Duy Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa Cộng hòa quốc đệ lục thập tam niên lục nguyệt thập tam nhật,
Vãn học Trần Quang Đức cẩn dĩ thanh chước thứ tu chi điện, tế vu Võ thủ tướng chi linh.
Nay ngày 13 tháng 6 năm thứ 63 Nước CHXHCN Việt Nam, vãn học Trần Quang Đức xin đem lễ sơ rượu nhạt kính viếng anh linh nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt. Điếu văn rằng:
Than ôi!
Nhân thế tang thương[1],
Khuôn thiêng[2] định số.
Chữ Vô thường[3], ngao ngán cõi phù sinh[4],
Đò Tạo hóa, chóc mòng[5] miền tịnh thổ[6].
Cửa An Hòa[7] sét động trời nghiêng,
Hồ Tả Vọng[8] sấm rền mưa đổ.
Trăm năm chưa đủ một đời,
Thoáng chốc đã về thiên cổ.
Ngùi ngùi tấc dạ tơ vò,
Sùi sụt ai dung[9] lệ nhỏ.
Nhớ linh xưa:
Văn võ vẹn toàn
Kinh luân[10] gồm đủ.
Thờ Đảng rất mực lòng son,
Vì Dân xá chi máu đỏ.
Đuổi lũ hung tàn thuở ngôi trời chếch lệch,Rạch Giá[11] lẫy lừng.
Ra tay kinh tế khi vận nước chông chênh,Việt Nam rạng tỏ.
Gom túc mễ, quét nỗi cơ hoang[12],
Chỉ cờ mao, dẹp phường tham đố[13].
Cao dơ mũ lại[14], những mong thế nước vững vàng,
Xa gác vó câu[15], luống ngóng sinh dân giàu có.
Vậy nên:
Điều “chí thiện”[16] bao độ đăm chiêu,
Câu “nhật tân”[17] đòi phen năng nỏ[18].
Thương ôi! Võ lão!
Nghi ngút khói mây,
Lập lòe nến đỏ.
Thần phách giờ đâu?
Hình hài còn đó.
Hoa lìa cây, rụng cánh bời bời
Én xa tổ, kêu xuân vò võ.
Ba tấc đất vùi sâu đấng anh hùng,
Chín tầng mây khuất xa đường vân lộ.
Tháng ngày khôn xiết nỗi bi ai,
Sớm tối nào quên niềm luyến mộ.
Nay:
Văn tế đôi câu,
Quỳnh tương[19] một lọ.
Lễ bần bạc gia tư[20] có vậy,
Lòng kiền thành[21] thiên địa chứng cho.
Rạp mình xa viếng trời Nam,
Cúi lạy anh linh phù hộ.
“Xã tắc muôn thuở thanh bình,
Quốc dân từng ngày tiến bộ!”
Hỡi ôi! Xin hưởng!
-----------
Chú giải:
[1] Tang thương沧桑: theo sách “Thần tiên truyện” có chép: “Ma Cô bảo rằng: từ trước tới nay đã thây biển Đông ba lần hóa thành nương dâu”, sau lấy câu “沧海桑田tang hải thương điền” (bãi bể nương dâu) để trỏ cuộc đời dâu bể, đổi thay khôn lường vậy.
[2] Khuôn thiêng: còn gọi “khuôn xanh”, từ trỏ “ông Trời” vậy.
[3] Vô thường无常: “Thường” là cái bất biến, thường hằng. Vô thường có nghĩa biến hóa vô định vậy. Nhà Phật cho rằng vạn vật trong thế gian đều nằm trong vòng sinh khởi, biến dị, hoại diệt, thế nên không có thứ gì hữu thành bất biến cả.
[4] Phù sinh浮生: Sách “Trang tử” có câu “其生若浮Kỳ sinh nhược phù” (cuộc sông như trôi nổi), cho rằng đời người trôi nổi vô định, sau người ta mới gọi đời người là cõi “phù sinh”.
[5] Chóc mòng: từ Việt cổ, tức “trông mong, ngóng đợi” vậy.
[6] Tịnh thổ净土: là thế giới thanh tịnh không có sự nhuốm bẩn của năm thứ ô trọc (kiếp số, vận mệnh, chúng sinh, phiền não, kiến văn) theo nhà Phật.
[7] An Hòa安和门: tên một cổng ở cố đô Huế, ngày 4.6.2008, sau khi tế đàn Nam Giao, trời Huế mưa to, sét đánh trúng một góc cổng An Hòa. (Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa)
[8] Tả Vọng左望湖: tức Hồ Gươm, ngày 25.5.2008, giữa khu vực Hồ Gươm có sấm có mưa.(...)
[9] Ai dung哀容: khuôn mặt đau buồn.
[10] Kinh luân经纶: việc se sợi, sau trỏ ý chỉnh lý quốc sự, rồi phiếm chỉ tài năng trị nước, học vấn...
[11] Rạch Giá: một tỉnh thuộc Nam Bộ. Ý trỏ năm 1941-1945, tiên sinh tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở tỉnh Rạch Giá vậy.
[12] Túc mễ粟米, cơ hoang饥荒: tức “thóc gạo”, “đói kém”. Ý trỏ tiên sinh từng chỉ đạo bộ hạ thu mua lúa của dân theo giá tương xứng mà cứu cho thành Sài Gòn khỏi nguy cơ đói vậy.
[13] Cờ mao旄节, tham đố贪妒: “Cờ mao” là cờ của sứ giả, cũng là cờ của trưởng quan quân chính trấn giữ một phương. “Tham đố” tức tham lam, đố kỵ vậy.
[14] Mũ lại: tức “mũ quan”, ý trỏ tiên sinh làm tròn phận sự, ân uy rõ ràng vậy.
[15] Vó câu白驹过隙: “câu” tức “ngựa câu”, loài tuẫn mã lông trắng vậy. Sách “Trang tử” có câu: “Con người sinh ra trong vòm trời đất, tựa như con bạch câu chạy qua cửa sổ, chỉ trong thoáng chốc mà thôi.” Câu “bóng câu qua cửa” hay “bóng vó câu” trỏ ý thời gian vùn vụt trôi qua vậy.
[16] Chí thiện至善: Sách “Đại học” có câu “大学之道,在明明德,在亲民,在� �于至善Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại tân dân, tại chỉ ư chí thiện” nghĩa là “Cái đạo của Đại học là ở chỗ làm sáng cái Đức sáng, là ở chỗ khiến đời sống dân chúng đổi mới, và khiến người ta ở vào cõi rốt ráo của cái Thiện.”
[17] Nhật tân日新: Cũng trong sách “Đại học” có câu: “苟日新,又日新,日日新Cẩu nhật tân, hựu nhật tân, nhật nhật tân” nghĩa là “nếu hàng ngày đổi mới, ngày ngày đổi mới, thì càng ngày càng mới.” Câu này ý trỏ tiên sinh có công lớn trong sự nghiệp Đổi mới của đất nước, đồng thời làm nhiều việc tốt, việc thiện cho nước, cho dân vậy.
[18] Đòi phen, năng nỏ: (từ cổ) “Đòi phen” tức nhiều phen, “năng nỏ” nghĩa là gắng sức.
[19] Quỳnh tương琼浆: tên gọi tao nhã của thức “rượu” vậy.
[20] Bần bạc贫薄, gia tư家资: “Bần bạc” là “nghèo nàn, bạc mọn”. “Gia tư” tức tài sản trong nhà vậy.
[21] Kiền thành虔诚: chân thành, thành khẩn vậy.
Nguồn: nguyenxuandien blog