Những năm cuối đời của nhà thơ Thế Mạc, thi thoảng tôi mới có việc về qua thị xã Sơn Tây. Nhưng không phải lần nào tôi cũng thăm anh được.
Biết anh bị bạo bệnh, đi lại nói năng đều khó, cảm thấy mỗi lần gặp anh, như đều khiến anh buồn thêm (người bạn cùng trang lứa với mình vẫn hoạt động mà mình thì chỉ nhỉnh hơn loài thực vật do biết đau buồn) Đó là cách hiểu thường tình! Tôi còn hiểu anh ở một chiều kích khác…Hơn một lần, tôi gặp anh trên đường phố Sơn Tây, tập đi với cây gậy nhỏ, lặng lẽ như cái bóng, khó nhọc, kiên trì… Vẫn nụ cười hiền, nhưng đâu rồi những câu đùa phụ họa ý bạn, làm vui lòng bạn!
Thế Mạc sinh vào ngày đầu tiên năm 1934, thì ngày cuối cùng năm 2009 tôi nhận được tin anh mất. Vậy là gần chục năm cuối đời, anh kiên trì lặng lẽ đi như vậy, kiên trì níu sự sống trên từng viên gạch lát ngõ phố, góc hè thân thuộc…để gắng sống tròn 76 năm đời mình.
Càng cao tuổi, con người như càng quan tâm đến tuổi, đến sức khoẻ, sau mới đến hành trạng, sự nghiệp của bạn mình. Tôi đã in vào bìa 4 tập thơ Dưới lá xanh của mình một câu chiêm nghiệm, không biết có phải là thơ không: Đến một tuổi nào/ Người ta chẳng cần hoa/ không cần quả/ Chỉ cần/ Một đọt lá xanh! Hoa như là Tình yêu, Quả như là sự nghiệp, còn đọt lá non như sự sống xanh ngời.
Tôi có thời gian dài gắn bó với hai vùng đất Hải Phòng và Hà Tây thì mỗi nơi đều gặp một người bạn đồng tuế với tôi: Bùi Ngọc Tấn - Hải Phòng và Thế Mạc - Sơn Tây.
Đó là thế hệ nhà văn xuất hiện đầu thập kỷ 60 của thế kỷ trước với niềm tin trong sáng thuở ban đầu…hầu hết được quy tụ ở cái mốc Hội nghị những người viết trẻ Thái Hà Ấp 1959. Chúng tôi như cùng xuất phát từ một cuộc chạy maratông, điểm xuất phát thường đông đảo, ồn ã, nhưng sau vài thập kỷ, như nhận định của Bùi Ngọc Tấn “…số người thành đạt ít thôi…còn phần đông lớp tuổi tôi “máu me” ngày ấy, hình như sự cay đắng, vất vả nhiều hơn…” (Viết về bè bạn NXB Hội nhà văn, 2005).
Có lẽ Thế Mạc là người vất vả hơn trong ba chúng tôi, mặc dầu Bùi Ngọc Tấn bị thiệt thòi nhiều nhất. Trong nghề viết, có một thứ vất vả lặng lẽ. Cứ âm thầm tích tụ năng lượng, âm thầm đào bới suy tư mà viết. Thỉnh thoảng có nhô lên bề nổi, như Thế Mạc, từng được giải thưởng thơ báo Văn Nghệ từ 1960, giải thưởng thơ báo Độc Lập từ 1961, cái thời giải thưởng thật hiếm hoi! Bước mở đầu đã chứng tỏ năng lực thơ anh!
Rải ra sau đó trong vòng 45 năm, vài giải thưởng vùng miền, giải thưởng chuyên ngành, nổi nhất là giải thưởng thơ Hội Liên hiệp VHNT Việt Nam năm 1994, chưa đủ ghi dấu ấn đậm trong giới thơ luôn có những ngôi sao thay nhau lên ngôi rồi mờ nhạt. Những năm anh dạy học trên miền núi, khó có mặt trong những cuộc họp hành ở Hà Nội. Anh lại không làm thơ theo dòng thời sự, nên ít có mặt trên trang báo. In tập, in chùm cho cánh trẻ (thời đó có anh) thường ưu tiên thơ từ mặt trận gửi về. Cho nên trong toàn tập Thơ Thế Mạc ( NXB Hội nhà văn, 2003), ta thấy anh có đến 8 tập thơ bản thảo, nhưng trước đó, anh chỉ in hai tập Hồ (1994) và Nguồn (1998) giữa dòng thơ xuất bản như thác lũ. Cho nên có những thời gian dài người đọc quên có anh!
Ngoài những giờ giảng dạy kiến thức và lẽ sống cho học trò, anh hết sức kiệm lời, kiệm chữ, kiệm giao du…In hai tập thơ, mỗi tập đặt cho một cái tên rút gọn (Hồ và Nguồn) không chỉ là biểu tượng cho mỗi tập thơ mà cho cả một không gian sống với chiều kích khác, lạ của đời anh.
Hạ sơn, về dạy học ở vùng xuôi, lại là thị xã nhỏ Sơn Tây, lần này bản tính khiêm nhường, tự trọng, kèm với bao nhiêu khó khăn vật chất, nhiệm vụ làm thày, nghĩa vụ chủ gia đình một nhà giáo vốn thanh bạch, không thuận cho giao du, không ham những chuyến về Hà Nội gặp gỡ bạn văn. Gần Hà Nội mà vẫn như còn trên đỉnh xa Tây Bắc…
Nhưng không phải do những điều kiện khách quan, cách sống ẩn dật là chọn lựa, là đạo sống, đạo viết của anh. Anh như nghe được từng động thái tế vị của trời đất: Tín hiệu bắt đầu từ tầng mây thiên cổ/ Vườn trúc vút cần cao rung rinh/ Ở tầm xa rung tần số riêng mình - Vườn trúc đỉnh núi), anh dương những ăng-ten tâm linh như vườn trúc ấy! Thì thầm đá cũ thời gian/ Kiếp người, kiếp hổ, kiếp mây tan (Hương đá - Hồ). Anh liên thông với suối, mây, cây cỏ, trầm ngâm như con rùa đá thung sâu…Anh không bị chia nhỏ mình ra vì những mối giao lưu cần thiết và không cần thiết, nếu như anh nhận một công việc xứng với tài năng kiến thức của mình ở nơi trung tâm đô hội.
Anh như một giàn khoan, cứ trụ vững một chỗ mà khoan, khoan sâu, khoan nữa, khoan mãi…Không chỉ nhằm tới đáy hồ sâu chiều không gian, mà còn khoan ngược về nguồn những huyền linh cổ tích. Xuống núi mà không xa núi, điểm tựa của anh là Ba Vì tảng trán xanh/ Thức với mây Đoài trắng xóa (thơ Quang Dũng), là một vùng địa linh có hai vua với vị sứ thần làm rạng danh đất nước, kề cận một Phong Châu nguồn cội. Nguồn cội thơ anh tìm về còn xa hơn nữa, như với bà Mẹ lớn của vũ trụ cùng uyên nguyên trong trắng thuở khai thiên…
Đọc thơ Thế Mạc giai đoạn Hồ và Nguồn, cứ như được thoát trần, sang cõi tâm linh nào với một vị đạo sĩ - nhà thơ Thế Mạc:
Ta là quả của Người vừa mới nứt
Một hạt u linh vừa vứt xuống trần gian
Ta bỗng thấy đi trong chiều nhị hợp
Tay ôm hoa, vai vác túi trăng ngàn…
(Dốc Lễ Khê)
Đời người, đời một nhà thơ qua đi như tảng băng trôi…phần chìm của khối băng Thế Mạc lớn gấp nhiều lần bề nổi!
Thế Mạc đang đi trên hè phố Sơn Tây với cây gậy nhỏ, kiên trì, hướng về phía núi, như thực, như hư…
Chùm thơ Thế Mạc (1934-2009)
Xuân
Bài di chúc của mùa đông
Lời ngạc nhiên của mùa hạ
Tiếng thở than của mùa thu
Vì thế cuồn cuộn nước
Vì thế ấm áp khí
Vì thế nẩy lộc cây
Vì thế ta ngũ sắc.
Vì thế ta đắp chăn sương ngủ
Tiếng mê ú ớ rừng già
Sáng sớm hôm sau- rất xa
Từ núi rích ra hai dòng suối
Thác
Ta đã đi
Đã gặp may hay vận xúi
Mà gập xuống, đổ xuống
Một tiếng kêu hạnh phúc ầm vang.
Ta ập xuống nằm tan trong nguyên vẹn
Có lẽ thử đi sang đời khác
Hình hài này hay hình hài khác
Cũng gập ghềnh và bắn tung những nước
Đang tán chia những giọt buồn, giọt hát
Nhập và thành những tặng vật cho nhau
Đêm nghe thác
Hát hay là thèm khát
Trái tim đi! Hỡi em ngột ngạt
Ta đập mình vào đá mảnh vụn tung bỏng rát
Đừng nghĩ rằng tiếng quát, em ơi!
Hang
Chính là chỗ khổ đau sâu xoáy
Xô hoắm dòng thời gian
Húc vào đây rỗng toang ra một lỗ
Nước mắt cứ âm thầm rả rích
Xùi bao nhiêu thạch nhũ ở trên đời
Một mình thôi
Một mình đối diện mình trên vách
Không có khe hở nào
Sao có ai ghé vào nhắc nhắc:
Cõi này là cõi riêng ta.
Ta ngẫm vào mình lặng lẽ trong hang
Xóa nỗi buồn của một thú hoang.
Huyền thoại thơ
Mặt đất xưa phẳng lì
Như tờ giấy trải rộng
Ta đã chết trong chiều phẳng lặng
Dứt một quả bầu nậm
Và níu chặt một giây tơ
Sầu đã căng lên bao mơ
Chỉ còn một giây, người gảy
Đất cựa đi, nhúm lại
Đất xùi lên thành đồi.
Ma quỷ nhập hồn theo ma quỷ
Người ôm đàn nhẩy xuống đáy hồ
Ngồi khoanh tròn vẫn gảy
Nước xoáy tròn dưới đáy.
Âm thanh riêng chỉ người nghe thấy
Đêm nghe, mưa nghe, gió nghe
Trên mặt hồ hiu gợn sóng
Vơi
Già chưa đầy tuổi
Cô đơn chưa đầy hồn
Màu chưa đầy hồng.
Hồ chưa đầy nước
Cơn mưa chưa đầy trời
Cơm chưa đầy nồi
Lời chưa đầy nói
Gói chưa đầy xôi.
Thế thôi
Đừng! Chỉ sợ lòng ta nông quá
Sẽ tràn.
Xương rồng vàng
Như con rắn nhỏ đầy gai
Cha tôi để trên bờ tường đất
Rồng vàng bò mãi bò hoài
50 năm được một tấc.
Quanh năm lấm tấm hoa vàng
Lặng lẽ từng lời cha vẫn dặn
Thế thôi chớ nhiều lời cao sang
Một chút hoa vàng riêng mình là được!
Dốc Lễ Khê
Hôm ấy xuôi trần chưa kịp nhận
Vừa đỡ chân xuống dốc Lễ Khê
Đồi hoa giăng khắp bốn bề hoa giăng
Đồng thảo nữ , đồng thảo nam
Mẫu đơn đỏ ươm vàng đã cúc
Rồi tím hồng trinh nữ lúc xuân sang
Vâng
Quà gửi tặng của Người
Đã cắm khắp vùng đồi.
Ta là quả của Người vừa mới nứt
Một hạt u linh vừa vứt xuống trần gian
Ta bỗng thấy đi trong chiều nhị hợp
Tay ôm hoa, vai vác túi trăng ngàn.
(Hồ - Giải thưởng Hội LHVHNT Việt Nam, 1994)
Chùm thơ Vân Long chọn