Như mọi người đều biết, “Ả đào” vốn là lối hát thờ, và nó từ cửa đình vào cung đình, lại từ cung đình trở về gia đình, và trở thành một thứ nhạc thính phòng quý phái tồn tại suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta. Đây là lối hát, múa có nhạc do một tốp nữ trình bày. Nhưng từ hậu Lê sang Nguyễn, không hiểu do những nguyên nhân đột biến sáng tạo nào, mà nó được chuyển sang hình thức độc đáo như còn tồn tại tới ngày nay.
Hát Ả đào, tất nhiên phải có đào hát với giọng hát khỏe, trầm và sang. Nhạc đệm cho người hát gồm có chiếc đàn đáy, chiếc trống con, gọi là trống chầu và cả chiếc phách, cũng gọi là cỗ phách do người hát điều khiển.
Chúng ta có nhiều nhạc cụ dân tộc, nhưng chỉ có cây đàn đáy mới thích hợp với lối hát này. Thùng đàn nom như một cái hộp gỗ hình chữ nhật không có mặt hậu ( tức là không có đáy ). Giây đàn làm bằng những sợi tơ đậu săn. Đặc biệt chiếc cần đàn cao vút tới hơn một mét. Do cấu trúc độc đáo nên nó mới tạo được một thứ âm sắc đùng đục đầy chất suy tư sâu lắng lại đượm vẻ trang nhã mà không khoa trương ầm ĩ.
Trong hát Ả đào, người đàn người hát giữ vai trò chủ thể. Nhưng người cầm trống chầu lại có hai chức năng vừa là chủ thể, vừa là khách thể. Trống chầu chỉ tạo được hai loại âm sắc “tom”, khi chiếc roi gõ lên mặt trống, “chát” khi chiếc roi đập vào tang trống.
Người cầm trống chầu không có khả năng của nhạc công, càng không có khả năng lĩnh xướng như đào hát. Song nó đòi hỏi năng khiếu thẩm thơ, thẩm nhạc, thẩm âm với trình độ bậc thầy. Cho nên tiếng trống đôi khi dẫn dắt cho cuộc chơi, nâng tiếng đàn, giọng hát và cả tiếng phách nhấn, ém, nhả hoặc chấm câu cho đúng chỗ, đúng lúc. Đôi khi người cầm trống chầu lại thoát ra khỏi cuộc chơi, mà nhập vào với đám thính giả khác, để phẩm bình, khen chê thật sành điệu. Còn gõ phách do ca công, tức người hát điều khiển. Phách thật là đơn giản, nó được chế từ một mảnh tre, to bằng nửa chiếc bao kính và hai chiếc dùi gõ nhỏ như hai chiếc đũa.
Nghệ sĩ dù có giọng hát hay đến mấy mà không biết dóc phách coi như không hội nhập được với cuộc chơi. Người biết sử dụng phách giỏi phải tạo được ba âm sắc: rục, phách, chát. Thông thường, người nghe dễ nhận thấy nhất là hai khổ “sòng” và “siết”, có thể nói đây là hai chủ đề chính của lề lối. Khổ “sòng” biểu hiện cái đẹp khỏe khoắn hồn nhiên nhưng dứt khoát. Khổ “siết” thể hiện tính lãng mạn, bay bổng.
Không hiểu ai đặt tên cho cái thanh tre kia là “phách”. “Phách” theo nghĩa của từ Hán- Việt là cái tinh hoa nhất trong toàn thể cái tinh thần cao khiết của con người. Quả thật, nghe tiếng dóc phách của các nghệ sĩ bậc thầy như Quách Thị Hồ, ta thấy nó như có ma lực hút hồn ta vào cõi nhạc. Vì vậy, trong hát Ả đào, các yếu tố như đàn, hát, trống , phách, lời thơ không thể loại bỏ được yếu tố nào, nhưng phải xem phách là linh hồn của cả canh hát.
Mỗi bản nhạc thường có khúc dạo đầu ( prélude ). Hát Ả đào cũng vậy, trước khi giọng hát cất lên, năm khổ phách cùng trống với đàn đan quyện vào nhau như tiếng tơ, tiếng trúc và tiếng châu nẩy trên mâm ngọc, vừa thiết tha, vừa sang quí biết chừng nào. Và nó được tái tạo nhiều lần trong toàn bài.
Nói đến nghệ thuật hát Ả đào mà không nói đến nghệ thuật soạn lời thơ là một khiếm khuyết. Những bài thơ do các danh sĩ bậc thầy cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 còn lưu lại cho ta thấy một mẫu mực điển hình về nghệ thuật viết lời cho nhạc. Vì vậy, nhiều người viết lời ngày nay với tinh thần bình cũ rượu mới đầy chất dung tục, đã góp phần đắc lực cho loại hình này gia tăng tốc độ băng hoại.
Ngay các giọng hát cũng vậy, phải rèn luyện công phu từ nhỏ mới giữ được “hơi trong” và buông được “hơi ngoài” trong nghệ thuật ém, nhấn, nhả mà ta nghe thấp thoáng như gần như xa, như cao như thấp, như trong như đục, như bấc như chì… phát ra từ nơi cuống họng người nghệ sĩ.
Ngày nay nhiều ca sĩ cải lương hoặc hát nhạc mới cứ rống lên như bò cũng nhảy vào hát Ả đào, và họ gõ phách như gõ mõ, xem như một sự nhạo báng hoàn chỉnh nhất của lối hát thính phòng sang quí này.
Nếu ai đó được dịp dự một canh hát do lão nghệ sĩ Quách Thị Hồ hát, lão nghệ sĩ Phó Đình Kỳ đánh đàn và lão nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát đánh trống chầu thì người đó quả là hạnh phúc, và coi như đã được nghe một khúc nhạc tiên.
HQH