|
|
|
|
|
| Trong tay tôi là tập bản thảo sách Giải mã thế giới biểu tượng (400 trang vi tính khổ A4) của nhạc sĩ Dương Đình Minh Sơn- Nhà nghiên cứu Dân tộc học Âm nhạc, sách Gai mã trên 100 hiện vật của Thế giới biểu tượng Nõ Nường: gồm những hiện vật tối cổ, từ thời đồ đá, đồ gốm sang đồ đồng, đến hoa văn thần Đồng Cổ (Thần Đồng) Ngọc Lũ. Những hiện vật biểu tượng này, lâu nay giới khoa học gọi là “phồn thực”, nhưng Dương Đình Minh l |
|
|
|
|
Sơn lại phát hiện ở một khía cạnh khác,tính “tâm linh- minh triết” của biểu tượng- tức là hiện thực và tâm linh là hai cánh cửa của nhận thức (Trịnh Xuân Thuận). Mở đầu sách, G.S.T.S. Phạm Đức Dương trong Lời giới thiệu viết: “Khi con người hiện thực hoá các khả năng biểu trưng vào đời sống xã hội bằng những biểu tượng thì đó là bước đột biến trí tuệ làm cho con người thoát khỏi thế giới tối tăm, ngu muội của động vật để bước sang thế giới ánh sáng của con người: núi sông cây cỏ đều có linh hồn, người chết trở thành tổ tiên ở thế giới bên kia...”
Thế giới biểu tượng do con người sáng tạo ra nhằm thực hiện yêu cầu biểu đạt. Nói như Hégel, con người tự nhân đôi mình và tự ngắm mình. Vì vậy biểu tượng bao giờ cũng có hai mặt: cái biểu đạt (người xưa gọi là hiểu) và cái được biểu đạt (được gọi là mật), làm cho con người có thể nhìn thấy cái vô hình mang tính huyền bí. Văn hóa học có nhiệm vụ giải mã cảm thức của người bản ngữ (cái mật) thông qua các hệ thống biểu tượng (cái hiểu). Đây là công việc không dễ dàng, nó cực kỳ khó khăn.
Ở Lời cẩn, bằng sự so sánh tác giả viết: “Trong thời cổ đại, để xây dựng nền tảng tư tưởng cổ đại của mình, người phương Bắc, trung tâm là người Hoa Hạ lấy vũ trụ làm đối tượng, đặt ra thuyết Ngũ hành, lấy thiên- địa- nhân làm điểm xuất phát. Sau này tiếp thu được thuyết Kinh Dịch của người Việt Thường ở phương Nam, biểu tượng bằng thanh “âm” thanh “dương” biến thiên thành 64 quẻ, dựa vào đó mà lập nên “lâu đài” Chu Dịch nói về triết học phương Đông.
Người phương Nam trung tâm là người Giao Chỉ, lấy con người làm đối tượng đặt ra thuyết Sinh học, lấy nguyên khí Nõ Nường làm điểm xuất phát, biểu tượng bằng quả trứng người mẹ. Quả trứng thụ tinh có hai đường máu phát triển theo hai hướng. Qua các hình thái phát triển sinh học của mỗi hướng đó mà lập nên bản Sử thi về vòng đời của con người, đồng thời đó còn để hình dung về lịch sử hình thành, phát triển của dân tộc từ khởi thuỷ đến ngày vua Hùng tuyên bố thành lập Nhà nước Văn Lang ghi thành hoa văn thần Đồng Cổ Ngọc Lũ gửi bạn bè gần xa đương thời và truyền lại cho muôn đời hậu thế.
Sách Giải mã thế giới biểu tượng đã mở ra một hướng tiếp cận mới về thế giới biểu tượng trong nền văn hoá của dân tộc. Trước con mắt của tác giả, mỗi hiện vật biểu tượng, mỗi môtíp hoa văn đều hàm chứa một dung lượng nhận thức, phác hoạ một hình thái tư tưởng. Đó là những hiện vật thỏi đá cầm tay (hình 18) hoặc những khuyên tai hình tròn bốn mấu, hình hạnh nhân phân đôi (hình 24a,b) hoặc hoa văn dây cuộn thừng (hình 41), hoặc đôi hoa văn chữ S (hình 47), ... Tất cả những hiện vật biểu tượng đó xuất hiện từ thời đồ đá sang đồ gốm, giới khảo cổ học đều gọi tên theo hình dạng bên ngoài của nó. Nhưng tác giả cho rằng đó là những hiện vật hàm chứa tư tưởng của học thuyết Sinh học, biểu đạt về khởi nguyên vòng đời của con người: hiện vật hình tròn bốn mấu đó là hình quả trứng của người mẹ, viên đá hình hạnh nhân phân đôi là hai phần trắng, đỏ của quả trứng khi thụ tinh có hai đường máu, nó là cơ sở của hình chữ S (âm dương) và dây cuộn thừng (tơ hồng).
Từ phương pháp luận đúng đắn và phương pháp hệ hợp lý, tác giả chiếu rọi vào chiều sâu, phát hiện cái ẩn tàng tư tưởng hàm chứa trong muôn mầu hình thái của những hiện vật biểu tượng có nguồn gốc từ Nõ Nường, nằm ở các vùng văn hoá Tiền Đông Sơn
Khi miêu tả về tư tưởng trong các hiện vật biểu tượng ở đây, tác giả đã liên hệ, so sánh với tư tưởng trong các hiện vật đồng dạng ở các nền văn hoá lớn mà các nhà khoa học đã chứng minh bằng tư tưởng triết học. Chẳng hạn, ở Trung Quốc đức Khổng Tử giải thích chữ “tổ” ( ) trong tổ tiên, tổ tông gồm bộ thị và bộ thả, thì bộ “thả” () nguyên ý là bộ phận sinh thực của nam giới, ở Ấn Độ nền văn hoá Linga Yoni đã hoá thành thần Siva (ảnh 10 ) và kinh Rig–Vêđa lấy lá sen biểu tượng cho tử cung của người mẹ
Để từ đó, tác giả coi Hùng Linh (trống đồng) Ngọc Lũ là hình người mẹ thắt đáy lưng ong còn lòng trống là tử cung của người mẹ và miệng trống là lỗ “oa” nơi sinh ra giống nòi dân tộc Giao Chỉ. Do đó, Nữ Oa là của người Việt, cho nên trong hậu cung của các đình chùa đều có thờ giếng “oa” này, như Đền Giếng trên Đền Hùng. Còn tư tưởng của Hùng Linh Ngọc Lũ như núm tròn ở giữa mặt với 14 tia nổi và 14 tia chìm đã được manh nha từ các vùng văn hóa Tiền Đông Sơn, như hoa văn vùng Hoa Lộc Thanh Hóa (hình 102 a,b) thì 14 cánh nổi, 14 cánh chìm quanh núm tròn ở đây chưa rõ lắm, nhưng đến hoa văn Phùng Nguyên Phú Thọ (hình 103 a,b,c) số lượng các cánh nổi, cánh chìm đã rõ dần, đặc biệt hình c thì 14 cánh nổi và 14 cánh chìm hiện rõ.
Hàm nghĩa của biểu tượng núm tròn ở giữa, bao quanh là 28 tia: 14 tia nổi và 14 tia chìm thì núm tròn là quả trứng người mẹ, còn 28 tia là chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày: ngày thứ 14 trứng rụng, nếu không được thụ tinh thì sau 14 ngày sẽ xuất hiện kinh nguyệt (hình 108). Nội dung này được đối chiếu với bảng ngày trứng rụng và chu kỳ kinh nguyệt 28 ngày của người mẹ. (Sách Y học phẫu thuật bản Anh văn tập 5, trang 30). Đó là một phát hiện táo bạo. Chúng ta chờ kết quả qua thẩm định của các nhà khoa học.
Trong nghiên cứu hiện vật biểu tượng của Việt Nam mà có sự liên hệ, so sánh đến các tư tưởng triết học lớn ấy làm cho người đọc chấp nhận một cách dễ dàng những tư tưởng được đề cập đến trong sách Giải mã thế giới biểu tượng. Sách không chỉ nói về dân tộc Kinh mà đề cập đến các hiện vật biểu tượng của các dân tộc ở Tây Bắc như dân tộc Kháng, dân tộc Hà Nhì, dân tộc Thái, hoặc tượng nhà mồ ở Tây Nguyên, trụ “kút” của người Chăm,... Có thể nói sách Giải mã thế giới biểu tượng là một hướng mở ra cho việc nghiên cứu về lịch sử văn hoá tư tưởng ở thời kỳ đầu của dân tộc. Chẳng hạn, biểu tượng đôi rắn cuốn nhau nuốt voi (hình 75 tr 151) trên cán dao găm (di chỉ làng Vạc Nghệ An ) đã xuất hiện từ thời văn minh Đông Sơn, lan truyền cả xuống phương Nam và lên tận bờ Nam sông Trường Giang, mà không ai hiểu ý nghĩa, ngay trong Sở từ của Khuất Nguyên cũng phải đặt câu hỏi. Tại sao rắn nuốt voi? Đến tác giả coi đôi rắn quấn nhau là dây Tơ hồng theo nghĩa của đôi vợ chồng, trong câu ca: Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn thì việc nuốt một con voi không có gì khó. Đó là bậc trí nhân đã tạo ra biểu tượng để chỉ cho con người biết bó kết sẽ thắng bọn chúa tể sơn lâm vào thời kỳ tổ tiên ta đang săn bắt, hái lượm trong rừng ...
Tôi được hân hạnh viết Lời giới thiệu cuốn sách, nhưng vẫn còn muốn được trao đổi thêm với bạn đọc trước một vấn đề quan trọng đối với học thuật. Gợi ra ý và càng công bố càng khách quan thì chắc có nhiều hiệu quả khả quan. Hy vọng những điều bổ sung có thể làm cho vấn đề thêm phần sáng tỏ. Có lẽ đông đảo bạn đọc khi có cuốn sách Giải mã thế giới biểu tương trong tay đều có cảm tưởng thỏa mãn về công phu của người soạn. Đây thực sự là kết quả của người tìm tòi học hỏi, chịu khó lăn lộn trong thực tế và cả trong kho tàng thư tịch cổ kim. Việc nghiên cứu văn hoá dân gian mà liên hệ, so sánh với sách kinh điển, triết học càng làm tăng giá trị tư tưởng của hiện vật. Việc làm này so với giới nghiên cứu văn hoá dân gian của ta, là điều mới thấy.
Tác giả đã chứng minh được điều cần phải chứng minh về ý nghĩa lớn lao hàm ẩn trong các biểu tượng mà các bậc “tiên triết” trong gia thất của vương quyền thời cổ đại đã tạo nên, như thần Đồng Cổ Ngọc Lũ không phải do bàn tay “vàng” của nghệ nhân dân gian tạo ra,... Vấn đề nêu ra là xác minh một hiện tượng, nhưng nó thực sự liên quan đến nhiều vấn đề khác cũng quan trọng không kém. Trong cuộc sống chung quanh chúng ta là cả một vấn đề khoa học lớn, được nảy sinh và tích tụ. Việc nghiên cứu tìm ra những giá trị khoa học ở lĩnh vực văn hoá, đó là điều cần thiết, nhưng không phải ai cũng kỳ công bỏ cả cuộc đời để đi vào lĩnh vực này như tác giả sách Giải mã thế giới biểu tượng. Những hiện tượng được gọi là “phồn thực”, hoặc trống đồng là một nhạc khí... đã ăn sâu vào tiềm thức. Nay tác giả thay đổi lại nhận thức, mặc dù nó là đúng, nhưng tìm ra lời giải nghĩa không phải là đơn giản. Cái khó là làm sao cho người ta nghe lời thuyết phục. Tìm đường đi tới rồi, phát hiện ra cái mà tác giả gọi là Văn hoá Nõ Nường ở phần I của sách này (tôi đã đồng ý với thuật ngữ này) tác giả đã đề cập và hình như giải đáp được (theo ý riêng của tôi), khá nhiều vấn đề hiện nay còn đang băn khoăn, muốn được giải đáp mà chưa ai giải đáp nổi.
Vậy mà trong cái mê cung bí hiểm ấy, tác giả đã tìm được nhiều câu giải đáp (phần lớn tôi thấy là anh có lý, nhưng tiếp cận chân lý đến đâu thì chúng ta sẽ cùng bàn). Đó là các câu hỏi: vì sao, nên hiểu thế nào, có cái bản chất nào trong hiện tượng này… Mà vấn đề (hay hiện tượng) anh nêu ra thì nhiều lắm:
Cột xau hẹ và cây rau dớn hay PoMe (người Thái). Cái dây tơ hồng, Đôi đũa bông - bát cơm cúng,Tượng cây đèn hình người quỳ, Ma cũ bắt nạt ma mới, Ông Mốc (cột mốc), Đá ông chồng bà chồng, Rùa đội bia đá, Trụ đá thề, Chùa một cột…
Đây đều là những vấn đề rất cụ thể, rất thiết thực, thế mà cho đến nay vẫn chưa có lời giải đáp, hoặc không biết cách tìm ra lời giải đáp. Nhưng tìm đến được Giải mã thế giới biểu tượng (như cách làm của tác giả) là tìm được con đường đi, tôi nghĩ rằng hợp lý. Có thể làm cho người không quen lắm trong nghiên cứu khoa học ngỡ ngàng đôi chút, nhưng có thể được thoả mãn vì tìm ra đúng con đường. Và vấn đề không chỉ dừng lại ở môn khảo cổ học, mà còn ở lĩnh vực địa lý học, ngôn ngữ học nữa. Tôi thấy cách đối chiếu của tác giả về các từ bố mẹ, bú mớm (tr 195) là có thể lấy đó làm tiêu chí để đi vào nhiều ngôn ngữ khác (trong 54 dân tộc Việt Nam) có thể gặp những sự tương đồng.
Từ vấn đề Văn hóa Nõ Nường ở phần I, cơ sở của nền văn hóa tư tưởng Việt Nam, tác giả đã đi tới một vấn đề mà anh thấy là vô cùng quan trọng và muốn đem ra chất vấn, không phải chỉ với giới hạn trong giới khoa học mà ngay cả với toàn dân. Đó là Trống đồng là vật linh hay nhạc khí? Anh cũng có sáng kiến như không muốn gọi đó là trống đồng, mà nên gọi Hùng Linh (vật linh ấn tín do thời Hùng Vương sáng tạo). Vấn đề chắc chắn sẽ được giới chuyên môn thảo luận. Tôi cho rằng tác giả đã có công tìm ra trống đồng là vật linh hay nhạc khí. Bởi anh là nhạc sĩ cho nên việc làm ấy là thuộc về chức năng.
Song còn phải chứng minh bằng hoá học trong hợp kim, đó là các trống đồng Đông Sơn hàm lượng chì cao 25% ( kim lọa chì làm câm tiếng lại) mà hàm lượng thiếc chỉ 0,5%. Trong khi đó một nhạc cụ bằng đồng như chuông, đỉnh phải bảo đảm 17% thiếc - thiếc tạo tiếng vang âm thanh đẹp của một nhạc cụ. Tác giả chỉ rõ, đây là vật linh và cái tên gọi đồng cổ cũng là cái tên do người ngoài nguỵ tạo với dụng ý là để làm mờ đi bản sắc Lạc Việt – Giao Chỉ. Anh còn tìm ra đôi rồng của chúng ta trên trên tang trống đồng Ngọc Lũ cũng được người ngoài thay đổi rồng của họ vào, bằng cách vẽ hình rồng của họ vào ở 14 sải vải trắng trong phong tục đội cầu rồng đưa hồn người quá cố qua sông trong lễ tang (hình 77a,b) trang 165 thành đôi rồng Hán (hình 87).
Kết luận của anh rõ ràng là rất quan trọng. Tôi nghĩ, Cục Di sản văn hoá của Bộ Văn hoá sẽ quan tâm đến vấn đề này, để một ngày gần đây Thần Đồng Cổ (anh gọi là Hùng Linh) và đôi rồng Lạc Việt – Giao Chỉ do tiên tổ của chúng ta tạo ra sẽ hiện hữu trong đời sống văn hoá của cộng đồng Việt Nam. Bởi lẽ, khi nước ta giành lại được quyền tự chủ, do đã có tên gọi “đồng cổ” ở sách Hậu Hán thư, cho nên các bậc tiên triết của Đại Việt gọi là thần Đồng Cổ và vua Lý Thái Tông (1028-1054) tấn phong cho thần là Minh chủ linh ứng chiêu cảm bảo hựu đại vương, nên mới có đền thờ thần Đồng Cổ ở Hà Nội số nhà 353 đường Thụy Khuê, là thờ vọng từ ngôi đền chính ở Thanh Hoá, trên núi Khả Lao, làng Đan Nê, huyện Yên Định. Tương truyền ngôi đền này được lập từ thời Hùng Vương. Còn ở thời Hùng Vương, những chiếc trống đồng đã liên quan thế nào với những phong tục, với sự thờ cúng… thì vẫn cần phải khảo cứu nhiều, nhưng nên theo hướng nghiên cứu này của tác giả... Hy vọng sẽ có nhiều tài liệu hay kiến giải mới, bổ sung cho đề tài này.
Xuân Tân Mão 2012
V.N.K