Đã tìm được lai lịch hoàn chỉnh của Đô đốc Đặng Tiến Giản!
Mục “Bầu bạn góp cổ phần” trên Tran Nhuong.com ngày 28 tháng 02 năm 2013 có đăng bài “Đô đốc Đặng Tiến Đông-chuyện ma mặc áo gấm để dược tôn vinh” của Trúc Diệp Thanh (Đô đốc ĐangTienĐong trannhuong.com/.../do-doc-dang-tien-dong--chuyen-ma-mac-ao-gam...).Trong bài này,tác giả đã nêu bằng chứng cho thấy:nhân vật “Đô đốc Đặng Tiến Đông”qua bài:”Đô đốc Đặng Tiến Đông- một tướng chỉ huy trận Đống Đa” của Phan Huy Lê (PHL) đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 154 (1-1974) đã từng chiễm chỗ của Đô đốc Long từ sau 1974s trên các lĩnh vực tôn vinh mà sử học Việt nam đã dành cho danh tướng Tây Sơn huyền thoại,người chỉ huy dánh thắng quân Thanh ở phòng tuyến Đống Đa tiến trước vào Thăng Long ngày 5 Tết Kỷ Dậu (1989) là nhân vật không có thật.Từ năm 1999s,nhà khảo cổ học thông thạo Hán ngữ Đỗ Văn Ninh (sau này là PGS-TS Đỗ Văn Ninh cũng qua khai thác các nguồn sử liệu do PHL từng khai thác,sử dụng đã xác minh,trên các di bản (Sắc phong,văn bia Tông đức thế tự bi) tên nhân vật bằng chữ Hán không phải là chữ “Đông” mà là chữ “Giản”,như vậy các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá không nói về “Đặng Tiến Đông” mà chỉ có tên “Đặng Tiến Giản”.Nguồn sử liệu PHL sử dụng,khai thác cũng không hề nói đến trận đánh quân Thanh năm Kỷ Dậu (1789) mà chỉ nói đến trận năm Mậu Thân (1788) Tây Sơn đánh ra Thăng Long để tiêu diệt phản nghịch Nguyễn Hửu Chỉnh.Do vậy việc ông PHL nhận định “Đô đốc Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long” chỉ là sự suy diễn không có căn cứ. Đặng Đô đốc ở Lương Xá là nhân vật mới toanh chưa có sách sử nào chép còn Đô đốc Long là vị tướng lừng danh đã có nhiều sách sử chép về chi tiết công trạng nhất là trận đánh thắng quânThanh ở Đống Đa từ đời Tây Sơn (Hoàng Lê nhất thống chí) cho đến đời nhà Nguyễn và cả đời hiện đại.PHL đã bõ công giới thiệu rất chi tiết về công trạng Đô đốc Long-một danh tướng có thật,và lồng ghép vào chiến công của “Đô đốc Đặng Tiến Đông” một nhân vật do tác giả tưởng tượng ra nhưng lại có bằng chứng từ gia phả,Săc phong,bia đá,tượng gỗ,chuông đồng!Kết quả là đã đánh lừa được nhiều học giả,nhà quản lý sử học để tên Đặng Tiến Đông thay thế Đô đôc Long trong hàng loạt sự kiện như đã biết cả trong và ngoài nước nhưng thực chất chỉ là chuyện “ma mặc áo gấm”. Việc PGS-TS Đỗ Văn Ninh phát hiện Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng tiến Giản,danh tướng Tây Sơn được Nguyễn Huệ giao cầm đội tiên phong trong đạo quân Tây Sơn do Võ Văn Nhậm thống lĩnh đánh ra Thăng Long để trừng trị phản nghịch Nguyễn Hửu Chỉnh vào đầu năm Mậu Thân (1788) qua văn bia Tông đức thế tự bi do hai ông Phan Huy Chú,Ngô Thì Nhậm soạn khắc vào năm Cảnh Thịnh 5 (1797) là điều hoàn toàn mới mẽ không có bất cứ một gia phả nào của Đặng tộc trước đây ghi chép kể cả bộ “Đặng gia phả hệ toản chính thực lục” do chính Đặng Tiến Giản biên soạn năm 1792.Trận Tây Sơn đánh ra Thăng Long đầu năm Mậu Thân đã có nhiều sách sử ghi chép với đầy đủ chi tiết nhưng không thấy chép danh tướng Đặng Tiến Giản tham dự trận này.Đến năm 1999s cũng do Đỗ Văn Ninh phát hiện có cuốn “Tây Sơn thuật lược” bằng chữ Hán xuất bản dưới triều Nguyễn lần đầu tiên được chuyên viên Hán học Tạ Quang Phát (Viện Khảo cổ Sàigòn) dịch ra tiếng Việt năm 1968 cho thấy đây là cuốn sử (dã sử) duy nhất chép về trận Mậu Thân (1788) có nêu chi tiết về danh tướng Đặng Giản,người Lương Xá,dòng dõi Nghĩa Quốc công Đặng Huấn,chỉ huy đội tiên phong trong đạo quân của Vũ Văn Nhậm hoàn toàn khớp với nhân vật Đặng Tiến Giản nêu trong văn bia Tông đức thế tự bi (năm Tây Sơn thuật lược ra đời,tấm bia đá ở chùa Thủy Lâm vẫn chưa ai biết là di vật thuộc niên đại Tây Sơn). . Như vậy,với văn bia “Tông đức thế tự bi”(1797) và “Tây Sơn thuật lược”(1930) đã có đầy đủ có sở lịch sử để chứng minh Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Giản là danh tướng có thật trong hàng ngủ Tây Sơn và là một danh nhân rất có công với Đặng tộc.Tuy nhiên còn một vấn đề cần được tiếp tục làm sáng tỏ: trước khi về với Tây Sơn Đặng Tiến Giản đã làm gì dưới triều Lê-Trịnh?Uẩn khúc này của Đặng Tiến Giản không thể tìm thấy trong Sắc phong năm 1787,trong văn bia năm 1789 và cả trong bộ phả do chính Đặng Tiến Giản biên soạn năm 1792 cũng như trong sách sử nhưng đã có sẵn trong một số bộ gia phả khác của Đặng tộc.
MỐI LIÊN HỆ GIỮA ĐÔ ĐỐC ĐÔNG LĨNH HẦU ĐẶNG ĐÌNH ĐÔNG (ĐẶNG TIẾN ĐÔNG) ĐỜI LÊ-TRỊNH VỚI ĐÔ ĐỐC ĐÔNG LĨNH HẦU ĐẶNG TIẾN GIẢN ĐỜI TÂY SƠN.
Trong nghiên cứu phát hiện “Đặng Tiến Đông”từ các di bản dời Tây Sơn ở Lương Xá, GS Phan Huy Lê cũng đã thừa nhận:”Hiện nay gia phả họ Đặng và những tư liệu có liên quan chưa cho biết rõ,trước khi theo Nguyễn Huệ (15/8/1787),Đặng Tiến Đông đã đỗ đạt như thế nào,đã giữ những chức tước gì trong chính quyền họ Trịnh ?”Đây chính là chỗ trống trong lý lịch của Đặng Đô đốc.Bộ phả do chính Đặng Đô đốc biên soạn chỉ cho biết tác giả là “Đông” sinh năm Mậu Ngọ (1738), năm 10 tuổi theo học Doãn Xá tiên sinh ở chùa Thủy Lâm,11 tuổi mồ côi cha rồi dừng lại không có dòng nào nói về đỗ đạt,làm quan dưới triều Lê –Trịnh,cuối trang có chép thêm câu: “từ tên“Đông”sau đổi sang tên“Giản”(1)cũng không rõ đổi tên vào năm tháng nào? . Theo Từ điển “Danh nhân lịch sử Việt nam” của Nguyễn Quang Thắng-Nguyễn Bá Thế (Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh tái bản năm 2006) và phả hệ Đặng tộc Kim Thạch (Xuân Quang-Tư Nghĩa Quảng Ngãi) có chép tiểu sử danh nhân “Đô đốc Đặng Đình Đông“(2)với những tư liệu chủ yếu như sau:”Đặng Đình Đông là Đô đốc đời Lê (Cảnh Hưng) còn gọi là Đặng Tiến Đông,sinh ngày 18-6-1738 tại kinh thành Thăng Long …cháu sáu đời Nghĩa Quốc Công Đặng Huấn.Sinh trưởng trong một gia đình đại vọng tộc,cháu nội Thái tể Đại tư không Yên Quận công Đặng Đình Thự,con Thượng đẳng đại vương Đặng Đình Miên tước Thái bảo Quận công,mẹ là Phạm Thị Yến.Ông là con trai thứ 8, các anh là Đặng Đình Trí (Chí),Đặng Đình Thiệu,Đặng Đình Cầu,Đặng Đình Tự,Đặng Đình Giám,Đặng Đình Tú,Đặng Đình Hữu tất cả đều được phong tước bá,tước hầu. Năm 1763,25 tuổi,Đặng Tiến Đông thi đỗ Tạo sĩ và ra làm quan từng lập nhiều chiến công trong đời các chúa Trịnh ... được phong Đại Đô đốc,tước Đông Lĩnh hầu Năm 1782,con trưởng chúa Trịnh Sâm là Trịnh Khải dựa vào quân Tam Phủ giành lại ngôi chúa từ tay em là Trịnh Cán(con của Tuyên Phi Đặng Thị Huệ).Sau khi giết Phụ chính Hoàng Đình Bảo và bắt Tuyên phi,quân Tam phủ lùng bắt các quan họ Đặng,họ Hoàng.Anh Đặng Đình Đông (Tiến Đông) là Đặng Đình Thiệu cùng 30 người họ Đặng khác hộ tống Tuyên phi bỏ trốn bị Trịnh Khải bắt được đem xử chém tại xã Nghi Kiều(huyện Nghi Lộc,tỉnh Nghệ An).Đặng Đình Đông (Tiến Đông) phải bỏ quan đi trốn để tránh sự truy quét của chúa Trịnh”.Từ đó về sau, gia phả họ Đặng không viết rõ gia thế và hành trạng của ông”.(3) . Cả hai nguồn tin:“Từ điển Nhân vật lịch sử” và “Phả hệ Đặng tộc Kim Thạch” đều có nói đến Đặng Đình Đông với sự kiện Nguyễn Huệ cùng đại quân Tây Sơn đánh ra Thăng Long giữa năm Bính Ngọ (1786) dưới danh nghĩa “Phù Lê diệt Trịnh” nhưng với kết cục khác nhau: : -GS Nguyễn Quang Thắng trích dẫn gia phả họ Đặng:“Vệ quốc thượng tướng quân trấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An trấn Đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng tướng công đại phụ tứ nguyệt thập tốt, hoàng triều Chiêu Thống nguyên niên nhị nguyệt cát hạ phùng tra.Như vậy ông mất năm 1787”. Nguyễn Quang Thắng dựa vào đây cho rằng Đặng Tiến Đông mất vào ngày rằm tháng tư (theo Hán văn thì là tháng 2, có lẽ tác giả ghi nhầm) triều Chiêu Thống năm thứ nhất (1787).Theo cách lý giải này, Nguyễn Quang Thắng phủ định ý kiến cho rằng “Đô đốc Đông là Đô đốc Long”. . -Phả hệ Đặng tộc Kim Thạch chép: “Giữa năm 1786,Nguyễn Huệ dẫn quân Tây Sơn tiến ra Bắc Hà,thì giữa năm sau (1787) Đặng Tiến Đông đã lặn lội vào tận Quảng nam,tìm đến quân doanh xin yết kiến Nguyễn Huệ.Từ đây,thân thế và sự nghiệp của ông bắt đầu gây nên một cuộc tranh cãi cho giới sử học sau này”. Sự kiện Tây Sơn cùng anh hùng Nguyễn Huệ ra Thăng Long giữa năm Kỷ Dậu(1786) đã có ảnh hưởng quyết định đến phương hướng cuộc đời tiếp theo của Đặng Đình Đông (Đặng Tiến Đông) là có thật.Diễn biến tiếp theo như phả hệ Đặng tộc Kim Thành diễn tả là có lý.Song cũng không thể bỏ qua thông tin thứ nhất. . Tuy không phải hoàn toàn thống nhất nhưng cả hai nguồn tin trên đã cung cấp một số tư liệu quan trọng giúp sáng tỏ thêm thân thế sự nghiệp của Đô đốc Đặng Tiến Giản như các di bản ở Lương Xá đã nêu.Trước hết chi tiết Nguyễn Quang Thắng và phả hệ Kim Thạch nêu về lai lịch Đặng Đình Đông(Đặng Tiến Đông) hoàn toàn giống với lai lịch Đặng Tiến Giản trong “Đặng tộc thế phả”, từ ngày tháng năm sinh cho đến tên họ ông bà,cha mẹ,các anh.Điều đó chứng tỏ Đô đốc Đặng Đình Đông (Đặng Tiến Đông) đời Lê Trịnh và Đô đốc Đặng Tiến Giản đời Tây Sơn chỉ là một người sống trong hai thời kỳ lịch sử khác nhau.Trước đây hai ông Phan Huy Lê và Đỗ Văn Ninh phát hiện ra Đặng Đô đốc là từ bộ Đặng gia phả hệ toản chính thực lục (Đặng tộc thế phả) cùng Đạo Sắc 1987 và văn bia Tông đức thế tự bi.Hai ông Thắng,Thế phát hiện ra Đô đốc Đặng Đình Đông (1738-1787)là từ nguồn trích dẫn từ bộ gia phả khác cũng ở Lương Xá.(Tại Lương Xá ngoài bộ Đặng gia phả hệ toản chính thực lục(ĐTTP) còn có hai bộ phả: Bộ Đặng gia phả ký tục biên tiền thuyết do Đặng Đình Quýnh biên soạn năm 1763 và bộ Đặng thế gia phả ký do Đặng Văn Phái biên soạn năm 1938). Vậy có mối liên hệ nào giữa Đô đốc Đặng Đình Đông (Đặng Tiến Đông) đời Lê với Đô đốc Đặng Tiến Giản đời Tây Sơn?Thực ra manh mối về mối liên hệ này đã có trong bộ “Đặng tộc thế phả” do chính tác giả tiết lộ qua câu tự thuật như đã nêu ở trang cuối quyển 6:”năm Mậu Ngọ (tức 1738)Dận Quận công sinh con trai thứ 8 là ‘Đông’ sau đổi tên ‘Giản’ ”. Do tác giả không nói rõ thời điểm đổi tên,trước đây một số nhà nghiên cứu đã phán đoán: ”Đông” là tên thiếu thời,trưởng thành đổi tên “Giản”,từ đó nhận định ở Lương Xá chỉ có “cậu ấm Đông” không có “Đô đốc Đông” mà chỉ có “Đô đốc Giản”.Đến nay qua các tư liệu mới biết về“Đô đốc Đặng Đình Đông” cho thấy cách giải thích như trên là không đúng.Câu tự thuật trên phải hiểu đúng là: thực sự có “Đô đốc Đông” dưới thời Lê Trịnh sau về với Tây Sơn đổi tên thành “Đô đốc Giản”. . Tuy nhiên để công nhận sự thật này cần làm sáng tỏ: . -Có phải Đô đốc Đặng Đình Đông đã “chết” đầu năm 1787? Đã có căn cứ sử liệu chứng minh thời điểm “Đông”đổi tên thành “Giản” đó là Đạo Sắc có niên đại 3 tháng 7 Đinh Vị/Mùi-Chiêu Thống 1(tức 15/8/1787) với nội dung Nguyễn Huệ phong cho “Đặng Tiến Giản” chức “Đô đôc Đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai làm Trấn thủ xứ Thanh Hoa”Đây là lần đầu tiên xuất hiện tên “Đặng Tiến Giản” trong hàng ngũ Tây Sơn.Vậy nhân vật “Đặng Tiến Giản” này từ đâu ra?Căn cứ để xác định sự kiện này là từ câu giải thích của chính Đặng Tiến Giản trong bộ phả do ông biên soạn vào năm 1792 (năm năm sau ngày xuất hiện tên Đặng Tiến Giản lần đầu tiên trên Đạo Sắc):”từ ‘Đông’(Đặng Đình/Đặng Tiến Đông)cãi sang tên’ Giản’ (Đặng Tiến Giản)”.Sự kiện này cũng xác minh thêm thời điểm đổi tên chưa có trong bộ phả ĐTTP nay được sáng tỏ là diễn ra giữa năm Đinh Vị/Mùi (1787)lúc Đặng Đình Đông từ Bắc Hà vào Quảng nam yết kiến Nguyễn Huệ như Đạo Sắc và văn bia đã đề cập.Thời điểm đổi tên diễn ra chỉ cách ngày Đô đốc Đặng Đình Đông “chết” vài tháng cùng năm Chiêu Thống 1 (1787).Có lẽ nào người đã “chết” sau vài tháng “sống” lại? Điều này phải tìm ở chỗ thâm thúy của chữ Hán.Trong văn bia “Tông đức thế tự bi” đã cho thấy hai ông Phan,Ngô sử dụng chữ Hán để che đậy tung tích lai lịch Tây Sơn cho Đặng Tiến Giản tài tình như thế nào?Trong câu chữ Hán hai ông Thắng,Thế trích dẫn gia phả ở Lương Xá đã dịch chữ “tốt”(卒) là “chết” và xác định Đặng Đình Đông (Tiến Đông) đã “chết” đầu năm Đinh Vị/Mùi (1787).Một nhân vật có thế lực như “Đại Đô đốc Đông” đã “chết” vì sao không có mộ phần? Theo từ điển Hán ngữ chữ “tốt” ngoài ý nghĩa là “chết” còn có nghĩa là “hoàn tất,kết thúc”.Như vậy sao không nghỉ đến khả năng người chép gia phả muốn che dấu thân phận tiếp theo của Đặng Đình Đông(Tiến Đông) với chữ “tốt” có ý nghĩa Đặng Đô đốc đã hoàn tất,kết thúc sứ mệnh ở triều Lê Trịnh vào ngày 15 tháng 2 năm Đinh Vi/Mùi,Chiêu Thống thứ nhất (1787Thời điểm Đặng Đình Đông rời Bắc Hà (chết) trùng hợp với thời điểm Đặng Đô đốc có mặt ở Quảng nam sau đó nhận Đạo Sắc với cái tên “tái sinh” là Đặng Tiến Giản.Chữ “Giản” với định nghĩa “sau thời tiết âm u bổng xuất hiện ánh mặt trời” rất phù hợp với hoàn cảnh của Đặng Tiến Giản lúc đổi tên là “từ bóng tối tìm thấy ánh sáng” (từ hỗn loạn thời Lê Trịnh tìm thấy ánh sáng cuộc đời khi về với Tây Sơn với anh hùng Nguyễn Huệ).(xem chú thích 1). . –Về chức tước Đặng Đình/Đặng Tiến Đông dưới triều Lê–Trịnh:Đặng Đình/Đặng Tiến Đông về với Tây Sơn lúc đã 49 tuổi,lứa tuổi không còn trẻ nữa,vậy khoản 30 năm về trước ở lứa tuổi sung sức có khả năng cống hiến cao nhất,Đặng Đình/Đặng Tiến Đông đã làm gi? Với dòng dõi cao sang,được học hành theo nghiệp võ truyền thống lại đỗ Tạo sĩ (hàng Tiến sĩ võ học),việc thăng tiến nhanh chóng trong cuộc đời làm quan của Đặng Đình/Đặng Tiến Đông đến năm 1786 đã là “Đại Đô đốc tước Đông Lĩnh hầu giữ chức Vệ quốc thượng tướng quânTrấn thủ Thanh Hoa kiêm Nghệ An”cũng là chuyện dễ hiểu.Trong bài “Đặng Tiến Đông-một tướng chỉ huy trận Đống Đa” tác giả PHL nêu:”Dưới triều Quang Trung (1788-1792) ông (Đặng Tiến Đông) giữ chức Vệ Quốc Thượng tướng quân,Trấn thủ hai xứ Thanh Hoa và Nghệ An” là không có căn cứ.Trong các di bản đời Tây Sơn ở Lương Xá và cả trong “Tây Sơn thuật lược” không có nơi nào chép Đặng Đô đốc có chức vụ như trên.Vậy chức tước “Đô đốc Đồng tri tước Đông Lĩnh hầu vẫn sai Trấn thủ xứ Thanh Hoa” Nguyễn Huệ trao cho Đặng Tiến Giản trong Đạo Sắc có liên quan thế nào đến chức tước của Đặng Đình/Đặng Tiến Đông đời Lê?Theo quan chế thời Lê Trịnh cũng như thời Tây Sơn “Đô đốc Đồng tri tước Đông Lĩnh hầu” là chức tước giành cho quan chức hàng đầu (tòng nhất phẩm).Đặng Tiến Giản mới về đầu quân cho Tây Sơn chưa có công trạng gì thì cơ sở nào để Nguyễn Huệ trao chức tước lớn,làm sao thuyết phục được tướng lĩnh Tây Sơn lúc bấy giờ? Điều hợp lý nhất là căn cứ vào chức tước của Đặng Đình/Đặng Tiến Đông đã sẵn có dưới triều Lê, kể cả chức “Trấn thủ Thanh Hoa” để phong cho Đặng Tiến Giản.Tước“Đông Lĩnh hầu” của Đặng Đình Đông (Tiến Đông) không chỉ được nêu trong gia phả do hai ông Thắng,Thế khai thác mà cũng đã có trong ĐTTP do chính Đặng Tiến Giản biên soạn.Tác giả ĐTTP chỉ phản ảnh đời tư “con thứ 8 của Dận Quận công là “Đông” chỉ đến lúc 11 tuổi”,không có chi tiết nào nói đên giai đoạn trưởng thành làm quan,xây dựng gia đình.Song trên quyển 6 chép về Dận Quận công, tác giả có nêu:”Ngày mồng 8 tháng 5 Tân Mão Vĩnh Thịnh thứ 5 (1711) Phấn Quận công sinh con trai thứ là Khuôn (sau này được phong là Cổn Quận công),đó là cháu ngoại của Ứng Đại vương,bố vợ Đông Lĩnh hầu”.Không có tên họ kèm theo.Song “Đông Lĩnh hầu” có khả năng là tước hiệu của Đặng Đình/Đặng Tiến Đông vì dưới triều Lê và cả triều Tây Sơn thường dùng tên húy để đặt chữ đầu tước hiệu.Ngay trong 7 người anh của Đặng Đình Đông cũng đã có 4/7 trường hợp:”Chí Trung hầu Đặng Đình Chí,Thiệu Trung bá Đặng Đình Thiệu,Tự Trung bá Đặng Đình Tự,Giám Trung bá Đặng Đình Giám” thì sao lại không thể có “ĐôngLĩnh hầu Đặng Đình Đông?”Vợ “Đông Lĩnh hầu” là con gái của Cổn Quận công cháu ngoại của Ứng Quận công Đặng Tiến Tướng.Đặng Tiến Tướng là bác ruột của Đặng Đình Đông (Tiến Đông),chắc không phải vô cớ tác giả ĐTTP chép chi tiết này.Đặng Đình Đông (Tiến Đông)về với Tây Sơn giữa năm 1787 là lúc mâu thuẩn giữa Nguyễn Huệ với Nguyễn Hửu Chỉnh rất căng thẳng do Huệ biết được âm mưu phản nghịch của Chỉnh sau khi được vua Lê tin cậy giao binh quyền.Với thiên tài dùng người,Nguyễn Hụệ đã sớm nhận ra vai trò,khả năng của Đặng Tiến Giản trong cuộc chiến sắp đến với Bắc Hà Trong Đạo Sắc (15/8/1787),Huệ đã hết lời ca ngợi Giản và nhận định:”Bốc nhất lộ chi khả nan,đại bang vu khống.Cự bán hà chi dĩ bắc,nghĩa sĩ hội vô.Tương dụng xử ư niên lai,xả tư nhân kì thục khả? Có nghĩa là:’Một nẻo đường ở cõi nam,đại bang ngăn giữ,nữa bên sông về đất bắc nghĩa sĩ vắng tênh.Đem dùng cho năm sau,bỏ người này ai làm đươc?Với câu đó cho thấy Huệ đang chuẩn bị cuộc chiến đánh ra đất bắc và trong cuộc chiến đó Đặng Tiến Giản là người không thể thiếu.Theo “Tông đức thế tự bi” và “Tây Sơn thuật lược” mùa đông năm 1787 Đặng Tiến Giản được Huệ giao chỉ huy đội tiên phong trong đạo quân Tây Sơn do Tiết chế Vũ Văn Nhậm thống lĩnh.Với tài cầm quân của một võ quan từng đỗ Tạo Sĩ,một Đại Đô đốc lâu năm trong đạo quân nhà Lê- Trinh,thông thạo địa hình,địa vật,tường tận chỗ mạnh chỗ yếu của quân,tướng Bắc Hà,sẵn có uy tín trong giới sĩ phu Bắc Hà,với chức tước Nguyễn Huệ phong tặng,Đặng Tiến Giản nhanh chóng hội nhập hàng ngũ Tây Sơn và với vai trò tướng chỉ huy đội tiên phong,Giản đã đắc lực giúp Vũ Văn Nhậm mở đường tiến quân ra bắc và đầu năm Mậu Thân đã dũng cảm đánh tan quân của Chỉnh, một mình một ngựa tiến trước vào Thăng Long đã sạch bóng quân phản nghịch,hình ảnh hào hùng đó đã được chép trong văn bia Tông Đức thế tự bi:”tiến chiến nhi Bắc binh hội,công đơn kỵ đương tiên,túc thanh cung cấm”.Tài dùng người của Nguyễn Huệ trong trường hợp trọng dụng Đặng Tiến Giản còn làm cho nhiều sĩ phu có tiếng tăm ở Bắc Hà noi gương Đặng Tiến Giản về với Nguyễn Huệ sau chiến thắng Mậu Thân:Ngô Thì Nhậm,Phan Huy Ích,Trần Bá Lãm,Võ Huy Tấn…Cũng trong dịp này Huệ đã đặc cách ban thưởng cho Giản “làng quê hương Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn”càng tỏ rõ sự ưu ái của Huệ với Giản. Nói tóm lại với tư liệu trong gia phả ở Lương Xá do GS Nguyễn Quang Thắng khai thác và phả hệ Đặng tộc Kim Thạch chép đã cung cấp những thông tin có giá trị để xác minh:Đặng Đình Đông,Đặng Tiến Đông,Đặng Tiến Giản là ba tên khác nhau nhưng chỉ để chỉ một người ”Đô đốc Đặng Đình Đông (Đặng Tiến Đông) thuộc nhà Lê Trịnh giai đoạn từ 1738-1787 và đầu quân cho Tây Sơn trở thành Đô đốc Đặng Tiến Giản từ 1787 đến những năm cuối đời Cảnh Thịnh (khoảng từ năm 1795-1797).Mộ táng tại xứ Đồng Trê,nay thuộc thôn Đàm Dền xã Đại Yên,huyện Chương Mỹ,Hà Nội”.Đô đốc Đông sau đổi tên Giản này hoàn toàn không liên quan gì đến Đô đốc Long,còn với “Đô đốc Đặng Tiến Đông là Đô đốc Long”mới xuất hiện sau năm 1973s chỉ là nhân vật giả tạo,sản phẩm do sự suy diễn của ông PHL.Điều đáng nói là vào cuối thế kỷ 18 ông Phan Huy Ích-một vị tổ của dòng họ Phan Huy danh giá,biên soạn văn bia Tông đức thế tự bi với thông điệp để cho hậu thế biết lai lịch và công trạng của Đô đốc Đặng Tiến Giản nhưng đến năm 70 thế kỷ XX một hậu duệ của dòng học Phan Huy là ông Phan Huy Lê đã xuyên tạc thông điệp của ông Tổ dòng họ bằng việc đưa Đặng Tiến Đông-một hình nộm khoác áo bào của Đô đố Long trám chỗ của Đô đốc Đặng Tiến Giản!
LỜI KẾT: Với những thông tin trong bài viết này xin được kiến nghị: -Bộ Văn hóa Thể thao và du lịch,Viện Khoa học xã hội Việt nam,Hội Khoa học lịch sử Việt nam…sớm có biện pháp thẩm định công trình phản biện về giả thuyết “Đặng Tiến Đông chính là Đô đốc Long” của GS Phan Huy Lê để giải tỏa một nghi án thuộc quốc sử đáp ứng đòi hỏi của dư luận xã hội.Điều khó hiểu là lãnh đạo Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch đã 2 lần (năm 2008 và năm 2010) có văn bản gửi ông Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt nam “trân trọng đề nghị Viện KHXHVN xem xét và trả lời tác giả nêu phản biện theo quy định của pháp luật” nhưng cho đến nay ông Viện trưởng vẫn “im lặng”!Dư luận đã nêu một số nguyên nhân trong đó nổi bật là giả thuyết “Đặng Tiến Đông là Đô đốc Long”,một sự kiện phản khoa học,phi lịch sử lại do chính giáo sư-viện sĩ chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN nêu ra thì mấy ai dám nói khác? . -Hội đồng toàn quốc Đặng tộc chủ động tổ chức thẩm định cách dịch văn bia “Tông đức thế tự bi” một di sản văn hóa vô giá của Đặng tộc, theo góp ý của công luận nếu có kết quả đúng như công luận nêu thì lập hồ sơ công nhận “Đô đốc Đặng Tiến Giản” là danh nhân của Đặng tộc và đề nghị Nhà nước xem xét. . Hà Nội Xuân Giáp Ngọ 2014
Chú thích: .
(1) Toàn văn câu tự thuật.Phiên âm:”Mậu Ngọ niên,ngũ nguyệt sơ nhị,Quý Sửu thì,sinh đệ bát tử “Đông” hậu cãi “Giản” dĩ tự vựng vân:Trùng âm tích vũ chi hậu hốt kiến nhật săc,cố tri danh yên” Dịch nghĩa:” Năm Mậu Ngọ ,tháng 5,ngày 2,giờ Quý Sửu,sinh con thứ 8 là “Đông” sau đôit thành “Giản”,ý theo tự vựng nói:sau khi mây mù tích mưa bổng thấy ánh mặt trời,cho nên đặt tên như thế”.
(2)Đặng tộc thường dùng lẫn lộn “Đặng Đình” (鄧廷) và “Đặng Tiến”(鄧進).Thông thường cha là “Đặng Đình” thì con cũng “Đặng Đình” , với “Đặng Tiến” cũng tương tự.Nhưng cũng có trường hợp như với Yên Quận công Đặng Tiến Thự ,các con đều là “Đặng Tiến” nhưng vẫn lọt con thứ 5 lại là “Đặng Đình Miên”!Ngay với một người như Ứng Quận công Đặng Tiến Tướng nhưng trong bộ ĐTTP có nơi chép”Đặng Đình Tướng”.Với “Đặng Đình Đông” con thứ 8 của Dận Quận công Đặng Đình Miên có nơi chép”Đặng Tiến Đông” cũng không lạ.Có điều cần phân biệt Đặng Tiến Đông(Đô đốc đời Lê) hoàn toàn không phải “Đặng Tiến Đông”do GS Phan Huy Lê đọc nhầm tên từ chữ “Giản”.
Sách tham khảo: . -Hoàng Lê nhất thống chí,.(Nxb Văn học-2010)
-Khâm định Việt sử cương mục.
-Quang Trung anh hùng dân tộc-Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (Nxb Thông tin tái bản 1998)
-Đặng gia phả ký.(Viện Hán nôm-2000)
-Đối thoại sử học (Nxb Thanh Niên 2000)
-Tư liệu điền dã vùng Huế thời kỳ Tây Sơn –Lê Văn Thuyên-Huỳnh Đình Kết-Lê Nguyễn
Lưu (Nxb Thuận Hóa 1998)
-Vua Quang Trung-Phan Trần Chúc-Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bình Định-2003)
-Từ điển Nhân vật lịch sử-Nguyễn. Quang Thắng-Nguyễn Bá Thế-Nxb Tổng hợp TP HCM-
2000.