(Đọc “Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chính quyền Sài Gòn” của Nguyễn Trần Thiết, NXB Văn hoá-Thông tin)
Nhiều bạn viết và giới làm sách đã “nghe đồn” về tác phẩm “khó in” này từ nhiều năm trước. Quả là không dễ viết về một nhân vật có nhiều cách nhìn nhận, đánh giá khác nhau như ông Dương Văn Minh (DVM) mà vừa bảo đảm tính chân thực, vừa có sức thuyết phục người đọc ở cả hai bên “chiến tuyến”. Có lẽ vì vậy mà đến nay, cuốn sách nhiều người mong đợi mới ra mắt công chúng.
Là một nhà báo may mắn “bám” chiến dịch “Hồ Chí Minh” ngay từ đầu và là người đầu tiên phỏng vấn DVM sáng 30/4/1975, lại là tác giả của nhiều cuốn sách viết về tướng tá quân đội Sài Gòn (trong đó có cuốn “Viên chuẩn tướng” viết về ông Nguyễn Hữu Hạnh, một cộng sự gần gũi với DVM), nhà văn-đại tá Nguyễn Trần Thiết còn được “Cục Binh vận” cung cấp nhiều tài liệu mật, tạo điều kiện cho ông gặp các “nhân chứng”, nên tác phẩm của ông đầy ắp những tư liệu chân thực, không chỉ về DVM mà cả một giai đoạn lịch sử mấy chục năm ở miền Nam (1954-1975). Có thể nói, đây là ưu điểm nhưng đồng thời cũng là nhược điểm của cuốn sách. Đã đành DVM là nhân chứng quan trọng của giai đoạn lịch sử đầy biến động này, nhưng trong hàng trăm trang viết về chuyện tranh giành quyền chức thời chính quyền Sài Gòn liên tục đảo chính trong những năm 1960-1964, hay về trận đánh mở màn ở Buôn Ma Thuột, tác giả như đã “bỏ quên” nhân vật chính là DVM mà quá “say sưa” thuật lại những sự kiện mà nhiều sách báo đã viết. Tác giả đặt cho cuốn sách một thể loại kép (“Ký sự-tiểu thuyết”), nên giá như ông tận dụng thế mạnh của tiểu thuyết, miêu tả những sự kiện vừa kể từ góc nhìn, tâm trạng của DVM thì vừa làm rõ hơn nhân vật chính, vừa là dịp soi rọi những khoảng mờ mà các biến cố lịch sử bao giờ cũng để lại cho hậu thế làm sáng tỏ, theo khả năng và thời điểm thích hợp.
Điều thú vị hơn cả trong cuốn sách là mạch chuyện xoay quanh Dương Văn Nhật (DVN), người em ruột của DVM, một chiến sĩ cách mạng kiên trung, được “tổ chức” biệt phái vào Nam từ đầu những năm sáu mươi, nhằm tiếp cận và lôi kéo người anh trai hướng về chính nghĩa dân tộc. Mạch chuyện này không chỉ hấp dẫn bởi những “pha” có tình tiết ly kỳ như truyện trinh thám mà còn gợi người đọc suy ngẫm nhiều vấn đề sâu xa. Ví như việc thiếu tá DVN, do lí lịch xuất thân (thành phần lớp trên, lại có anh trai là tướng nguỵ!), sau kháng chiến chống Pháp, đã bị “loại”, chuyển đi nông trường, vừa may gặp được bạn cũ là cán bộ Ban địch vận đang cần tìm chính loại người như DNV để “bắn” vào Nam, đã là một bài học sâu sắc về cách nhìn nhận, sử dụng con người, nhất là với trí thức; hoặc như mấy lần từ “cứ”, DVN vào giữa hang ổ địch tìm gặp DVM, phải qua bao nhiêu chặng, gặp không ít người đã bao năm sống bên kia chiến tuyến, mặc dù họ thừa biết anh từ miền Bắc gài vào, nhưng không một ai tố cáo anh với địch, kể cả một vị tướng của chính quyền Sài Gòn, là bằng chứng sinh động về tinh thần yêu nước của đại bộ phận nhân dân - trong đó, có những người “có cách yêu nước, yêu đồng bào và thể hiện điều đó khác biệt theo hoàn cảnh riêng từng người” - như lời chị Năm Mè, một cán bộ “nằm vùng”, một thành viên của Chính phủ Cách mạng lâm thời CHMNVN, một người hiểu rõ DVM , đã nhận xét về DVM, mà tác giả đã dẫn ra ở cuối sách.
Nếu như chiến công thầm lặng của DVN, sự hy sinh vô điều kiện của anh cho cách mạng nêu tấm gương đẹp đẽ về nhân cách một người trí thức trước những thử thách ngặt nghèo thì việc các cán bộ “Ban binh vận” và các vị lãnh đạo ở Trung ương cục, ở Sài Gòn hồi đó tin cậy “bắn” một người như DVN vào sào huyệt địch lại là biểu hiện đẹp đẽ về lòng tin vào sự hướng thiện của con người, lòng tin vào sự nghiệp cách mạng hợp lòng dân.
Chính qua những “nhân chứng” như thế, tác giả đã có nhiều tư liệu xác thực và có cái nhìn công bằng về DVM. Cho dù trong dư luận vẫn còn những ý kiến đánh giá cực đoan về DVM, nhưng bằng những lời nói và việc làm có thật (như DVM khi giữ chức Tổng thống lần đầu đã ra lệnh giải tán các ấp chiến lược, phản đối việc thả biệt kích và ném bom nổ chậm vào hệ thống đê điều ở miền Bắc… và khi phải ngồi ghế Tổng thống mấy ngày cuối cuộc chiến không hề có một mệnh lệnh kháng cự, chỉ tính tới chuyện hoà giải dân tộc…) tác giả đã giúp chúng ta thông hiểu hơn lời Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã phát biểu vào ngày 30/4/1995:
“…Chúng ta ghi nhận sự đóng góp của đông đảo những người đứng trong hàng ngũ địch, từ Trị Thiên đến mũi Cà Mâu, trước sức tấn công và nổi dậy vũ bão của quân và dân ta, đã bỏ vũ khí trở về với nhân dân, hoặc vào giờ phút định đoạt đã đi tới những quyết định phù hợp với lợi ich dân tộc, giảm bớt được đổ máu và tránh cho nhiều đô thị khỏi bị tàn phá…”
Cũng với tình cảm đó, khi DVM sang định cư tại Paris, Thủ tướng Võ Văn Kiệt - trong một chuyến đi Pháp, đã đến thăm và tặng quà cho DVM.
Khép lại cuốn sách dày gần 600 trang khổ lớn, dù có thể dùng mọi lý lẽ biện minh, có lẽ không ít độc giả, cũng như chị Năm Mè đều có chút “bần thần” tự hỏi: Vì sao trong nhiều tình huống ngặt nghèo, có thể uy hiếp tính mạng, DVM vẫn dám làm việc đáng phải gánh vác, vậy mà khi đất nước được thống nhất hoà bình, ông lại dứt áo ra đi?
Dù sao, đây cũng là chuyện cũ đã qua mấy chục năm…
Cuốn sách có thể chưa làm thoả mãn bạn đọc ở mặt này hay mặt khác, nhưng với một nhà văn-đại tá 60 năm tuổi Đảng, 80 tuổi đời, chúng ta đọc những trang sách của ông với sự tin cậy và hy vọng đây sẽ là một tài liệu tham khảo quý, giúp cho những cây bút khác có thể sáng tạo những tác phẩm lớn về hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta./.
(Rút từ cuốn sách “Trang sách – Cuộc đời – Nhà văn”, Tuyển tập 75 bài phê bình-tiểu luận của NKP 2003-2013 vừa xuất bản).