1. Khái niệm về khoa trương
Khi cần nhấn mạnh làm nổi bật đặc trưng, tính chất của đối tượng, người ta cố tình nói quá sự thật; việc nói quá ở đây có thể là phóng to hoặc thu nhỏ đối tượng cần miêu tả. Lối nói này được gọi là khoa trương. Khoa trương không phải là nói khoác hay nói dối để đánh lừa người nghe. Tác giả Đào Thản cho rằng, nó không làm cho người ta tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên [2, tr.1].
Theo chúng tôi, khoa trương là cường điệu quy mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và đúng bản chất của sự vật, hiện tượng. Khoa trương luôn mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân hoặc cộng đồng sử dụng ngôn ngữ. Chẳng hạn, trong “Huynh đệ”, Dư Hoa viết:
(1) 刘作家很高兴,酒逢知已千杯少,只要碰上了宋钢就会说个没完没了,有一次两个人在厕所里撒完尿,刘作家拉住宋钢,站在尿池旁说了两个多小时。全然不顾厕所里臭气熏天,也全然不顾坐在那里拉屎的人啊啊喊叫和哼哼低吟
(Nhà văn Lưu khoái lắm. Uống rượu gặp bạn tri kỷ, ngàn chén cũng còn ít. Chỉ cần gặp Tống Cương, là nhà văn Lưu cứ con cà con kê, nói dài nói dai, nói suốt ngày suốt buổi. Có lần, hai người ra nhà vệ sinh tiểu tiện. Tiểu tiện xong, nhà văn Lưu kéo Tống Cương đứng cạnh hố nước tiểu, nói hơn hai tiếng đồng hồ, hoàn toàn phớt lờ hơi thối trong nhà vệ sinh xông lên nồng nặc, cũng không thèm đếm xỉa gì đến tiếng động bên trong)
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy, khoa trương trong tác phẩm của Dư Hoa không phong phú như trong tác phẩm của Mạc Ngôn. Và chúng tôi tạm phân chia khoa trương trong “Huynh Đệ” của Dư Hoa thành mấy loại như sau:
2. Phân loại khoa trương trong tác phẩm “Huynh đệ”
2.1. Phân loại khoa trương theo ý nghĩa
Căn cứ vào nghĩa, lối nói khoa trương được chia thành hai loại như sau:
(1) Khoa trương phóng to
Khoa trương phóng to là cố ý làm cho sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ:
(2) 李光头自问自答:“因为我们是兄弟,就是天翻地覆慨而慷了,我们还是兄弟。”
(Lý Trọc tự hỏi tự trả lời - Bởi vì chúng ta là anh em, cho dù trời sập đất lở, chúng ta vẫn là anh em)
(3) 说这个李光头就是一架B—52轰 炸机,对我们美丽的刘镇进行地毯式轰炸。我们刘镇的一些有识之士更是痛心疾首,说《三国演义》里有一个故事发生在刘镇、《西游记》里有一个半故事发生在刘 镇、《水浒传》里有两个故事发生在刘镇,现在都被李光头拆掉了。
(Họ bảo tay Lý Trọc là một chiếc máy bay ném bom B52, đã ném bom rải thảm xuống thị trấn Lưu xinh đẹp của chúng tôi. Một số người có học hành càng đau đau xót ruột: Họ bảo trong "Tam Quốc diễn nghĩa" có một câu chuyện xảy ra ở thị trấn Lưu. Trong "Tây du ký" có một nửa câu chuyện xảy ra ở thị trấn Lưu. Trong "Thuỷ hử" có hai câu chuyện xảy ra ở thị trấn Lưu. Bây giờ đều bị Lý Trọc dỡ bỏ sạch)
(4) 说李光头的良心被狗叼了,被狼吃了,被老虎嚼烂了,被狮子当屎拉出去了。
(Cô bảo lương tâm của Lý Trọc bị chó nó tha, bị sói nó xơi, bị hổ nó cắn nát, bị sư tử nó ỉa ra thành cứt)
(2) Khoa trương thu nhỏ)
Khoa trương thu nhỏ là thu nhỏ sự vật; tức là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại hoặc yếu đi. Ví dụ:
(5) 塔站了很长时间,夜晚静得连针掉在地上的声音都没有,后来有两只猫蹿到屋顶上。
(Đêm đã về khuya, tĩnh lặng đến mức ngay cả cái kim rơi cũng nghe thấy, sau đó có hai con mèo nhảy lên nóc nhà, chúng đuổi nhau kêu thảm thiết)
(6) 小时候看着别人打喷嚏心里十分好奇,以为鼻子也会放屁。
(Thuở nhỏ thấy người khác hắt xì hơi, trong lòng hết sức hiếu kỳ, cứ tưởng lỗ mũi cũng biết đánh rắm)
Trong tiếng Hán, những từ ngữ 芝麻 (hạt vừng),绿豆 (đậu xanh), 鸡毛 (lông gà), 蒜皮 (vỏ hành), 巴掌 (nắm tay), 屁股 (mông đít) thường được dùng để so sánh thực hiện khoa trương thu nhỏ. Chẳng hạn, người Trung Quốc hay khoa trương: 你也太爱管 闲事,芝麻大的事你都要管!(Cậu cũng thật lắm chuyện, việc bé bằng hạt vừng mà cũng xen vào). Hoặc: 这是屁股大的地方 (Đó là nơi bé bằng cái mông đít)
Tuy nhiên, trong tác phẩm “Huynh đệ”. 屁股 (mông đít) được sử dụng để khoa trương phóng to; điều đó phụ thuộc vào ngữ cảnh. Ví dụ:
(7) 他们馋得都快昏过去了,把瓜子豆子和硬糖一口气放进了嘴里,把自己的嘴巴一下子赛满了,塞得像屁股一样园鼓鼓的嘴巴都不能动了,他们才发现自己还是什么都没吃着。
(Chúng thèm đến nỗi sắp ngất đi, nhét ráo hạt dưa hạt đậu và kẹo cứng vào đầy mồm, nhét tới mức mồm căng phồng như cái mông đít, không nhai nổi, chúng mới nhận ra mình chưa ăn được gì)
(3) Phân loại khoa trương theo thời gian
Khoa trương thời gian theo trật tự nghịch là đem sự việc xuất hiện sau nói thành việc xuất hiện trước hoặc đồng thời xuất hiện. Ý nghĩa của câu là “chưa thế này thì đã thế kia” hoặc “vừa mới thế này đã thế kia”. Chẳng hạn người Hán rất hay khoa trương kiểu: 李医生给人看病,药方没开,病就好了三分 (Bác sĩ Lí khám cho bệnh nhân, đơn thuốc chưa kê bệnh đã khỏi được ba phần). Tương tự như người Việt nói “chưa ăn đã hết”, “rượu chưa uống đã say”. Tuy nhiên khi khảo sát “Huynh đệ” chúng tôi không thấy kiểu khoa trương này. Dư Hoa chỉ dùng các từ ngữ: 一会儿 / 一下 (trong chốc lát), 一转眼/ 眨眼间/ 眨眼功夫 (trong chớp mắt/ trong nháy mắt),) để khoa trương chỉ thời gian diễn ra quá nhanh. Ví dụ:
(8) 他们觉得在外面只站了一会儿,夏天的毒太阳就快把他们烤干了。
(Chúng cảm thấy chỉ đứng ở ngoài một chút xíu đã bị ánh nắng gay gắt của mùa hè hong khô)
Ngoài ra, nhà văn còn sáng tạo ra các từ ngữ khi khoa trương kiểu này. Ví dụ:
(9) 他们吃虾的手就像是树上伸出来的树枝那么多,也就是眨了几下眼睛,打了几个喷嚏,他们就把煎虾吃了个精光。
(Tay ăn tôm của chúng giơ ra tua tủa như cành cây, chỉ trong vài chớp mắt, mấy cái hắt xì hơi, bọn chúng đã lỉm sạch bát tôm rán)
Trong ví dụ trên, các cụm từ “眨了几下眼睛” (trong vài nháy mắt), “打了几个喷嚏” (vài cái hắt xì hơi) là sáng tạo của Dư Hoa.
Thời gian còn có thể đảo lộn, không theo trình tự logic trước sau. Chẳng hạn, đoạn văn sau nói về tâm trạng của anh chàng Lí Trọc thất tình, anh ta mơ ước có được những người đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” để báo thù những người đã bỏ rơi mình, bất chấp cả không gian và thời gian:
(10) 他自言自语的说: “来日方长呢,谁是落水狗还难说: “老子以后弄一辆超大型永久牌,前面坐西施,后面载貂蝉,怀里抱个王昭君背上驮个杨贵妃。老子带着这古代四大美人骑上他妈的七七四十九天,从当代骑到古代去,再从古代骑到当代来,老子高兴了还要骑未来去。
(Rồi tự động viên khích lệ mình, anh ta nói sùi bọt mép: - Sau này ông sẽ sắm một chiếc xe mác Vĩnh Cửu siêu hạng, đằng trước ngồi Tây Thi, đằng sau chở Điêu Thuyền, trong lòng ôm Vương Chiêu Quân, lưng cõng Dương Qúy Phi. Đem theo “tứ đại mỹ nhân” cổ đại, đ. mẹ, ông sẽ cưỡi bảy bảy bốn mươi chín ngày, từ đương đại cưỡi đến cổ đại, lại từ cổ đại cưỡi đến đương đại, khoái quá ông còn phải cưỡi đến tương lai cho chúng mày trắng mắt ra.)
2.2. Phân loại khoa trương theo hình thức
Căn cứ vào hình thức có thể chia khoa trương thành hai loại: khoa trương trực tiếp và khoa trương gián tiếp.
(1) Khoa trương trực tiếp:
Khoa trương trực tiếp là khoa trương không sử dụng bất cứ biện pháp tu từ nào, còn được gọi là khoa trương thuần túy. Ví dụ:
(11) 刘作家趁势骂了李逵几句,说那是个有勇无谋的马大哈,浑身的肌肉都长到脑子里去了
(Nhân thể, nhà văn Lưu toang toác chửi Lý Đạt mấy câu. Anh ta bảo thằng cha ấy là chúa tể qua loa đại khái, hữu dũng vô mưu, khắp người toàn cơ bắp, nung núc những thịt là thịt, thịt mọc lấn cả vào óc.)
(12) 那时候的公共厕所和现在的不一样,现在的公共厕所里就是用潜望镜也看不见女人的屁股了。
(Nhà vệ sinh công cộng bây giờ có dùng đến kính tiềm vọng cũng chịu chết, không sao nhìn thấy mông đàn bà)
(13) 李光头心想那天桥上和街上的人实在是太多了,要是深更半夜街上和桥上都是空无一人,林红肯定会站住脚,肯定会含情脉脉地把他看了又看,把他脸上皮肉里的血管神经,一根根看进眼里,铭刻到心里去。
(Lý Trọc nghĩ, hôm ấy trên cầu và trên đường phố đông người quá. Nếu là đêm khuya thanh vắng không một bóng người, chắc chắn Lâm Hồng sẽ dừng chân, chắc chắn Lâm Hồng sẽ âu yếm nhìn kỹ mình, thu hết vào mắt, khắc vào trái tim từng sợi thần kinh, từng mạch máu trong da trong thịt, trên mặt Lý Trọc)
Trong (11), (12) và (13) đều là khoa trương trực tiếp, không sử dụng bất kì biện pháp tu từ nào khác.
(2) Khoa trương gián tiếp
Là khoa trương phải sử dụng các biện pháp tu từ khác để thực hiện, còn được gọi là khoa trương dung hợp. Chẳng hạn:
+ so sánh có từ so sánh. Ví dụ:
(14) 读书好啊,一天不读书,比一个月不拉屎还难受。读书好啊,可以一个月不吃饭,不能一天不读书。
(Đọc sách rất tốt, một ngày không đọc sách còn khó chịu hơn một tháng không đi đại tiện. Đọc sách rất tốt, có thể một tháng không ăn cơm chứ không thể một ngày không đọc sách)
(15) 别看这两小子的嘴巴比充足了气的皮球还园,照样还能赛进去的。
(Đừng thấy mồm hai cậu bé còn tròn hơn quả bóng bơm căng hơi, vẫn còn nhét thức ăn vào được đấy)
(16) 守候在外面的李光头看到宋钢脸色惨白地跑了出来,那模样像是死里逃生
(Lý Trọc đứng chờ bên ngoài thấy Tống Cương chạy ra mặt tái mét, như trở về trong cõi chết)
(17) 那一刻宋钢突然觉得林红犹如云上的仙女.
(Trong giây phút ấy, Tống Cương đột nhiên cảm thấy Lâm Hồng như nàng tiên trong mây)
+ so sánh không có từ so sánh
(18) 花傻子被摁倒在地后,嘴里发出了屠宰场里杀猪般的喊叫“妹妹,抱抱。。。”
(Sau khi anh chàng dở hơi máu gái bị ấn ngã ra đất, mồm cứ kêu như lợn bị chọc tiết)
Trong (18), 屠宰场里杀猪般的 (lợn bị chọc tiết) là định ngữ cho 喊叫 (tiếng kêu).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
2. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Đinh Trọng Lạc (2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
4. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
5. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. 黄伯荣,廖序东 (2002)“现代汉语”,高等教育出版社。
7. 王希杰 (2007)“汉语修辞学”,商务印书馆。
8.张挥之(2002)“现代汉语” 高等教育出版社。