(Kì 7)
Nguyễn Ngọc Kiên
(15)Vô cùng vô tận
Thành ngữ này có xuất xứ từ bài thơ Đạp sa hành (踏莎行) của Án Thù) (晏殊) đời Bắc Tống. Nguyên tác của bài thơ như sau:
踏莎行其二
祖席離歌,
長亭別宴,
香塵已隔猶回面。
居人匹馬映林嘶,
行人去棹依波轉。
畫閣魂消,
高樓目斷,
斜陽只送平波遠。
無窮無盡是離愁,
天涯地角尋思遍。
Phiên âm:
Đạp sa hành kỳ 2
Tổ tịch ly ca,
Trường đình biệt yến,
Hương trần dĩ cách do hồi diện.
Cư nhân thất mã ánh lâm tê,
Hành nhân khứ trạo y ba chuyển.
Hoạ các hồn tiêu,
Cao lâu mục đoạn,
Tà dương chỉ tống bình ba viễn.
Vô cùng vô tận thị ly sầu,
Thiên nhai địa giác tầm tư biến.
Bản dịch của Nguyễn Phước Hậu:
Chia ly tiệc quán tiễn ngâm nga
Ngoảnh ngắm bụi mờ khuất lối qua.
Ngựa hí vang rừng người ở lại
Chèo khua dậy sóng kẻ về xa.
Lầu gác hồn tan mắt dõi theo
Xa trông nước lặng sóng về chiều.
Chia ly sầu thảm không bờ bến
Góc đất chân trời dạ hắt hiu.
Trong tác phẩm Tây Du Kí của Ngô Thừa Ân, có viết:
“Đường sang Tây thiên vô cùng vô tận, khi nào mới tới được đây?”
Tây Du Kí- Ngô Thừa Ân
Trong truyện ngắn của mình Lỗ Tấn cũng dùng thành ngữ này:
“Trong lòng anh ta có cái gì đó kỳ lạ vô cùng vô tận, tất cả bạn bè của tôi không bao giờ biết được.”
(Lỗ Tấn – Cố hương)
Theo Từ điển tiếng Việt Wikipedia mở, “vô tận” hay “vô cực’ là thuật ngữ dùng trong thần học, triết học, toán học cũng như trong cuộc sống hàng ngày. Vô tận theo nghĩa thông thường nghĩa là không giới hạn, không có xác định được kích thước hay số lượng cụ thể. Với ý nghĩa này, vô tận trùng với vô hạn, vô cùng. Trong toán học, vô cực được ký hiệu bằng ∞.
Các nghiên cứu về vũ trụ đưa đến một kết quả rằng, vũ trụ hay vũ trụ quan sát được của chúng ta là hữu hạn nhưng không có biên . Theo như kết quả hiện giờ vũ trụ vẫn còn nhiều bí ẩn. Sự vô biên hay hữu biên của vũ trụ chưa được chứng minh. Chúng ta nên biết hầu hết các hình ảnh về vũ trụ là ảnh của mô hình dự đoán (không phải do chụp thực tế mà có). Các nhà khoa học thể hiện mô hình cho dễ hiểu.
(16) Cưỡi ngựa xem hoa (走马观花) [tẩu mã quan hoa]
Đây là một thành ngữ tiếng Trung Quốc. Chuyện rằng:
Có một cô nàng nọ đã đến tuổi cặp kê mà vẫn chưa có ai. Lý do là môi của cô có khuyết điểm, bị hở hàm ếch. Và ở vùng khác, cũng có một anh chàng kia, tuổi đã lớn mà chưa có người nâng khăn sửa túi vì anh bị tật ở chân. Cả hai đều nhờ đến mai mối, mong tìm được người thương. Bà mai mà hai người này nhờ lại là một người, bởi vậy câu chuyện mới tiếp tục và làm cho hai người xa lạ kia tiến gần lại với nhau. Bà xếp đặt cho hai người một cuộc hẹn. Đó là vào hội chợ hoa.
Chợ hoa lần ấy, người ta thấy một chàng thư sinh cưỡi chú tuấn mã thong dong vào vườn hoa. Laị còn thấy một cô gái thật đẹp nép nửa mặt vào trong cánh quạt, đang e lệ khẽ nâng từng cánh tầm xuân
Sau đó hai người hình như là quen nhau, dù hơi xấu hổ khi biết được khuyết điểm của nhau。
Câu "cưỡi ngựa xem hoa" ra đời từ đó.
Người Việt mượn câu này và dịch ra tiếng Việt với ý nghĩa là: Nói đến cách làm việc của một cá nhân nào đó chỉ lướt qua đại khái hay cho có chứ không muốn tìm hiểu sâu và chi tiết vào nó trong khi thực chất công việc đó đòi hỏi phải xem xét kĩ lưỡng. Giống như khi xem một đóa hoa đẹp, người ta phải lại gần, nâng niu và từ từ ngắm thưởng thì bạn lại ngồi trên ngựa mà ngó xuống, thử hỏi như vậy làm sao thấy hết đc vẻ đẹp của bông hoa. Giống như thành ngữ thầy bói xem voi chỉ vội vàng kết luận mà không xem xét kỹ toàn diện kĩ lưỡng.
(17) Tái ông thất mã塞翁失馬
(Tái ông mất ngựa)
Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu về câu thành ngữ
“Tái Ông thất mã”.
Xưa có ông lão tên là Tái Ông sinh sống ở vùng biên giới
phía Bắc Trung Hoa. Ông rất giỏi việc nuôi ngựa. Ngày kia
ngựa của Tái Ông xổng chuồng chạy sang nước Hồ lân
cận. Hàng xóm láng giềng hay tin đã đến an ủi nhưng Tái
Ông lại cười mà rằng: “Tôi tuy mất ngựa, nhưng đó có thể
lại là điều tốt.”
Vài tháng sau, con ngựa mất tích đột nhiên trở về
cùng một con tuấn mã. Thấy thế, hàng xóm đến chúc
mừng, tuy nhiên Tái Ông cau mày nói: “Tôi được ngựa
quý, sợ rằng đó chẳng phải là điềm lành.”
Từ mất ngựa, rồi bỗng nhiên được một đôi tuấn mã,
thế nhưng Tái Ông lại cau mày nói: “Tôi được ngựa quý, sợ
rằng đó chẳng phải là điềm lành.”
Con trai ông thích cưỡi con ngựa quý, một hôm anh
ta ngã ngựa gãy chân và trở thành tàn tật. Hàng xóm đến
khuyên nhủ ông đừng quá nghĩ ngợi, Tái Ông điềm nhiên:
“Con trai tôi tuy gãy chân, nhưng đó chưa hẳn đã là điều
không may.” Khi đó hàng xóm nghĩ rằng ông lão quá đau
buồn nên bị quẫn trí.
Một năm sau, nước Hồ láng giềng đưa quân sang
xâm lược. Tất cả thanh niên trai tráng đều phải tòng quân
và hầu hết đều bị tử trận. Con trai ông vì tàn tật nên được ở
nhà và thoát chết. Lúc này hàng xóm láng giềng mới thấy
rằng những lời của Tái Ông quả thật rất thâm thúy.
“Con trai tôi tuy gãy chân, nhưng đó chưa hẳn đã là
điều không may.”
………..
(Theo Đại Kỷ Nguyên bản
tiếng Anh)
Người Việt mượn thành ngữ này theo lối trực dịch.
Trong tiếng Hán cũng như trong tiếng Việt, “Tái Ông
thất mã” (Tái Ông mất ngựa) được dùng để an ủi người
đang gặp khó khăn. Họa có thể biến thành phúc, và phúc có
thể trở thành họa. Cũng giống như câu nói “trong cái rủi có
cái may” vậy, mọi chuyện đều có nguyên nhân mà không
thể xét đoán dựa trên biểu hiện bề mặt.
Cũng có nghĩa là, cần thuận theo tự nhiên, làm được
việc gì cũng đừng vội đắc ý, lúc gặp trở ngại cũng chớ vội
bi quan.
(18) Xuân phong đắc ý (春风得意)
Đây là thành ngữ được sử dụng nhiều trong tiếng
Trung Quốc. Nó có xuất xứ từ bài thơ “Đăng khoa hậu”
của thi sĩ Mạnh Giao đời Trung Đường. Nguyên văn như
sau:
登科後
昔日齷齪不足誇,
今朝放蕩思無涯。
春風得意馬蹄疾,
一日看盡長安花。
Phiên âm Hán Việt:
Đăng khoa hậu
Tích nhật ác xúc bất túc khoa,
Kim triêu phóng đãng tứ vô nhai.
Xuân phong đắc ý mã đề tật,
Nhất nhật khán tận Trường An hoa.
Dịch nghĩa
Đăng khoa hậu
Ngày trước biết bao cay đắng không sao nói hết,
Sáng nay ưu phiền tan biến, tâm tư không còn gì câu thúc.
Ngọn gió xuân mát rượi, leo lên ngựa phóng đi,
Trong ngày đi xem tất cả các vườn hoa trong Trường An.
Dịch thơ (Bản của Khương Hữu Dụng)
Đăng khoa hậu
Eo hẹp ngày xưa khỏi kể ra
Sớm nay thoả chí nức lòng ta
Gió xuân thả sức cho phi ngựa
Ngày trọn Trường An xem hết hoa
Như đã nói “xuân phong đắc ý” chỉ xuât hiện trong
tiếng Trung Quốc. Nghĩa bóng của nó là, sau khi đỗ tiến,
cưỡi ngựa đi trong mùa xuân, chỉ trong một ngày đã ngắm
được toàn cảnh đông kinh Tràng an. Chỉ con đường thăng
quan tiến chức thuận lợi, hanh thông.
(19) Thiên hô vạn hoán
Đây là thành ngữ khoa trương trong tiếng Trung
Quốc. Thành ngữ này có xuất xứ từ bài thơ “ Tì bà hành”
của Bạch Cự Dị đời Đường. Theo tác giả kể lại thì: “Năm
Nguyên Hoà thứ 10, ta về giữ chức Tư Mã ở quận Cửu
giang. Qua mùa thu năm sau, đêm ra tiễn khách bên bến
sông Bồn, chợt nghe thuyền ai có tiếng đàn Tỳ Bà vọng lại.
Nghe trong tiếng đàn thánh thót, âm vang điệu nhạc ở kinh
đô. Bèn hỏi gốc gác. Người đàn trả lời rằng: “Tôi vốn là
con hát, quê ở Trường An, học đàn Tỳ Bà với hai danh sư
Mục và Tào. Nay tuổi đã cao, nhan sắc tàn tạ, lấy chồng
làm con buôn [thường theo thuyền buôn đi đây đi đó]”.
Nghe vậy, cho dọn rượu ra đãi, xin nàng đàn lại cho nghe.
Ðàn xong cảm xúc vô vàn, nàng bèn kể lại cuộc đời mình
từ lúc còn trẻ, vui sướng, cho tới lúc lưu lạc giang hồ khổ
nhọc. Ta về đây làm quan đã được hai năm, thanh thản,
yên ổn. Hôm nay nghe nàng nầy nói chuyện, cảm thương
cho số phận lưu đày! Bèn làm một bài thơ dài tặng nàng ta,
gồm 616 lời, gọi là Tỳ Bà Hành.”
Bài thơ có đoạn:
千呼萬喚始出來
猶抱琵琶半遮面
轉軸撥絃三兩聲
未成曲調先有情
Nhà thơ Phan Huy Vịnh cả đời làm thơ, nhưng có lẽ
người đời nhớ đến ông qua bản dịch “Tì bà hành” của Bạch
Cư Dị. Đoạn thơ trên được Phan Huy Vịnh dịch như sau:
Mời mọc mãi thấy ngườ.i bỡ ngỡ,
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn vài tiếng dạo qua,
Tuy chưa trọn khúc, tình đà thoảng hay.
千呼萬喚 thiên hô vạn hoán chính là nguồn gốc của thành
ngữ.
(20) 画蛇添足 [họa xà thiêm túc] Vẽ rắn thêm chân
Thành ngữ tiếng Hán này có xuất xứ từ câu chuyện
như sau:
Thời xưa nước Sở có một quý tộc, sau khi cúng lễ tổ tiên,
liền thưởng cho các môn khách đến giúp việc một ấm rượu.
Các môn khách bàn với nhau: "Một ấm rượu chia cho mọi
người cùng uống thì không đủ, một người uống thì có thừa.
Vậy thì chúng ta cùng thi vẽ một con rắn trên mặt đất, ai vẽ
xong trước, thì người đó được uống ấm rượu này."
Có một người vẽ xong trước nhất. Anh ta cầm ấm
rượu định uống, nhưng lại đắc chí lấy tay trái cầm ấm rượu,
tay phải tiếp tục vẽ rắn, miệng nói: "Các người xem, ta còn
có thời gian để vẽ thêm mấy chiếc chân cho rắn đây."
Thế nhưng không đợi anh ta vẽ xong chân rắn, một
người khác đã vẽ xong rắn. Người đó giằng lấy ấm rượu
vừa cười vừa nói: " Thật rởm! Rắn làm gì có chân, anh vẽ
thêm chân cho rắn làm gì", nói xong liền uống rượu trong
ấm. Người vẽ thêm chân cho rắn đã để mất ấm rượu đáng
lẽ thuộc về anh.
(Theo Chiến quốc sách)
Chuyện ngụ ngôn này nói với mọi người, nếu làm
một việc, cần phải có yêu cầu cụ thể và mục tiêu rõ ràng,
phải theo đuổi nó, hoàn thành nó với ý chí tỉnh táo kiên
định, không nên bị thắng lợi làm mê muội đầu óc, dẫn đến
thất bại.
Người Việt mượn thành ngữ này dịch sang tiếng Việt
là “vẽ rắn thêm chân” để chỉ những việc làm thừa, vô ích,
không đem lại hiệu quả gì, thậm chí phản tác dụng. Cùng
với vẽ rắn thêm chân thì vẽ rồng thêm mắt cũng có nghĩa
tương tự. Để diễn đạt ý này, người Việt còn dùng “thừa
giấy vẽ voi”.
Bấm “vẽ rắn thêm chân” vào google trong 0,45 giây có
ngay 180000 kết quả.
Cách nay mấy năm, Báo Phụ nữ online đã có bài báo
giật tít “Vẽ rắn thêm chân” và đưa tin:
“Sáng 19/8, báo mạng đưa tin ông Phó giám đốc
Sở Văn hóa-Thể thao-Du lịch (VH-TT- DL) Hà Nội cho
hay: kế hoạch kỷ niệm, tôn vinh Hai Bà Trưng sẽ được
hoãn lại và tổ chức vào dịp 1.975 năm khởi nghĩa Hai Bà
Trưng, tức là sang năm, sau Tết âm lịch.
Lý do dừng tổ chức là thành phố có việc đột xuất!
Vậy, sang năm, có thể người ta vẫn làm chứ không phải
dừng, dù dư luận có ý kiến này nọ. Bây giờ dùng đuốc mà
soi, đố ai tìm ra trong sử sách dòng nào đảm bảo tính chân
thật lịch sử, có cứ liệu chính xác về hai bà. Sách giáo khoa
là sách công cụ mang tính pháp quy của quốc gia, nhưng ở
cả ba cấp, học sinh không biết hai bà sinh năm nào, mất
năm nào, có thật là hai chị em không... chỉ thấy nói chung
chung.
Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc, Phó chủ tịch Hội
Khoa học Lịch sử Việt Nam phải thốt lên rằng: tổ chức sinh
nhật Hai Bà Trưng là chuyện nực cười, bởi không ai làm
chuyện đó cả khi mọi sự là huyền sử, không biết được ngày
sinh thì sao làm sinh nhật? Tư liệu dân gian có lúc nói hai
bà sinh ngày 1/8, rồi 13/8 âm lịch. Những sách về Hai Bà
do giáo sư biên soạn đều không đưa vào chi tiết này, bởi
không có cơ sở nào cả.”
Ở đây tác giả ví chuyện thành phố Hà Nội tổ chức
sinh nhật cho Hai Bà Trưng là chuyện “vẽ rắn thêm chân”!
Thật khôi hài chuyện VẼ RẮN THÊM CHÂN ở xứ ta!
Nguyễn Ngọc Kiên