Trang chủ » Tin văn và...

CHU THẦN CAO BÁ QUÁT ĐÃ ĐÓN THI SĨ THẾ MẠC LÊN TIÊN GIỚI

Nguyễn Xuân Diện
Thứ sáu ngày 1 tháng 1 năm 2010 7:45 PM
TNc: Nhà thơ Thế Mạc đã ra đi ngay trong ngày đầu năm 2010. Trannhuong.com xin chia buồn cùng tang quyến và cầu mong linh hồn ông lên cõi Nát bàn.
 
Thầy tôi, Thi sĩ Thế Mạc vừa tạ thế cách đây vài canh giờ. Ông tên thật là Kiều Thể, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1934. Quê quán làng Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, Sơn Tây. Xuất thân từ gia đình Nho học, cha của Thế Mạc là một nhà Nho tài tử có ảnh hưởng lớn đến phong cách của ông.
Thế Mạc tốt nghiệp khoa Văn khóa 1, Đại học Tổng hợp Hà Nội năm 1959, cùng khóa với các GS. Nguyễn Huệ Chi và Phong Lê. Ra trường, ông xung phong đi Tây Bắc và hăm hở cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp trồng người ở miền ngược đầy gian khó. Ông dạy học tại các trường Trung học và Sư phạm tại miền núi Tây Bắc, Hòa Bình, Sơn Tây. Thế Mạc từng là cán bộ của Viện Nghiên cứu Giáo dục, Viện Giáo dục Dân tộc. Ông say mê nghiên cứu chữ dân tộc, làm thơ, viết kịch, bình luận văn học.
Bút danh Thế Mạc của ông bắt đầu có từ khi ông “hạ sơn” về dạy học ở Quốc Oai, nơi mà thi sĩ Chu Thần Cao Bá Quát làm Huấn đạo phủ Quốc Oai (như chức Trưởng phòng Giáo dục hiện nay). Họ Cao có bài ca trù “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn”:

Thế sự thăng trầm quân mạc vấn
Yên ba thâm xứ hữu hư châu
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng sự đọ với chân thân thì cũng mệt
Duy giang thượng chi thanh phong, dữ sơn gian chi minh nguyệt
Kho trời chung và vô tận của mình riêng
Cuộc vuông tròn phó mặc khuôn thiêng
Ai thành thị mặc ai miền lâm tẩu
Gõ dịp lấy đọc câu Tương Tiến Tửu
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
Làm chi cho mệt một đời. 

Diễn nghĩa nôm na rằng:

Chuyện đời lên hay xuống, xin anh chớ hỏi
Kìa, giữa khói sóng thăm thẳm kia, có một con thuyền hư vô
Vắt tay nằm nghĩ chuyện đâu đâu
Đem mộng và so với thực thì rất giống nhau
Chỉ có gió mát trên sông, cùng với trăng soi khắp núi
Kho trời là của chung, mà việc hưởng thụ thì là của riêng mình thôi
Sự đời mặc kệ ông Trời
Ai thành thị cũng kệ, Ai ở miền rừng núi cũng kệ
Hãy gõ nhịp đọc mấy câu Tương Tiến tửu (Sắp mời rượu) của Lý Bạch
Quân bất kiến Hoàng Hà chi thủy thiên thượng lai
(Anh thấy không nước sông Hoàng Hà từ trên trời đổ xuống)
Làm gì nữa, cho mệt đời!
 
Thế Mạc là hai từ được rút ra từ câu thơ “Thế sự thăng trầm quân mạc vấn” của Chu Thần Cao Bá Quát.
Thế Mạc đọc nhiều. Ông đọc khắp triết học và văn học cổ kim đông tây, và chính điều đó tạo nên phong cách của ông – một học giả uyên bác lặng lẽ sống giữa cuộc đời. Nguyễn Quang Thiều đã viết về Thế Mạc rằng: “Ông là một người lạc vào thành phố nơi chúng ta sống trong bụi, tiếng gầm rú của xe cộ, những quán bia bừa bộn, sự mệt mỏi và nỗi cô độc. Thế Mạc cũng sống trong thành phố. Có thể ông cũng chấp nhận thành phố như chúng ta đang chấp nhận. Nhưng sự chấp nhận của hầu hết chúng ta mang gương mặt hòa bình. Sự chấp nhận của Thế Mạc nhìn thật tội nghiệp, thật lẻ loi và ngơ ngác”.
Ông đọc nhiều nhưng viết không nhiều, nhưng thơ ông là thơ của một nhà hiền triết vì sự đa nghĩa và hàm ẩn. Quê nhà của thi sĩ Thế Mạc nằm ngay dưới chân núi Chùa Tây Phương danh tiếng, nơi mà Cát Hồng đời Tấn sang luyện đan sa cầu trường sinh bất lão. Sông Đáy cứ chậm nguồn qua Phủ Quốc - nơi la liệt thập bát tú sơn (18 ngọn núi đẹp). Nơi đây có Sài Sơn, ngọn núi thiêng bên dưới có chùa Thầy thờ Thánh Từ Đạo Hạnh thần thông biến hiện giữa một vùng non nước hữu tình. Này là Tản Lĩnh – Đà Giang hùng vĩ. Và mây trắng xứ Đoài thành loài mây biểu tượng. Tất cả đã đi vào thơ Thế Mạc lâng lâng như khói như sương. “Thi ca là cuộc trò chuyện đơn độc của Thế Mạc (hữu hạn) với Thời gian (vô hạn)” (Nguyễn Quang Thiều). Thơ của Thế Mạc là thứ thơ mã hóa cảm xúc bằng các biểu tượng thơ, “biểu đạt bằng biểu tượng”(chữ của Dương Kiều Minh).
Với núi Tản sông Đà linh thiêng và hùng vĩ, hai bậc tiền bối là Tản Đà và Quang Dũng đã nắm bắt cái hồn, thì Thế Mạc đã nắm bắt được cái vía, cái linh của cỏ cây, đầm hồ, núi vực, đền đài…
Thế Mạc vào Hội Nhà văn năm 2005. Ông có các tác phẩm chính đã xuất bản: Thơ:  Hồ (1994); Nguồn (1998); Trường ca Núi Tỏ, Phùng Hưng đánh hổ, Đồi  Hổ Gầm, Thơ – Thế Mạc.  Văn xuôi: Truyện Ao Vua; Truyện Đồng Mô; Nét quê. Kịch: Lò thúc mầm, Dưới chân núi Ba Vì, Tiếng đàn trên đỉnh núi, Nguyễn Trãi ở Đông Quan, và các kịch ngắn khác. Lý luận phê bình: : Phê bình thơ, tiểu luận. Giải thưởng Văn học: Giải thưởng báo Văn nghệ năm 1960, Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Trãi lần thứ nhất và thứ hai, Giải thưởng Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, 1994.
Với tôi, tôi có may mắn được là học trò của ông. Và chính ông đã khai tâm cho tôi đi vào văn chương và học thuật. Tôi học cấp III ở Sơn Tây. Một ngôi trường khang trang nằm ngay bên hào nước của tòa thành cổ. Tòa thành cổ soi bóng trầm mặc trên hồ nước xanh lặng lẽ. Những tán bàng cành lá giao nhau che rợp những phố xá của một thị xã yên bình và che rợp suốt thời hoa niên của chúng tôi.
Và tôi mãi nhớ những kỷ niệm trong lớp học Văn của Thầy Thế Mạc. Trong một chiều muộn, nắng vàng lưng dậu, trong một ngõ nhỏ gần trường, thầy Thế Mạc kể cho chúng tôi nghe chuyện ông cụ thân sinh của thầy. Chuyện rằng, vào những đêm trăng thanh gió mát, ông cụ vẫn thường cùng các bạn văn chương và các đào kép ca trù xuống một con thuyền nhỏ để thưởng nguyệt và nghe hát. Và thế là, trong những đêm trăng vàng trên sông Đáy, trên một chiếc thuyền nan, các khách văn nghe những bài hát ả đào như Tỳ bà hành, Hồng Hồng Tuyết Tuyết, Tương tiến tửu…Thầy Thế Mạc còn minh họa cho chúng tôi nghe câu hát trong bài Tỳ Bà hành “Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách”, với chữ “khách” hát rất đặc biệt. Sau này, vào đại học, tôi biết đó là nghệ thuật hát ả đào. Và tôi đã để tâm tìm hiểu về ca trù (ả đào) từ đó. Thầy Thế Mạc còn dạy cho tôi những bài Thơ Đường (từ quyển sách dịch Đường thi gáy da đã sờn). Những dẫn dắt của Thầy Thế Mạc, đối với tôi đó là những bài học khai tâm về văn chương và học thuật. Tất cả đã được Thầy nhen nhóm lên trong tôi, từ thưở ban đầu tìm đến với văn chương.
Sau này, khi vào học khoa Ngữ văn, ĐH Tổng hợp Hà Nội, năm nào tôi cũng viết một tiểu luận về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với thơ Việt. Tôi bắt đầu tìm hiểu về ca trù từ những năm cuối của Đại học. Tháng 3 năm 2007, tôi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về ca trù và sau đó đã xuất bản thành sách Lịch sử và Nghệ thuật Ca trù. Trong cuốn sách ấy, có lời tri ân của tôi đối với Thầy Thế Mạc: “Tôi xin tri ân những dẫn dắt khai mở đi vào học thuật và lòng yêu cổ văn, thơ Đường, và đặc biệt là ca trù từ 20 năm về trước của Thầy Thế Mạc (Kiều Thể), giáo viên dạy Văn ở thị xã  Sơn Tây, cựu sinh viên Khoa Ngữ văn khóa 1, Đại học Tổng hợp Hà Nội”.
Thầy ơi, vậy là thầy bỏ tất cả mấy anh em chúng con: Chu Hồng Tiến, Nguyễn Xuân Diện, Đỗ Doãn Hoàng, Đỗ Doãn Phương, Vũ Lâm, Bế Kim Loan…Thầy bỏ tất cả bạn văn Xứ Đoài mà đáp bằng câu “thế sự thăng trầm quân mạc vấn” ư? Chỉ còn thêm mấy tiếng nữa là đến 1.1.2010 Thầy tròn 76 tuổi xuân mà!
Thương ôi! Xứ Đoài còn một nhà hiền triết mà nay đã hạc nội mây ngàn!
Chu Thần Cao Bá Quát nhất định ghé con thuyền hư huyễn đến đón thầy đi vào nơi khói sóng thăm thẳm rồi ư?

Hỏi không nói, chỉ tay về phía ấy.
Mây lâng lâng trôi dạt cuối trời xa…