Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

THƠ VĂN ĐẮC - CHÂN DUNG TỰ HOẠ

Lê Bá Thự
Thứ tư ngày 4 tháng 12 năm 2024 1:54 PM


Nhà thơ Văn Đắc sinh năm 1942 tại Thanh Hoá. Các tác phẩm chính: Hai triền sông (tập thơ năm 1973), Khúc hát từ nguồn nước (trường ca năm 1978), Biển xanh (tập thơ năm 1985), Muộn mằn (tập thơ năm 1991), Đi tìm thời trẻ trai (tập thơ năm 1994), Trái tim dọc đường (tập thơ năm 1999), Lời cho em (tập thơ năm 2003), Trường ca Thành Tây Đô (trường ca năm 2003, kịch thơ: Lê Hoàn (1980), Lời tâm huyết (1985), Ngai vàng rung chuyển (1990), Một mình với cỏ thi (tập thơ năm 2018), Cát lầm (tập thơ năm 2022).


Ngày 15 tháng 8 năm 2024, nhà thơ Văn Đắc, bạn đồng môn cùng lớp thời Cấp III Lam Sơn đầu những năm 60 của thế kỉ trước, từ Thanh Hoá ra Hà Nội, thân chinh đến nhà tôi ở phố Hào Nam tặng tôi tác phẩm “Văn Đắc tuyển tập thơ”. Trao cho tôi tuyển tập thơ bìa cứng, thiết kế sang trọng, dày 632 trang, còn thơm mùi giấy mới, bạn tôi xúc động nói: “Đây là cuốn sách tập hợp thành quả cả đời thơ của Văn Đắc và Lê Bá Thự là người đầu tiên mình trao tặng tác phẩm này, vì dự kiến khoảng cuối tháng 10 năm 2024 sách mới ra trình làng”

Xúc động và trân trọng nâng cuốn sách trên tay, tôi cảm nhận mình đang nâng niu thành tựu một đời thơ, một đời sáng tạo không mệt mỏi, nhiều tâm huyết và giàu cảm hứng của bạn tôi. Và đúng như Văn Đắc thổ lộ trong Lời tựa: “Bài thơ mò mẫm trong bóng tối lồng ngực/ In dấu chân vào trang giấy ánh sáng/ Rực đỏ chân trời thơ…”.

“Văn Đắc truyển tập thơ” gồm sáu chương: Chuyện nhà, Chuyện tình, Chuyện thơ, Trường ca, Kịch thơ, Tác phẩm và dư luận.

Đọc xong 632 trang sách tuyển tập, thưởng thức và lĩnh hội trọn vẹn hồn cốt của tác phẩm, trong đầu tôi nảy sinh câu kết luận biểu đạt chuẩn xác nội dung và hình thức của cuốn sách này: Thơ Văn Đắc - chân dung tự hoạ. Chân dung tự họa là bức vẽ chân dung của một nghệ sĩ do chính nghệ sĩ đó tạo ra. Đối với các nghệ sĩ, tác phẩm chân dung tự hoạ đại diện cho cách họ nhìn nhận bản thân, cảm giác và cách họ muốn được người khác nhìn thấy.

Có thể nói, hầu như mỗi bài thơ của Văn Đắc là một một bức chân dung tự họa. Chẳng hạn: “Rượu chè, thuốc lá/ Có nghiện đâu trời/ Thích vậy thôi/ Thành quen thói/ Như cái thói/ Hay đi lang thang trong đêm/ Mê mải với trăng lên? Với ai hát/ Cái thói mê/ Như mê người đẹp/ Làm xong một bài thơ/ Thấy lồng ngực mình đầy hương rượu mơ…” Bức chân dung tự họa này giống Văn Đắc có khi còn “hơn” cả chính anh. Thơ tình luôn luôn là thế mạnh của nhà thơ có cái thói mê, như mê người đẹp này. Đến nỗi hễ nói đến thơ Văn Đắc là người ta nghĩ ngay đến thơ tình. Nhiều bài thơ tình của anh hay đến độ tài hoa. Văn Đắc cháy hết mình, thăng hoa hết mình trong những cung bậc cảm xúc của tình yêu: “Nếu em không đến với anh/ Thì anh đành hóa đá”. “Chiều đã khép ngực trời sau lưng/ Hai tà áo đen cài hàng khuy lại/ Cái mầu áo mịt mù như đêm tối/ Câu thơ tình lấp lánh lối em đi”. Hoặc, “Em rót vào ta như rượu rót vào chai/ Không nỡ dốc chai, rượu tràn trên đất/ Mà em là hồn mê trong sắc đẹp/ Rót vào ta biết lúc nào đầy”. Tình yêu đương nhiên phải có hẹn hò, chính hẹn hò tạo nên những những phút giây chờ đợi, những phập phồng, thấp thỏm, những mường tượng đầy thú vị và thi vị mà người không yêu chẳng thể có được. Có lẽ vì vậy mà Văn Đắc mới nói rằng, tình mà không hẹn buồn ơi là buồn, đúng là như vậy, đố cặp tình nhân nào yêu nhau mà không có hẹn hò: “Đời mà không hẹn/ Buồn ơi là buồn/ Tình mà không hẹn/ Buồn ơi là buồn/ Nhưng mà lỗi hẹn/ Còn gì em ơi!/“. Trong thơ tình của Văn Đắc, có rất nhiều bài viết về nỗi buồn, chẳng hạn: “Nỗi buồn tôi”, “Em không có nỗi buồn như anh”, “Hãy tha cho tôi”, “Lỗi hẹn”, “Xa xôi buồn” “Hoa lộc vừng”… Phải công nhận Văn Đắc giỏi làm thơ buồn. Buồn của anh như chiếc lá đã vàng khô còn níu mãi đầu cành. Buồn của anh khơi lên ngọn lửa tình, buồn của anh như mặt trời đánh mất trăng sao, buồn của anh mang sắc màu Văn Đắc: “Ta có nỗi buồn như ngọn đèn ngắn bấc/ Em đã khêu lên những lúc cạn dầu/ Nên xa em đèn không dám tắt/ Vắng em rồi đèn biết sáng về đâu… Giá mà có cách chôn buồn được/ Ta đến tìm em trả lại dầu”. Như đã nói ở trên, Văn Đắc nhiều trăn trở, lắm nỗi niềm, nhiều câu thơ, nhất là những câu kết của bài thơ, chính là triết lý sống của anh: “Gang tay đo mấy kiếp buồn/ Mỏi chân bạc tóc vẫn còn xa quê”; “Ta quyét cả một sân buồn/ Không nỡ quyét những cánh hoa tàn úa”;“Bặm môi mình nghĩ với mình/ Đắng cay là đấy ngọt lành là đâu”.

Văn Đắc nói rằng, nhìn anh lúc nào cũng có vẻ vui, nhưng đó là bề ngoài, còn anh có một dòng chảy rất thầm kín và kéo dài, chìm ở bên trong, đó là tình cảm quê hương và những day dứt về cuộc đời. Tình cảm quê hương của anh bắt nguồn từ Làng Triều, nơi chôn nhau cắt rốn của anh, nơi từ đó mẹ anh đã đặt anh vào một đầu gánh đưa anh đi tản cư, chạy giặc. Anh khoe với tôi, bài thơ đầu tiên anh sáng tác chính là Bài thơ quê hương, bài thơ anh viết về làng Triều, thắm đẫm hồn quê, tình quê: “Hạ buồm xuống/ Kéo trăng lên đỉnh cột/ Neo làng ta vào chân sóng vỗ/ Viết bài thơ cho buổi mai lên”. Chỉ bằng mấy câu thơ rút ruột nhà thơ đã khắc họa được bức tranh đẹp, sống động về Làng Triều, một làng quê vùng biển, nhiều vất vả, lắm nhọc nhằn – “Cửa sông lắm lạch nhiều sò/ Áo tơi, nón rách đi mò ốc cua…”. Tôi lại phải công nhận, Văn Đắc có duyên làm thơ về làng, mỗi bài thơ về làng của anh là một khám phá về làng, không bài nào lẫn với bài nào, bài nào cũng cuốn hút người đọc, có những câu thơ hay đến độ toàn bích. Bài thơ Làng sơ tán của anh từ thời chống Mỹ, khi anh mới 27 tuổi, được giải thưởng của báo Văn nghệ năm 1969 là một bài thơ hay về làng thời chống Mỹ: Một túp lều con/ Sơ tán/ Nhiều túp lều con/ Thành làng sơ tán/ Giặc bỏ bom ngang/ Ta xây làng dọc/ Giặc bỏ bom dọc/ Ta dựng làng ngang/ Trận đia giăng hàng/ Rộng hơn vòng bom giặc/…Nhưng mẹ ơi/ Đường từ làng ta ra làng sơ tán/ Không dài hơn tấm lòng yêu thương của mẹ/ Mà ngắn trong mắt trắng của quân thù/… Như những ngày đánh Tây/ Mẹ lại đi sơ tán/ Làng của mẹ đây/ Trận địa của mẹ đây/ Cháu nhỏ trải nong trên đê nằm đếm vì sao hát/ “Một ông sáng sao/ Hai ông sao sáng…”. Đây nữa, một cảnh làng y như một đoạn thơ - phim làm tôi thích thú: “Lắm lúc tôi đi rối rít với đường làng/ Bọn trẻ hò reo: A, Ông Đắc. Ông Đắc/ Thế là cái tên thành tiếng hát/ Bạn nhỏ làng ơi, bạn nhỏ làng”. Càng mường tượng tôi càng lấy làm thích thú cảnh này. Có thể khẳng định, hầu như toàn bộ sáng tác của anh, dù là thơ, dù là trường ca, dù là ký đều nặng tình quê hương; hồn cốt xứ Thanh hiện lên trong từng câu, từng chữ, kể cả trong thơ tình. Văn Đắc là nhà thơ luôn luôn thủy chung với quê hương mình, luôn luôn “bám trụ” quê hương, có thể nói Văn Đắc “Thanh Hóa đến từng mi li mét”. Đến nỗi anh còn có hẳn một tập thơ với tiêu đề nghe như một lời tuyên bố: Tôi nói, tôi người Thanh Hóa. Trong lời tuyên bố dõng dạc này của anh tôi nhận ra một Văn Đắc đầy tự hào, đầy kiêu hãnh, đầy cương nghị với tư cách là một người con của vùng đất mà thiên hạ cho là to gan lớn mật, “ăn rau má phá đường tàu”. Và đây là một minh chứng hùng hồn, khẳng định lời “tuyên bố” nói trên của anh: “Trời Thanh Hóa của tôi là cái vó/ Thả lúc nào cũng vớt được tôi lên”. Quá hay. Tôi thật sự tâm đắc, thậm chí thán phục và cảm ơn Văn Đắc về câu thơ ví von trời phú này. Đề tài quê hương định danh Văn Đắc chính là nhờ những câu thơ hay như vậy.

Văn Đắc làm thơ về thiên hạ rất hay thì khỏi phải bàn, nhưng tài làm thơ về vợ như anh thì không phải nhà thơ nào cũng bì nổi: “Khi anh đang mải nhìn cỏ may/ ngả tay ra với gió/ thì tay em đang sàng gạo/ khi anh đang nhấp chén trà như nhấp mật ong/ thì em mồ hôi ướt hai đầu vú”. Phải công nhận Văn Đắc là nhà thơ rất thành khẩn với vợ, nghe anh “thành khẩn” tới mức “tự thú” mà rởn cả tóc gáy: “Vợ mình không nhớ, đi nhớ người ta /Già cóc củ đế hóa ra dại khờ”. Chẳng biết bạn tôi có dại khờ thật hay không, nhưng bạn tôi nói và nghĩ về vợ như thế này thì vợ còn giận làm sao được nữa: “Ngẫm mình nhớ ngược mong xuôi/ Chẳng nơi nào được như nơi em chờ/ Lấy thơ làm của trong nhà? Buồn vui sướng khổ chia ra cùng người”. Tôi mừng cho bạn tôi có người vợ như cô giáo Khanh. Một người vợ đảm đang, rất đỗi yêu chồng, chăm lo cho chồng, hiểu công việc của chồng và cảm thông với chồng. Thực tình, đôi khi bạn tôi cũng có “say” thật đấy, cũng hơi bị “hư” thật đấy, nhưng lúc nào hắn cũng công nhận, chẳng ai bằng vợ mình. Cho nên, với Văn Đắc, tôi dám khẳng định: dù có đi bốn phương trời, lòng vẫn nhớ về bà vợ.

Văn Đắc là nhà thơ ưa xê dịch, thích ngao du đây đó cùng bạn bè, hồi còn “chân cứng đá mềm” ít khi anh ở nhà, có người bảo anh là nhà thơ lãng du, có lẽ không ngoa. Tỉnh Thanh thì khỏi phải nói, chẳng còn góc nào anh chưa đến, anh thuộc như lòng bàn tay, nhiều năm anh làm thầy giáo, học trò của anh nhiều người thành đạt, chẳng những ở quê hương, mà ở khắp miền đất nước chỗ nào anh cũng có bạn, có người thân quen, có học trò cũ của mình. Anh chu du khắp trong Nam ngoài Bắc, đến đâu anh cũng có thơ hay. Có lần Văn Đắc và anh bạn rủ nhau ra Hà Nội rong chơi: “Thằng làm thơ, thằng trồng rừng/ Rủ nhau ra đất Hà Thành rong chơi…/. Mấy ngày ở Hà Nội “Nghi Tàm quán gió rẽ qua/ Hai thằng làm trúc la đà Hồ Tây”, rồi vào mấy nhà hàng ăn đặc sản, “đổ hết miếng ngọt miếng cay vào người”. “Tỉnh ra thằng đứng, thằng ngồi/ Thằng đứng nhớ núi, thằng ngồi nhơ sông”, rốt cuộc, chẳng đâu bằng quê mình. Đi thuyền trên Sông Hương anh viết: “Ngồi thuyền động nước sông Hương/ Mà chênh chao cả con đường miền Trung”. Vào Năm Căn anh nhậu với người Năm Căn, cởi áo ra nhậu, “đứa nào xỉn cho xỉn luôn”. Khi tàn cuộc Văn Đắc nhận ra: “Tàn cuộc nhìn mặt nhau/ Thấy toàn kênh với rạch/ Sóng biển Đông, biển Tây/ Vỗ ào ào trên ngực”.

Văn Đắc chẳng còn trẻ, anh đã “Díu dăng con mắt, gót chân ngại ngần”, nhưng quả thực anh không muốn mình già, anh muốn anh luôn được trẻ và được khỏe, để đi được nhiều, để viết được nhiều, và… để chơi được nhiều. Tôi thực sự xúc động khi thấy bạn tôi khát thèm tuổi trẻ: “Ta lẻn khỏi tuổi ta/ Tìm lại vườn tuổi trẻ”. Chữ “lẻn” là hình tượng dễ thương làm tôi xúc động. Thực tế cho thấy, bất chấp tuổi tác, anh vẫn còn sung sức về mọi phương diện. Thơ anh vẫn tài hoa, vẫn thăng hoa, vẫn hoa, lá, cành, vẫn “thôi miên” người đọc, thơ anh vừa từng trải, vừa đắm thắm, luôn tìm tòi, mới lạ, không lặp lại chính mình. Bài Mùa cưới, anh sáng tác năm Canh Dần 2010 là một thí dụ: “Mùa/ Các thiên thần/ Xuống trần gian làm lễ động phòng/ Vừa lả, vừa lơi, vừa đoan,vừa trang/ Uống cạn tuần trăng mật”. Ở tuổi nghỉ hưu, anh hoàn toàn thanh thản với sự đời, không chút bận lòng chuyện hư danh. Đối với Văn Đắc: “Được mất trong cõi đời này/ Có ai cầm chắc trong tay mà nhìn/ Mong còn cái tuổi cái tên/ Người ta nhớ để mình yên dưới mồ”. Bạn tôi thanh thản như vậy đó. Suy nghĩ về nghề văn, Văn Đắc nói thế này: “Muốn có thơ hay, nhà thơ phải say mê, dấn thân và luôn luôn đổi mới mình. Tự thú sâu sắc đời sống cá nhân mình để đến với đời. Sống hết mình với dân tộc mới khả dĩ đến với nhân loại. Thơ tôi là tôi vậy. Luôn khát vọng tự do và cái đẹp; luôn hướng về số phận người lao động lương thiện”. Đúng vậy, Văn Đắc là một “nhà thơ tự thú”, thơ anh sẽ bớt hay đi rất nhiều nếu không có “ thần tự thú” ở trong anh.

Tôi đọc liền một mạch tập thơ Cát lầm, đọc xong tôi ngồi suy ngẫm hồi lâu và rút ra kết luận: Cát lầm chính là nỗi niềm của Văn Đắc với quê hương, với bạn bè, với con cái, với thi ca, với đời và với chính mình. Cái “nỗi niềm” của nhà thơ ở tuổi 80 giờ đây sâu lắng hơn, đằm thắm hơn, cho thấy Văn Đắc quả là một nhà thơ giàu trải nghiệm, không ngừng dịch chuyển, nhưng bất kỳ ở đâu, bất cứ lúc nào anh luôn luôn vẫn là mình, vẫn đậm bản sắc xứ Thanh.

Làng Triều, nơi Văn Đắc sinh ra và lớn lên, là làng biển. Đã là làng biển thì đương nhiên tọa lạc trên cát: Làng ta/ Leo đeo bên mép nước cửa sông/ Biển là sân chơi mạo hiểm/ Nhà trên cát/ Hàng năm, hàng đời thay đổi/ Thay đổi mãi mà không chịu mới...( Làng ta).Thay đổi mà không chịu mới ư? Đây chính là nỗi niềm của Văn Đắc. Nỗi niềm của nhà thơ còn thẳm sâu hơn thế trong bài Làng con gái: Có nàng bỏ chồng theo trai/ Kéo nhau về làm rể/ Có nàng luống tuổi không lấy chồng, có con/ Rủ nhau ra cồn cát/ Túm tụm thành làng con gái/ Cồn cát đẻ ra cồn cát/ Nhà ấp mái đẻ ra mái thấp mái cao...Những cồn cát, nơi chất chồng hàng tỷ tỷ hạt cát vô tri vô giác lại là nơi làm điểm tựa cho số phận những con người.

Làng biển đã đổi thay, con hồ từng bao đời gắn bó với người làng biển bây giờ chẳng còn nữa: Nơi ấy mọc lên một đô thị chạm trời/ Con hồ chết cho phố mở sòng bạ... thuốc lắc.../ Khoác tay xe ôm, taxi, cần cẩu... sống và say và ngủ... (Nơi ấy). Cảnh làng nhộn nhịp, xô bồ, thậm chí thác loạn, sau khi con hồ bị giết chết chẳng phải là nỗi mừng mà là nỗi buồn của dân làng, là nỗi niềm, là trăn trở của nhà thơ.

Văn Đắc kể: Tôi có thằng bạn cùng làng/ Hồi nhỏ hai đứa thường rủ nhau quyét lá phi lao, đào cát, đắp cát thành núi non, nhà cửa/ Lớn lên mỗi đứa một nơi, xa nhau biền biệt/ Bỗng một hôm nó đánh xe mời tôi đến thăm nhà mới/ Ôi, ngôi nhà giống như từ trời rơi xuống trảng cát/ ngúng nguẩy lạ lùng/ Ngôi nhà thả mái nghe tôi đọc thơ trong tiếng đàn ghita của ban...(Nơi ấy). Nỗi niềm của Văn Đắc bữa đó khiến nhà thơ đêm về nằm mơ: Đêm về/ Tôi có một giấc mơ đi trong tiếng đàn như ma ám, đi trên mái nhà cao tầng như đi trên cát. Miên man âm điệu làng tôi tôi... (Nơi ấy). Rốt cuộc, kiểu gì thì Văn Đắc cũng trở về với cát, trở lại với làng xưa. Tại sao lại như vậy, đọc mấy câu thơ dưới đây ta khắc rõ: Thời nhỏ cởi trần/ Chạy trên cát/ Ta lẫn vào với cát/ Bây giờ tóc trắng/ Ngồi trên cát/ Ta lẫn vào với cát/ Mấy bông hoa dừa nước/ Nhìn ta cười tít mắt... (Cát lầm). Văn Đắc đã vẽ bức tranh anh lẫn vào với cát từ hồi nhỏ cởi trần, và cả bây giờ khi tóc trắng. Nhà thơ và cát, cát và nhà thơ lẫn vào nhau, hòa quện với nhau, tựa trong cơn cát lầm. Bức tranh nhà thơ với cát, cùng cát đáng yêu và sống động làm sao. Bức tranh đáng yêu và ngoạn mục này chỉ có ở làng biển mà thôi. Cát và làng, làng và cát, cát làng mình vẫn còn đó, vẫn bất di bất dịch, cho dù làng đã hóa phố: Làng ta hóa phố nằm mơ/ Thật mình mà ngỡ như chưa thật mình/ Đường quê khúc gập khúc ghềnh/ Vốc lên vẫn cát làng mình trắng tinh... (Cát lầm). Đoạn kết của bài thơ Cát lầm chính là nỗi niềm của nhà thơ, là nỗi buồn của kẻ mất làng, dẫu cát làng vẫn còn nguyên vị:

Biết bao nhiêu người lạc vào phố chợ

Tìm không ra làng mắt buồn ngơ ngác

Hai tay đào cát, cát chảy ròng ròng

Vội vàng chạy trong nhớ mong

Câu thơ cũng vội long đong với người

Cát lầm bóng lấp lóa tôi…

(Cát lầm)

Như tôi đã nói ở trên, Cát lầm chính là nỗi niềm của Văn Đắc với quê hương, với làng, với biển, với cát, với đời và với chính mình. Nhưng không phải chỉ có như vậy, tôi nhận ra, trong Cát lầm Văn Đắc còn trải lòng mình đối với Hà Nội. Năm bài thơ anh viết về thủ đô cho thấy điều này: Miên man bờ bãi sông Hồng, Hoa dại trắng trong mơ, Sương mù Hà Nội, Mưa chiều Hà Nội, Hồ Tây. Nỗi lòng Văn Đắc khi chia tay Hà Nội như thế này đây: Thế là ngày mai xa Hà Nội/ Hà Nội cho ta một nét Hồ Tây/ Một nét mắt cười, một bàn tay vẫy/ Trắng đêm Hà Nội gọi sang ngày/ Ở lại nhé, nửa trời quê ngăn ngắt/ Thiếu nữ quên thì ta nhớ một mình/ Bao nhiêu sóng Tây Hồ không ngủ được/ Mây kinh thành từ đó hóa mi cong…

Bài thơ Miên man bờ bãi sông Hồng, Văn Đắc làm tặng hai con, con trai và con dâu Nguyễn Thanh Hải - Vũ Thị Minh Phương, cho ta thấy nhà thơ mãn nguyện khi ông đứng trên tầng cao chung cư Intracom, Vĩnh Ngọc, Đông Anh, Hà Nội, tọa lạc bên tả ngạn sông Hồng, cạnh chân cầu Nhật Tân, ngắm con cầu bây giờ thành nơi ngoạn cảnh của ông.

Tại sao tôi nói Văn Đắc mãn nguyện?

Nguyễn Thanh Hải, con trai của Văn Đắc, là kiến trúc sư xây dựng, hiện đang làm ăn sinh sống tại Hà Nội. Để đền đáp công ơn sinh thành và nuôi dưỡng của bố mẹ mình, vợ chồng Nguyễn Thanh Hải đã quyết định mua tặng bố mẹ căn hộ tại chung cư Intracom nói trên, để ông bà có ơi ăn ở đàng hoàng mỗi khi ra Hà Nội với con cháu, để ông bà dưỡng già. Văn Đắc thực sự cảm động, thậm chí bất ngờ, trước nghĩa cử ắp đầy lòng hiếu thảo của các con, điều khiến ông mãn nguyện, mãn nguyện đến độ ông viết: Cười trên mấy chục tầng lầu/ Ném vào thăm thẳm bể dâu đời người/ Thật rồi con ngỡ trò chơi/ Từ cửa bể đến cung trời như không! Miên man bờ bãi sông Hồng/ Con cầu mãi đứng, con đường mãi trôi/ Đông Anh ơi! Tây Hồ ơi!/ Ngả nghiêng dốc chén rượu mời về đâu (Miên man bờ bãi sông Hồng).

Một hôm, ra Hà Nội với con cháu, vợ chồng Văn Đắc mời vợ chồng tôi đến thăm nhà mới. Tôi mang chai rượu cỏ Ba Lan (còn gọi là rượu bò rừng Ba Lan, có người gọi là rượu bò tót Ba Lan) đến tặng bạn tôi, uống mừng nhà mới. Tôi cụng ly rượu cỏ, chúc mừng, Văn Đắc dắt tay tôi, hai thằng cùng nhau ra ban công nhà mới ngoạn cảnh con cầu mãi đứng, con đường mãi trôi. Tôi nhận ra, đôi mắt bạn tôi sáng bừng mãn nguyện.


Tôi và Văn Đắc là bạn đồng môn. Hai chúng tôi học cùng một lớp hồi Cấp III Lam Sơn, khi đó anh là Nguyễn Tiến Tới. Tốt nghiệp cấp III, tôi đi du học nước ngoài (Ba Lan), hai đứa bặt tin nhau. Mấy chục năm sau, tình cờ tôi phát hiện ra, nhà thơ Văn Đắc chính là nguyễn Tiến Tới, bạn tôi. Thế rồi, tôi và Văn Đắc, hai thằng gặp nhau như trong mộng, cả hai cùng bất ngờ, mi, tau miệng rối rít, như hai thằng con nít. Đoạn kết bài thơ Gặp bạn đồng môn, làm tặng Văn Đắc, tôi viết: “Đi tìm thời trai trẻ/ Lạc vào miền bơ vơ/ May còn rượu và thơ/ Giúp mi đi tìm mộng”. Một buổi chiều dạo chơi với bạn trên bãi biển Sầm Sơn, Thanh Hoá, tôi đọc lại bài thơ này, bạn tôi xúc động nói: Rượu bây giờ kém rồi, rốt cuộc chỉ còn mỗi thơ. Tôi vỗ vai anh, bảo rằng: Thơ không phù phiếm, thơ theo cậu suốt đời, kiếp này và cả kiếp sau.

Mừng “VĂN ĐẮC TUYỂN TẬP THƠ” ra mắt bạn đọc, tôi xin chúc bạn tri kỉ của tôi, nhà thơ Văn Đắc, vui khoẻ quanh năm và tiếp tục dồi dào năng lượng sáng tạo thi ca.


Hà Nội, cuối thu năm 2024.