằm rừng quanh ánh mắt sao bay
Ngựa Ô truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề
Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ
Nắng nhe cười
Trai Cầu Vồng Yên Thế đã ra đi
                                        (Khói Yên Thế)
Từ con ngựa sắt của Thánh Gióng
Vó ngựa đào ao hồ liên tiếp mãi Đông Anh,
đến đàn ngựa chiến:
Đàn lính ngựa vua nuôi
Bỗng lừ đôi mắt mỏi
Phi dài vệt khói
Cánh dăng dăng quan lộ
Áo nẹp vàng lên chín ngọn Hồng Sơn
                                             (Ngựa 2)
Hình tượng ngựa gắn liền với đình chùa, với tâm thức dân gian kiểu “Nhong nhong ngựa ông đã về. Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn”
và nói về các cô gái cắt cỏ ngựa, phảng phất chất Hoàng Cầm :
Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ,
 Ngửi hơi chồng quanh quất cửa Đông Nam...
Thật khác hẳn Hoàng Cầm còn ví cả với thực vật, như người đàn bà luôn được được ngắm nghía từ nhiều hướng :
Hàng tre nhả yếm.
Hàng răng nuột nà xít xa dóng mía.
Vú xuân đường phèn căng bưởi Nga mi.
Môi hè thạch nón hé dưa hấu tía,
Cốm sen cuối cành gói lá đài bi.
Em gánh gạo về dinh phú hộ,
Nứt vai thành sẹo lá lan đao.
 Hoàng Cầm sinh ra, mẹ đã phải vượt cạn một mình, bố bỏ đi, mẹ một mình tần tảo nuôi con. Nhà thơ đã cố hiểu “Không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi, hay nhiễm chính nỗi buồn của mẹ, người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm?”. Nỗi buồn ấy thực ra là sự mặc cảm, mà ngay cả đến bây giờ, ông vẫn chưa ý thức được. Ông mô tả mẹ mình, nhìn mẹ bằng cặp mắt đàn ông. Còn khi nói về bố thì lại bằng cái giọng pha chút giễu cợt. Tình yêu với mẹ ấy đã sớm được chuyển sang Chị là cô hàng xóm để có những nét tương đồng nào đó giữa Mẹ và Chị. Theo ông cả hai người đều đẹp và hát quan họ rất hay.
Hoàng Cầm rất nhiều kỷ niệm về mẹ. Thường trực trong ông là nỗi sợ mất mẹ, sợ mẹ bỏ con đi lấy chồng :
Chị lỡ xe hồng
Mẹ đi lấy chồng
Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
Cắm bốn que tăm
Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo
Phần Mẹ khúc đuôi tròn
Phần Chị cả mình thon
Phần Em hai chân ngơ ngác
Tăm cắm chật bình hương
Em xít xa tập khấn
Chắp tay nhìn nghẽn nghìn phương
                                                 (Đợi mùa)
Đứa con luôn sống sự mong đợi mẹ về :
Mùa chưa về
Tú hú gọi
Em đi tìm Mẹ
Dãy tre xa giấu biệt giải khăn điều
Khi gậy nắng ăn mày quăng sau núi
Hàng tre nhả yếm
trả Mẹ về,
lều dột mưa đêm,
thì Chị đi mấy lối chân chim
Để Mẹ về bao phương bèo nổi
Riêng Em nằm trơ đợi giờ tu hú gọi
                                                      (Đợi mùa)
Mẹ Hoàng Cầm là một cô gái làng Bựu, một làng quan họ nổi tiếng, nơi cũng đã sinh ra bà Trần Thị Tần, mẹ thi hào Nguyễn Du. Bà là một cô gái quan họ, có giọng hát hay lại có nhan sắc. “Một cô gái Kinh Bắc óng ả, kiều diễm, có đôi mắt lúng liếng tình tứ rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển mà thanh tao. Khi mẹ mặc chiếc váy lụa kiểu Đình Bảng, mép váy buông chùng như những nếp như cửa võng, ai trông thấy phía trước đều tưởng như người con gái ấy đang đi trên sóng dập dờn”. Một người đàn bà tài sắc. Còn bàng bạc một hình hài Hoàng Cầm tự sự “Bố nguyên là một nhà nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi cái cấp hạng bét là Tam trường, bất đắc chí, bỏ đi dạy học lang thang, rồi làm thầy lang cũng lại lang thang chữa bệnh khắp huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang”.
Sự đợi chờ như tuyệt vọng. Mùa tu hú đã hết, bầy chim đã về ngủ ở một cánh rừng xa nào đấy. Hình ảnh người Mẹ và Chị cứ lẫn nhoà vào nhau, tạo nên những đặc điểm và đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm. Trong nỗi nhớ cậu bé, càng trở nên đẹp hơn:
Ai về bên kia sông Đuống,
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen,
Những cô hàng xén răng đen,
Cười như mùa thu tỏa nắng –
                                     “Bên kia sông Đuống”).
Khấn thầm như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Cổ tay tròn đẫn mía gie
                                       (Đợi mùa)

 Ta có thể thấy ở Lá Diêu Bông những ý nghĩa khác nhau. Có người cho đó là chiếc lá hoài tưởng, như bài viết của Thanh Thảo, bài phổ nhạc của Phạm Duy. Có là tình yêu  như bài phổ nhạc của Trần Tiến. Còn có người cho đó là về chiếc lá của dân gian như phổ nhạc của Lê Yên. Có thể tất cả đều có ý nghĩa nhưng đúng hơn là hệ quả của sự mặc cảm tự thân.
Hai ngày Em tìm thấy lá
Chị chau mày
đâu phải lá Diêu bông
Mùa đông sau, Em tìm thấy lá
Chị lắc đầu,
trông nắng vãn bên sông.
Ngày cưới Chị
Em tìm thấy lá
Chị cười xe chỉ ấm trôn kim.
Chị ba con,
Em tìm thấy lá,
Xòe tay phủ mặt, Chị không nhìn
                                       (Lá Diêu bông)
Những câu quan họ tình tứ, lẳng lơ không chỉ quyến rũ trai gái đương thì, mà còn thức sớm tình yêu ở cả cậu trai “miệng còn hơi sữa” Hoàng Cầm. Hoàn cảnh này thật là điển hình trong thơ ông. Một buổi tối ngồi chầu rìa đám chơi tam cúc, không gian ấm cúng ổ rơm, có sự gần gụi ấy:
Rút trộm rơm nhà đi trải ổ,
Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì
Hơi tóc ấm hồng, má đỏ,
 Môi còn đọng tuổi đương thơ.
Gọi đôi, xe hồng, sấp ngửa…
                                     ( Cây Tam cúc).
Hoàng Cầm, bút danh của nhà thơ, là tên một vị thuốc đắng, dường như để bổ sung vào thơ.
Thi sĩ biết yêu từ tuổi lên tám không phải là chuyện lạ lẫm không hiểu được. Tình yêu của Hoàng Cầm với Chị (chị Vinh), đặc biệt ở chỗ Chị là người hơn tuổi. Rồi “Một chiều thứ bảy, khoảng hơn bốn giờ, tôi về nhà thấy một cô gái đang mua gì của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nhìn ra đường, thì cậu bé tám tuổi là tôi choáng váng cả người. Thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ tình đầu tiên, viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học trò, trong còn có vẽ hoa, vẽ bướm, vẽ một vài ngọn núi, một dòng sông với chữ viết đậm màu mực tím, nắn nót : “Em gửi chị Vinh của Em”.
Qua năm bài thơ Em, Chị, có thể thấy được từ cảm hứng của nhà thơ có lúc ước muốn cưới xin để thỏa, có lúc có pha trộn một chút tình dục như đôi Cây Tam Cúc. Trong xã hội cổ truyền, giấc mơ tình dục chỉ có thể thỏa mãn được sau hôn nhân. Với một người con gái tuổi hơn cũng vậy, nhưng ở đây là không chấp nhận được (Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi) vì không hợp lẽ (Cỏ Bồng Thi) rơi vào tình trạng nước đôi, vừa yêu vừa ghét, vừa thương mến vừa hờn giận, vừa muốn quên vừa mong nhớ (Nước Sông Thương). Đây cũng là cấu trúc cảm hứng của toàn bộ tập Về Kinh Bắc, và rộng hơn toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm.
Bài thơ diễn ra trong một không gian buồn, cánh đồng chiều sau thu hoạch chỉ còn trơ lại toàn cuống rạ, có thơ thẩn hai bóng người.
Chị bảo…
Đứa nào tìm được Lá Diêu Bông.
Từ nay ta gọi là chồng
                                            (Lá Diêu Bông)
Hóa ra, Chị đi tìm…tình yêu, Em đi tìm…cũng thế, tình yêu. Huyền thoại thuở khai thiên lập địa, loài người khi đó chỉ mới có hai chị em. Họ chia tay mỗi người một ngả đi tìm cái đó, hẹn nhau gặp ai thì yêu lấy người ấy. Nhưng có ai đâu, vẫn chỉ chị gặp em, em gặp chị. Và thế là chị phải lấy em. Khi loài người đông đàn dài lũ hiện nay thì không thể cho phép cái tình ấy được. Chị biết thế nên Chị đã đưa ra lời đố là tìm một chiếc lá không hề có, để cái tình kia là không thể có. Nhưng Em vẫn cứ tìm thấy lá. Nhà thơ chỉ nói Em tìm thấy lá chứ không nói là tìm thấy lá Diêu Bông. Chị chối là đâu phải lá Diêu Bông, nhưng thực ra cả hai đều hiểu lá ấy là gì rồi. Không gióng như cuộc chơi của trai gái thời xưa, đố lá để thỏa lòng tìm hoa lại không phải như vậy. Đây là chuyện nghiêm túc. Bởi vậy, cứ mỗi lần Em tìm thấy Lá thì đau khổ của chị cứ tăng dần. Chị Chau mày,  đâu phải lá Diêu Bông chối bỏ cho qua chuyện, sau nữa Lắc đầu, Trông nắng vãn bên sông thẫn thờ. Rồi nữa Cười xe chỉ ấm trôn kim gượng gạo. sau cùng : Xòe tay phủ mặt chị không nhìn đau khổ.
Tình yêu chớm nở có chút đồng hành với tình dục, sự thức tỉnh giới tính đầu tiên ở cậu bé. Oái oăm là ở chỗ, tình cảm của Em dầnh lại là cho Chị. Điều đó là không được phép. Bởi vậy, muốn thỏa mãn được giấc mơ tình cảm đó chỉ còn có cách mơ được cưới, được lấy Chị. Trong xã hội truyền thống, tình dục chỉ có  được sau hôn nhân. Thơ tình Hoàng Cầm nói nhiều đến hôn nhân. Nhưng rồi giấc mơ ấy không thành:
Quan Đốc đồng áo đen nẹp đỏ
Thả tịnh vàng cưới Chị
Võng mây trôi
Một chiếc xe đen đi chân trời
                                      (Cây tam cúc)
Có thể nói, Hoàng Cầm vừa căm ghét quan Đốc đồng vì đã cưới mất Chị, vừa lại thèm muốn được như ông, cưới chị.
Với truyền thống và bản sắc thôn dã quê hương, nhà thơ thấy được sự đè nặng của nó, muốn chống lại nó, đồng thời, lại tự hào về nó, muốn được trở thành nó, chí ít không được công nhận mối tình vô vọng của mình thì dấu nhẹm đi. Có thể quan Đốc đồng dựa vào quyền uy hoặc thả tiền bạc để cưới chị. Sự vỡ mộng với Chị có kèm theo ác cảm và số phận trong cuộc chơi của nó mà Chị hay Em chỉ là một Cây tam cúc, hoặc do tính tự thân của Lá Diêu Bông.
Lá Diêu Bông là một ảo tưởng tình yêu của cậu. Lá Diêu Bông, cũng như Đền Bà Sấm, Bến Cô Mưa, không phải là có thật. Nhưng có một sự thật là Lá Diêu Bông, do âm hưởng, gợi đến lá vông hay hình dạng chiếc lá như bộ phận kín của nữ : “Ngồi lá vông, chổng mông lá chốc” , “Ngồi lá tre, tè he lá mít) (ca dao), Hồ Xuân Hương: “Đố ai biết được vông hay chốc” về thân thể người phụ nữ, về giấc mơ có một thứ lạ ở cậu bé.
Thực ra, Chị đứng cũng đang trước một sự thật cũng đau khổ như Em. Em chưa hiểu vì còn trẻ hơn, nhưng khó nói được. Rõ ràng là một thứ trái cấm. Vậy mà Em cứ theo Chị đằng sau :
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang
Em gốc cây
Xin Chị một quả chín!
Quả chín quá tầm tay
Xin Chị một quả ương
Quả ương chim khoét thủng
                                    (Quả vườn ổi)
Chị leo lên cây, xoạc chân trên cành ngang hái quả. Em đứng ở gốc cây. Chị trở thành trái cấm. Nhưng vì Em nhìn Chị xoạc cành ngang, làm thành hình ba cạnh, có  tam giác trên. Em ở gốc cây, giống như “Có cây mà chẳng có cành, Có hai hòn đá để dành gốc cây” (ca dao) thơ đã định nghĩa ý nghĩ cậu bé, Trong Cỏ Bồng Thi: 
Chị đưa em đến bến này
Cheo leo mỏm đá
Trước vực. Sau khe
Thòng lọng gì quấn gót
Tua khăn buông còn buộc búp hoa lan
Ù ù gió thổi,
Em vọng ai đâu mà hóa đá.
                                   (Cỏ Bồng Thi)
Đã ở ngoài sự cho phép. Thế đứng lại cheo leo mỏm đá thì dễ gặp phải nguy hiểm. Cuối cùng, tình cảm đó phải dừng lại ở sự nước đôi muốn, quên… rồi không quên, theo nữa là… thương, giận, ghét, yêu.
 
Đó còn là tình yêu trai gái và có lẽ thêm là sự phóng chiếu của một tình cảm khác, gây ra những chấn thương tâm lý ở tuổi dậy thì sớm lúc ấy của Hoàng Cầm. Ở những người thời thơ ấu có những ám ảnh huyễn tưởng, thì phức cảm này dâng lên và trong hoàn cảnh đặc biệt sẽ cuộn thành một cơn xoáy day dứt, dài mãi, mà sự giải tỏa nó là vô cùng khó khăn, có khi là của cả đời người. Hoàng Cầm thành một người có thơ như thế.
Việc sáng tác bài thơ Lá Diêu Bông là một trường hợp theo tác giả: “Chẳng có chuyện gì phải lo nghĩ, chẳng có ý định gì trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được. Im lặng. Chợt bên tai văng vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm rãi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về”. Yêu mà vẫn Em Chị, ngôi thứ không hòa đồng thì chỉ có thể là một tình yêu mặc cảm. Bởi vậy, Lá Diêu Bông là ước mơ bất hợp đã chi phối suốt cả cuộc đời Hoàng Cầm.
“Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa xa xưa, vừa đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực như mê mà tỉnh, lúc như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, thì hình ảnh mẹ hiện lên cũng bàng bạc bao phủ cả tập thơ. Cậu bé cứ cầm trong tay chiếc Lá Diêu Bông đi xuyên suốt thời gian”. Có thể nói Lá Diêu Bông là chiếc lá định mệnh của Hoàng Cầm, chính nhà thơ cũng tự nhận như vậy.
 
Mảnh đất Kinh Bắc vốn nhiều hội hè, thời gian hội hè là một số những e dè được cởi bỏ. Hội hè có mang ý nghĩa phồn thực nhưng nhạt dần chất linh thiêng, đậm lên chất tục. Hội hè Kinh Bắc không chỉ là truyền thống văn hóa dân gian, mà hội hè là mặt chủ yếu của đời sống phi chính thức. Hội hè đã cân bằng lại đời sống thường ngày, giải tỏa bớt những cấm kỵ với đàn bà, mở rộng cả với đàn ông, điều mà chú nhóc Hoàng Cầm bấy giờ chưa được phép làm. Hội hè đã biến cái không thể thành cái có thể trong thơ Hoàng Cầm...
Những người đàn bà đã tìm lại được mình trong các hội thi trổ tài khéo léo:
 Ới đêm Đông Hồ
 Nát nhầu thân tố nữ
 Sợi bún ngà vá lại dung nhan
                                    (Thi sợi bún)
Cô gái được giải tỏa cái ham muốn trong “Thi ăn mía thổi cơm” :
 Bãi mía sông Cầu reo đáy bát
 Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
 Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa
Về Kinh Bắc là về với một vũ hội hóa trang với các âm thanh, nhịp điệu. Các hình ảnh, màu sắc trong thơ tưởng như hỗn độn, thực ra được gắn kết với nhau bởi ẩn ngữ  Váy Đình Bảng, buông chùng cửa võng. Đến cả nơi tôn nghiêm cũng thế, Quan Âm như lỗng lấy bên trong màn bỏ chùng:
Chùa Phật tích ruỗi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mõ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng dịt lá trường sinh
Gió vô tình hay cố ý:
Gió vào trăm cửa
Gió ra hồng da trinh nữ
Gió vào xanh quan lục
Gió ra vàng thớ mít
Ong bay vai áo tiểu thon mình
Thập điện diêm vương mở hội
Ai lặng bên hè
Trong mắt trẻ lên năm
Trưa hè gãy rắc cành hoa dại
Mái hậu cung bồ các tha rơm
Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân
Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
Chuối chín cây đổ gục đứt dây bìm.
                                     (Đêm Thuỷ).
Hình ảnh người đàn bà là Đức Phật quan âm, đậm nhất và đẹp nhất có cái giống mẹ có cái giống chị và cũng thế thì lạ.
Hơi mẹ ơ hờ chỏm tóc tơ, Đêm được nằm mẹ gối đầu tay.  Đêm khoanh tròn ngủ tay bưng đầu, Ngón út thói quen rờ ngực yếm...
Một chút ấm ức cho tình yêu không thỏa mãn nổi bật, phổ vào trong thơ Hoàng Cầm. Một chút dục tình không như kiểu tính dục như Hồ Xuân Hương, chất dục nằm ngoài chủ định mà ngòi bút cứ hiện lên từ kín đáo, cho đến khi lồ lộ lên :
Hội Gióng dong chiêng
Bé em về nằm khoanh lòng mẹ
Nghe nghìn muôn năm sau
xoa nắn đôi bầu vú lụa
Sông dài sóng đôi
Mượt mà gò nổi
Cánh rừng rưng say
Hồng hoang hương ấm mấy chân trời
                                              (Nắng phù sa)
Ngủ lại giấc mơ dang dở
Chũm cau căng nứt mạch tằm
Yếm may ba ngày mẹ vá lại
Khuya nghe buồng động bóng đêm rằm
                                             (Đêm Mộc)
Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân
                                             (Đêm Thủy)
Chợp rạch dáng tiên vén xiêm xõa ngủ
                                               (Đêm Thổ)
Biểu tượng tình dục trong thơ Hoàng Cầm bắt đầu từ cái yếm. Yếm là một thứ y phục che ngực người phụ nữ Việt cổ truyền. Ngực cũng là bộ phận sinh dục vừa nhạy cảm, vừa lộ liễu nhất của cơ thể phụ nữ. Cái yếm dùng để che ngực nhưng đè vú xuống, khác với xu chiêng nâng vú cao lên, làm cho người ngoài không để ý đến nó. Nhưng màu sắc rực rỡ của yếm lại hút mắt với màu sắc nâu, son, điều, thắm. Hình dáng yếm kiểu cổ xây, làm người ta tơ tưởng:
Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
                                               (Hội vật)
Buộc mình phá những điều cấm kỵ
Hội tàn mau
Quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu
                                          (Hội Vân Hà)
Và phóng túng hình hài:
Luồn tay ôm say
Giấc bay lay đỉnh núi
Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
Đùi chảy búp dài thon nhún vội
Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh.
                                         (Thi đánh đu)
Và là xả láng, tung hê  áo yếm.
Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
Nuột nà cởi bỏ áo hoa khôi
Em không buộc thắt lưng thon nữa
Thả búp tròn... căng... nuột... ấy... ơi.
Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy
Một chiều e sợ
mấy chiều say
Đã phanh yếm mỏng thì quăng hết
Những nếp xiêm hờ giả bộ ngây
                                          (Hội yếm bay)
Có thể nói, thơ Về Kinh Bắc Hoàng Cầm là về với cả một Hội yếm bay.
 
Hoàng Cầm viết gửi cho anh mà không gửi nữa. Anh luôn trẻ như thế độc đáo như thế. Tôi chữa lại bài viết của mình “ Cầm ơi, Cầm ơi” và bài viết của bạn mình, chỉ để như một lời tri ân những điều anh đã để cho chúng tôi thấy được những góc sâu tròng lòng trong đời sống một người mà không chỉ của riêng anh. Xin nói lời tri ngộ này cho chuẩn bị ngày sinh của anh.