IX. GHI CÔNG NGƯỜI, GHI ƠN CHỮ
Nhằm giữa giờ Tỵ (10h), buổi đại lễ đặt bia tưởng niệm tác giả hai bộ sách Dictionarium Annamiticum - Lusitanum ed Latinum, Phép giảng tám ngày, nhân ngày giỗ ông đã được khởi sự với sự tham dự của các ngài đại diện chính quyền thành phố Isfahan, đại diện nhà thờ cộng đồng Acrmenia, các vị quản trang.
Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng, viện trưởng Viện vinh danh chữ Quốc ngữ và Bảo tồn tiếng Việt trường Đại học Duy Tân, Đà Nẵng, trưởng đoàn, đọc bài diễn từ nói lên công lao linh mục Alecxandre de Rhodes với sự hình thành chữ Quốc ngữ và sự tri ân của các thế hệ người Việt. Tiếp đó là phát biểu của các quan chức thành phố, của đại diện nhà thờ Kito giáo của người Armenia, phát biểu của tiến sỹ lịch sử Nguyễn Thị Hậu, phát biểu của người viết bài này, ký giả tự nhận của đoàn hành hương. Vất vả nhất là hai ông phó nháy Nguyễn Đình Toán và Nguyễn Văn Tâm, chạy như con thoi, phủ phục các góc để chọn góc máy và ánh sáng đẹp nhất. Đặc biệt là nhà quay phim trẻ Huỳnh Văn Truyền. Trước khi đi anh đã chuẩn bị một máy flycam xịn để quay từ trên cao, nhưng khi biết bạn không cho phép, đành thay đổi phương án, kỳ công tìm chỗ đặt ba chân máy quay cho ba vị trí, nhờ Emad giữ máy cố định, còn anh sử dụng chiếc máy chuyên dụng liên tục chạy chỗ không để lỡ một cảnh quay đắt giá nào. Những thước phim và những hình ảnh độc nhất vô nhị này sẽ là kho báu cho một bộ phim tư liệu đặc biệt.
Khi tấm lụa trắng có hình trống đồng nước Việt phủ mộ được tám kiều nữ, áo dài Việt, nón lá tinh khôi, mở ra, tấm đá hoa cương có hình Cha Alexandre de Rhodes bừng sáng dưới nắng rực rỡ, nhạc nền bài “Tình ca” từ băng đĩa ngân lên, dàn đồng ca hai mươi người cùng ngân vang những âm thanh Việt: “ Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời, người ơi…Tiếng nước tôi, bốn ngàn năm ròng rã buốn vui. Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi…Tiếng nước tôi, tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi. Thoắt ngàn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi…” Những ngấn lệ nhòe giữa câu hát. Mỗi người vừa hát vừa chầm chậm bước lên, đặt một bông hoa hồng, màu đỏ, màu vàng, màu xanh thành ba dòng màu dọc mộ. Cả vợ chồng và hai con trai ông Hojat, cả những người bạn Iran cũng cất lời hát theo và cầm hoa đặt lên mộ.
Có cảm giác như có một vầng mây lành sà xuống, cuốn làn khói hương bay lên. Hẳn người nằm dưới mộ đang biết có một nhóm người Việt đến với ông. Họ đã không quên ông dù đã ba trăm năm mươi tám năm trời…Tôi đứng lặng rất lâu và như có một dòng thời gian với những loạt phim mờ chồng đứt nối, từ xa xưa cuộn lướt trong đầu, tạo nên muôn vàn tình huống, muôn vàn giả định. Nếu như không phải đợi đến năm 1919, khi triều đình nhà Nguyễn ra chiếu chỉ học chữ Quốc ngữ toàn nước Việt, mà ngay từ thời chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1620 – 1687), sau khi bộ từ điển Viêt - Bồ - La ra đời, liền ra chiếu cho con dân xứ Đàng Trong của Đại Việt phải thay ngay chữ Nôm, chữ Hán bằng thứ chữ của Cha Alexandre de Rhodes thì tình hình xã hội nước Nam sẽ ra sao nhỉ? Và nếu như bộ tiểu thuyết chương hồi đồ sộ đầu tiên “Việt Nam khai quốc chí truyện”, hay còn gọi là “Nam triều công nghiệp diễn chí” của Bảng Trung Nguyễn Khoa Chiêm (tổ phụ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm) viết năm 1689, rồi “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia Văn phái, “Thượng kinh ký sự” của Hải Thượng lãn ông ( thế kỷ XVII), “Truyện Kiều” của thi hào Nguyễn Du ( 1765 – 1820 ), thơ Hồ Xuân Hương, “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và Đoàn Thị Điểm cùng thời gian ấy, rồi “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu (1822-1888) và bao nhiêu trước tác giá trị khác… cứ đối chiếu từ điển Viêt - Bồ - La mà viết ra, không cần qua chữ Nôm, thì đời sau con cháu đỡ công mày mò chuyển dịch, nhiều khi tam sao thất bản, và tất nhiên sẽ hay hơn biết bao nhiêu. Giống như trong truyện “Trái tim Danko” của Maxim Gorki, Alexndre de Rhodes và bao đồng đạo của ông, bao con chiên người Việt của ông, đã thắp lửa từ ấy, mà phải hơn hai trăm năm sau những thế hệ người Việt nối tiếp mới nhận ra. Và sẽ thật bất hạnh, nếu như không có những người Việt tiên phong đi đầu, những Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của với sự ra đời của Gia Định báo tại Nam Kỳ năm 1865, với những nhà văn đi đầu của dòng văn chương tự sự Nam Bộ, như Nguyễn Trọng Quản với “Truyện thầy Lazaro Phiền” ( 1887), Trương Vĩnh Ký với “ Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” (1876), rồi ba mươi năm sau, tiếp đến những Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh với sự ra đời của Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí (những năm 1910). Rồi cùng với phong trào Truyền bá Quốc ngữ, Đông Kinh Nghĩa Thục…một dòng văn chương Việt hiện đại bắt đầu phát lộ từ Tự lực Văn đoàn, từ Thơ Mới (1932 – 1945), cho đến văn chương chữ Việt đương đại, nhanh chóng chiếm lĩnh những đỉnh cao và sự toàn bích, đưa ngôn ngữ Việt, văn hóa Việt trở thành vi diệu, có khả năng giao hòa, khuếch tán vào nhân loại.
Đã chính ngọ, mà không ai muốn về. Bãi tha ma cổ xứ Ba Tư đã lưu hơi ấm của người Việt.
Từ nay, có một người Việt nằm đây, Cha Alexandre de Rhodes. Từ nay có những dòng chữ Việt, lưu khắc tại đây: “ Chữ Việt còn, Tiếng Việt còn, Nước Việt còn”.
Sẽ có người thắc mắc: Tại sao lại đề “ Chữ Việt còn” lên trên “ Tiếng Việt còn”. Giáo sư Nguyễn Đăng Hưng thổ lộ: Từ lần đi sang Iran tiền trạm, tháng 5 năm 2018, nhiều đêm tôi ít ngủ. Tôi luôn mơ thấy ngài Alexandre de Rhodes về. Ngài chỉ nhìn tôi im lặng. Tôi nghĩ rất nhiều về câu sẽ khắc trên bia tưởng niệm. Tiếng Việt còn thì đương nhiên rồi. Dân tộc mình trường tồn suốt lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước là nhờ còn bảo tồn và phát triển được tiếng nói. Hơn một nghìn năm các triều đại phương bắc muốn triệt hạ chúng ta về văn hóa, cả vật thể và phi vật thể. Và chúng đã phá hủy biết bao nhiêu… Chỉ riêng tiếng nói của người Việt là chúng không thể đồng hóa nổi. Vì thế nước Việt, người Việt mãi còn. Và từ khi có chữ Quốc ngữ, thì tiếng nói mọi vùng miền càng có cơ hội giao thoa, thống nhất. Như vậy chữ Việt còn, và ngày càng trong sáng, càng phát triển, thì tiếng Việt càng giàu có, phong phú, đa thanh đa sắc…
Vâng. Chữ Việt là chìa khóa vàng để bảo tồn và phát triển tiếng Việt, nhất là tiếng Việt hiện đại của thời đại 4.0 với tốc độ phát triển thông tin, công nghệ vũ bão. Chính vì thế, uống nước phải nhớ tới nguồn. Nơi đây, dưới nấm mộ đá ở Isfahan này, là một nguồn mạch, trong rất nhiều nguồn mạch của nước Việt. Nơi đây sẽ là chốn hành hương của những dòng người Việt trên toàn thế giới, những ai khao khát trở về với cội nguồn, khao khát được nói tiếng Việt, viết chữ Việt.
X. ISTANBUL, NGÃ BA THẾ GIỚI
Hành trình cuối cùng của đoàn chúng tôi là du ngoạn ba ngày ở Istanbul.
Cưỡi “thảm bay” Airbus từ Teheran sang Istanbul, một ngày trời trong, sẽ nhìn thấy dưới cánh máy bay, địa hình biến đổi dần từ hoang mạc khô cằn một màu đất đá gan gà, sang vùng đồi núi loáng thoáng xanh, rồi trập trùng xanh, Và bên phải cánh bay là biển Hắc Hải ( Biển Đen) mênh mông tới tít tắp Odetsa…
Khởi thủy Istanbul vốn là một hải cảng vùng biển Marmara, trấn ngữ eo Bosforus, huyết mạch dẫn vào biển Hắc Hải. Nước Nga và các nước vùng Ban Căng, vùng Trung Á, muốn ra Địa Trung Hải và đi thế giới, không thể không qua Istanbul. Với địa thế hiểm yếu này, đương nhiên Istanbul phải là một đại pháo đài. Những bức tường thành, nhiều đoạn nay đã đổ nát nhưng vẫn còn được bảo tồn, bao quanh bờ biển là minh chứng cho những cuộc giao tranh đẫm máu diễn ra nhiều thời kỷ.
Lịch sử chiến tranh, luôn gắn liền với những cuộc di dân và thôn tính, giao hòa văn hóa. Người Hy Lạp, La Mã từng ngự trị ở đây từ thời của những bản hùng ca Home, từ thời Alexandros đại đế và hòa đồng cho tới bây giờ. Không thể ngờ rằng, ở đây, chứ không phải một nước trong thế giới Hồi giáo nào khác, chữ Arap lại được sử dụng sớm nhất. Các thánh đường Hồi giáo từ thời cổ đại còn nguyên vẹn những bản khắc trên đá lời thánh Allah. Nhưng cũng thật kỳ lạ, ngày nay, khắp các đường phố Istanbul, và cả ở thủ đô Ankara, cả ở các thành phố khác trên đất nước Thổ Nhĩ Kỳ, rất hiếm thấy các biển quảng cáo, các thông tin bằng thứ chữ như lửa, như khói của thế giới Arap, mà chỉ thấy các dòng chữ ký tự Latin. Chợt nghĩ tới Việt Nam mình. Hàng nghìn năm bị bó gộp vào bộ chữ tượng hình của người Tầu ( dù là chữ Hán hay chữ Nôm), bỗng nhiên vùng thoát, sáng tạo ra chữ Quốc ngữ, để rồi từ đầu thế kỷ XIX, khởi phát một phương tiện văn hóa, giáo dục, phát triển khoa hoa kỹ thuật, văn học nghệ thuật… hòa đồng với nhân loại.
Năm 1923, nước Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại được thành lâp, do lãnh tụ Mustafa Kemal Ataturk dẫn dắt và là tổng thống đầu tiên của nước Cộng hòa thế tục này. Việc đầu tiên Mustafa Kemal làm là cải cách giáo dục, thay đổi chữ viết, đoạn tuyệt với thứ chữ giun dế, chuyển sang hệ chữ Latin. Từ đây, nước Thổ Nhĩ Kỳ ngả nhiều sang màu sắc châu Âu. Cho nên, dù vẫn ghé chân trong thế giới Arap (về mặt tôn giáo, văn hóa, lãnh thổ), nhưng thể chế, lối sống, chữ viết, xu thế…Thổ Nhĩ Kỳ đã thực sự là một quốc gia châu Âu. Chỉ cần Đông Thrae với 3% diện tích cả nước, chỉ cần một nửa thành phố Istanbul thuộc bờ bắc kênh Bosforus, cả nước Thổ Nhĩ Kỳ đã được ăn theo, được coi là một nước châu Âu.
Tới thăm thánh đường Hoja Sophia, một trong nhiều thánh đường Hồi giáo ở Istanbul, mà du khách luôn choáng ngợp, trầm trồ bởi kiến trúc bậc thầy, bởi sự tráng lệ, nguy nga và nghệ thuật điêu khắc hoành tráng, tinh xảo, sẽ thấy sự bảo tồn và hóa giải tuyệt vời giữa Kito giáo và Hồi giáo như thế nào. Thánh đường được xây dựng từ thế kỷ thứ IV bởi những người Kito giáo, với những bức tranh chúa Jesus Christ và thánh nữ Maria trên tường, trên vòm mái. Thế kỷ thứ XIV, người Hồi giáo chiếm lại, nhưng không phá hủy, mà sơn phủ đi, quay lại điện thờ hướng về thánh địa Mecka, khắc ghi những lời của thánh Allah, trở thành một thánh đường Hồi giáo hoàn hảo. Ngày nay, người ta đã cạo đi một vài mảnh tường, để lộ ra nguyên bản ban đầu, để nói rằng, ở Istanbul, sự hòa hợp của các tôn giáo là một phẩm chất, một ứng xử văn hóa nhân văn.
Cũng tại một trong những bảo tàng lớn ở Istanbul, bảo tàng và cung điện Topkapi Palace, năm 1980, ngài bí thư đại sứ quán Nhật Bản tại Hà Nội Makoto Anabuki đã phát hiện ra chiếc bình hoa lam quý giá hình củ tỏi, cao 54 cm được bảo hiểm tới một triệu USD, có ghi dòng chữ : “Thái Hòa bát niên, Nam Sách châu, tượng nhân Bùi Thị Hý bút” ( Thái Hòa năm thứ 8 – Đời vua Lê Nhân Tông (1450), tượng nhân là Bùi Thị Hý , người châu Nam Sách, lưu bút). Vậy là từ thế kỷ thứ XV, hàng gốm cao cấp Chu Đậu, Nam Sách, Hải Dương của Đại Việt đã vượt trùng dương sang tận vùng viễn tây xa xôi này
Du khách đến thăm Istanbul, luôn thấy mình sống trong một đô thị đa văn hóa. Cả những lữ khách Anh, Mỹ, Nga, Pháp, Tây Ban Nha, Ý, Hy Lạp, cả những du khách các nước Arap, đều thấy Istanbul thân thiết như thành phố quê nhà. Riêng với khách châu Á, nhất là những người Việt, thì luôn thấy choáng ngợp, mỗi nhà thờ, mỗi pháo đài, mỗi con phố, mỗi nhịp cầu đều lạ lẫm, kỳ khu, mới lạ.
Xin đừng bỏ qua những khu chợ Istanbul. Chỉ riêng bờ bắc thành phố đã có vài ba khu chợ cổ kính. Lớn nhất có lẽ là Spice Market. Thực sự là những chợ trong chợ, thành phố chợ, có tới 12 cổng, mỗi cổng đều có mái vòm, vọng lâu, như Ô Quan Chưởng ở Hà Nội. Du khách vào chợ nên đi theo đoàn, rồng rắn theo nhau kẻo lạc. Cổng chợ số 7 Kapalycarsi có quốc huy cổ, xây từ năm 1461, là một cổng thành chứ không phải cổng chợ, rất ấn tượng. Vào đây, đi lòng vòng hết khu may mặc đồ da, đến khu gốm sứ, khu chạm khắc, khu hương liệu… cơ man hàng hóa, cơ man người. Chợt nhận ra cái lõi văn hóa đạo Hồi, giống như xứ sở Ba Tư ngày xưa, như Iran bây giờ. Hầu hết những người bán hàng đều là đàn ông. Trước mỗi quầy hàng, ngay cả khu rau quả, thực phẩm, vẫn là những ông già râu tóc bạc phơ, những người đàn ông mắt sâu, râu quai nón rậm rì, ai cũng thường trực nụ cười, rồi cười rất tươi chào mời khách. Chỉ cần khách dừng lại là họ chỉ trỏ giới thiệu các mặt hàng và mở máy tính, bấm nhoay nhoáy giá từng thứ đồ. Họ chấp nhận đủ mọi thứ tiền, USD, Euro, Rials (Iran) , Lira ( Thổ Nhĩ Kỳ). Và thường bán cho khách chỉ một nửa số tiền họ nói, nếu khách biết mặc cả. Lại nhớ lần sang Ba Lan, thăm khu chợ vòm ở thủ đô Vacsawa. Cả khu chợ mênh mông hàng trăm gian hàng chia làm ba khu vực, khu người Tầu, khu người Thổ và khu người Việt. Người Thổ Nhĩ Kỳ buôn bán giỏi nhất thế giới Arap.
Có một tour mua sắm, mà chỉ những tour leader chứ không phải tour gide dẫn mối, mới được tiếp cận. Đó là đi mua thảm len và hàng đồ da ở hãng sản xuất lâu đời và nổi tiếng nhất Istanbul. Cơ sở sản xuất thảm len nằm ở khu phố bờ biển. Khách đến, được mời xem quy trình dệt len thủ công với những người thợ lành nghề. Rồi hàng chục thanh niên lực lưỡng khuân ra những khoanh thảm, nhỏ như vuông chiếu và lớn bằng cả diện tích những gian đại sảnh. Đẹp và tinh xảo, quý phái đến ngỡ ngàng. Nhưng đến khi phát giá, hầu như tất cả đều lắc đầu, lè lưỡi. Tấm nhỏ nhất, như vuông chiếu cũng hai ngàn USD. Tấm đại sảnh tới vài chục ngàn USD. Khách tấm tắc khen rồi vái tay ra về.
Ở hãng sản xuất hàng da quý hiếm, có tuổi đời hơn trăm năm, sự tiếp đón còn nồng hậu hơn nữa. Khách được mời uống trà ô liu nóng với đường chà là, được mời xem một catwalk show, thậm chí mời cả các thành viên của đoàn lên sàn biểu diễn. Ai cũng tưởng mình đang trong một cung điện trình diễn thời trang ở Ytalia, ở Pháp. Những chiếc áo da đủ loại, da cừu, da bò, da tuần lộc… với độ mềm như lụa, mịn như nhung, với đủ màu sắc. Tất nhiên một chiếc áo da hai lớp, có thể mặc trong mặc ngoài, một túi xách cũng đề bảng giá tối thiểu từ 2500 USD tới nhiều nghìn USD. Khi biết khách là người Việt Nam, ông chủ tuyên bố xanh rờn: “Chúng tôi thường chỉ khuyến mại 40%, nhưng với các bạn Việt Nam anh hùng, hôm nay chúng tôi khuyến mại tới 60%”. Và tất nhiên, những chiếc hầu bao của khách Việt vốn luôn khóa chặt, được mở tung. Nhưng khi thanh toán thì hai bên tiếp tục một cuộc thương lượng. Cuối cùng, ông chủ râu rậm và mến khách lại tuyên bố xanh rờn một lần nữa: “Hôm nay là một ngày đặc biệt, được đón đoàn khách đặc biệt đến từ Việt Nam quang vinh, chúng tôi đặc cách giảm giá cho các bạn 80%”.
Tám mươi phần trăm cho Việt Nam quang vinh. Một niềm vui, một tình cảm quá hào phóng của những người bạn Thổ Nhĩ Kỳ giữa cố đô Istanbul.
Isfahan, Iran 5/11
Vũng Tàu,Hầ Nội, 12/2018.
HMT
Bài tham khảo:
ĐỌC TRƯỚC MỘ CHA ALEXANDRE DE RHODES Ở ISFAHAN , IRAN
Ngày 5/11/2018
Thưa Cha.
Ở Việt Nam có một đường phố mang tên Ngài, đường Alexandre des Rhodes, ở trung tâm Sài Gòn, tức thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Trước đó cả thế kỷ, ở trung tâm Hà Nội, thủ đô của nước Việt, có một tấm bia vinh danh Ngài bên Hồ Gươm, tiếc rằng, do giặc giã, đã bị thất lạc.
Điều đó nói rằng, hơn ba trăm năm qua, người Việt Nam không quên Ngài, vẫn luôn nhớ Ngài như thuở Ngài sống và cùng các giáo sĩ Borri, Emmaanuel Fernades, Buzomi, Francois de Pina…cùng các con chiên người Việt, đặc biệt là quan tuần phủ Quy Nhơn Trần Đức Hòa, người đã cưu mang các ngài trong những ngày đầu ở cư sở Nước Mặn, góp phần sáng tạo nên chữ Quốc ngữ.
Và sự hiện diện của chúng tôi hôm nay, một nhóm người Việt nặng lòng với tiếng Việt, chữ Việt, tại nơi yên nghỉ của Ngài, cố đô Isfahan của xứ sở Ba Tư huyền thoại, đúng ngày giỗ lần thứ 358 của Ngài ( 5/11/1660 – 5/11/2018), nói rằng Ngài vẫn luôn sống trong tâm tưởng mọi thế hệ người Việt.
Có muộn quá không, đã 372 năm kể từ ngày Ngài xa nước Việt, nơi mà Ngài đã gắn bó suốt 20 năm, từ 1625 đến 1645, đã luồn rừng lội suối, cùng ăn cùng ở với người dân, nói thứ ngôn ngữ thuần Việt với con chiên, với Chúa, để rồi kết tinh nên bộ sách khai sáng Dictionarium Annamitium Lusitanum ed Latinum ( Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - La Tinh, gọi tắt là từ điển Việt - Bồ - La), in tại Roma, 1651.
Không quên, cũng có thể hiểu là không muộn, và có thể được thể tất, được xá lỗi, thưa Cha.
Là một người gắn với nghiệp cầm bút, với tiếng mẹ đẻ, chúng tôi luôn coi Ngài và các cha Francois de Pina, Buzomi, Borri, Emmanuel Fernandes như những người Thầy khai sáng. Tôi nghĩ, rồi đến một lúc, các thế hệ hậu sinh nước Việt sẽ rước Ngài vào Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Hà Nội, Thánh đường của đạo học Việt Nam để phối thờ cùng các đại sư biểu kiến tạo và mở mang văn hóa, giáo dục... Người Việt chúng tôi từng có câu tục ngữ : Uống nước nhớ nguồn, chắc ngài đã biết từ ngày ở giáo đường Thanh Chiêm, xứ Quảng? Và nên chăng, các con dân Việt Nam nên đề nghị Nhà nước chọn ngày 5 tháng 11 hàng năm là ngày Vinh danh chữ Quốc ngữ và giữ gìn, phát triển sự trong sáng của Tiếng Việt ?
Nói vậy để thấy rằng, kể từ khi bộ Từ điển Việt - Bồ - La ra đời, và đặc biệt từ tháng 12 năm 1918, khi triều đình nhà Nguyễn chính thức quy định dạy chữ Quốc ngữ trong các trường học cả nước, thì không chỉ giáo dục, báo chí, văn hóa, mà tất các các lĩnh vực khoa học kỹ thuật, đời sống của nước Việt đã đột biến phát triển lên một bước mới. Trong những thành tựu vượt trội, phải kể đến văn chương Quốc ngữ. Cùng với sự nở rộ của báo chí, bắt đầu từ Gia Định báo ra đời năm 1865 ở Sài Gòn, cùng với phong trào Truyền bá Quốc ngữ, phong trào Đông Kinh Nghĩa thục…, một dòng văn xuôi tự sự Quốc ngữ Nam Bộ đã gợi mở và đặt nền móng cho những trào lưu văn học Tự lực Văn đoàn, Thơ Mới sau này. Và tiếp theo là dòng văn học Hiện thực và văn học Hiện đại hôm nay… Nói không ngoa, một trăm năm qua là cuộc đại hợp thành của nền văn học hiện đại Việt Nam, là cuộc vật vã khai mở vào ngôn ngữ tiếng Việt của những phu chữ ( theo cách nói của nhà thơ Lê Đạt), để khởi sinh và phát triển một dòng văn học chữ Việt, ào ạt tuôn chảy, nhanh chóng chiếm lĩnh những đỉnh cao và sự toàn bích, đưa ngôn ngữ Việt, văn hóa Việt trở thành vi diệu , có khả năng giao hòa, khuếch tán vào nhân loại…
Xưa nay kẻ sĩ thường không thích nói về mình. Hẳn Ngài cũng như Đại thi hào Nguyễn Du, những người làm ra sản phẩm tinh thần, thường luôn nghĩ mình mong manh, luôn mặc cảm sợ người đời không hiểu mình, dễ lãng quên mình. “ Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?" ( Không biết rằng ba trăm sau, Có ai là người khóc Tố Như (ta) không?)
Thưa Cha Alexandre des Rhodes, người Việt Nam chúng tôi không bao giờ quên những người tạo lập công đức và kiến tạo văn hóa, những Hai Bà Trưng, Ngô Quyền , Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du... Và cả Ngài nữa. Ngài đã trở thành một người Việt viết hoa. Ngài đã tạo dựng Công đức, kiến lập Văn hóa với nước Việt.
Và hôm nay, tại đây, chúng tôi xin kính cẩn thắp hương, đặt bia tưởng niệm Ngài, xin tri ân với bạn bè tại thành phố Isfahan mến khách và tươi đẹp, nơi ngài an nghỉ đời đời, đã giành cho chúng tôi một chốn hành hương, như về với cội nguồn.
Hoàng Minh Tường
( nhà văn)