Trước và sau tiểu thuyết nổi tiếng : “Nỗi buồn chiến tranh” của nhà văn Bảo Ninh, văn học dòng chính thống đương thời, chừng như chưa có tác phẩm nào dám dựng chân dung buồn đau tới tận cùng của người lính chiến ?
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm”, câu thơ của Phạm Tiến Duật có thể đại diện cho hình ảnh người lính chiến đi đánh nhau mà vui như tết, mà vỗ tay vỗ chân hát hò mê sảng hơn trúng số ! Cho nên, Tố Hữu – ông trùm của thi ca cách mạng mới khẳng định tính chất sắt đá “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/ Đảng ta đây xương sắt da đồng”
Năm 2013, nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân đã cho xuất bản tập thơ “ Vé trở về” của nhà thơ, nhà văn, nhà biên kịch điện ảnh, đạo diễn Văn Lê với hình ảnh người lính buồn từ A tới Z
Người lính của thơ Văn Lê khác một trời một vực với người lính của Phạm Tiến Duật, khi anh được giấy gọi đi bộ đội vào miền Nam chiến đấu :
“Anh nhìn con dấu đỏ tươi trên lệnh động binh
Lòng trống vắng như vòm trời không đáy
Cánh đồng ngơ ngẩn buồn
Anh cũng ngơ ngẩn buồn trong váng nắng chiều sót lại”
Quê hương người lính không phải là thiên đường mà buồn thương của đám tang cha mẹ:
“Rắn rết trong hang bò ra đầy ngõ
Náo loạn làng quê chó sủa
Náo loạn bầu trời vẩn vũ chim bay
Cuộc trở mình của tự nhiên diễn ra giữa ban ngày
Mọi trật tự bỗng nhiên gãy đổ
Sông suối thay lòng đổi dạ
Cuộc đưa ma tại làng quê nhức nhối tiếng gọi hồn”
Người lính trong thơ Văn Lê ra trận trong nỗi buồn sầu thảm :
“Đồng chiều ngơ ngẩn buồn
Anh ngơ ngẩn buồn bước về quá khứ
Ở đâu đó giữa hoang vu chợt cất lên tiếng thánh ca âm u khổ sở
Âm u khổ sở tiếng thánh ca của muôn loài sinh vật tiễn đưa anh”
Hãy nhìn hình ảnh người em gái cô đơn tiễn anh ra trận qua chữ nghĩa Văn Lê :
‘Em gái anh
Dáng như bà già
Khoác chiếc áo tơi mỏng manh như món đồ dễ vỡ
Nó đứng chờ anh ở ngay đầu ngõ
Miệng cười lóe vệt trăng non”
Và người lính ấy mang nỗi buồn vô tận vào cuộc chiến để chết buồn như chiếc lá :
“Câu chuyện về người lính hy sinh buồn như lá thu bay”
Các anh đã chết cho cái gì vậy :
“Những năm chiến tranh đất nước gieo neo
Giấy báo tử về làng như lá rụng
Khủng khiếp nhất là phải làm người sống
Sáng mở mắt ra đã nơm nớp trong lòng”
Hãy đọc tiếp niềm đau buồn của thơ Văn Lê khi anh tả nỗi buồn cô đơn của cô em gái –người thân duy nhất còn sót lại của người tử sĩ buồn :
“Ngày anh trai hi sinh bến nước bơ vơ
Cô chẳng còn ai mà chờ đợi nữa
Mọi trật tự trong cô sụp đổ
Cô lang thang cuối đất cùng trời
Xác xơ như bà lão ăn mày
Vô cảm như người điên ngoài chợ”
Cô gái đi tìm người anh đã chết trận như một người điên:
“Những hi vọng tìm anh sau chiến tranh
Tràn ngập trong cô như nước mùa tháng tám
Xé lòng cô như cánh đồng gặp hạn
Ăn mòn cô như nắng lột da người”
Những người lính sinh Bắc tử Nam , chiến đấu để giải phóng nhân dân ? Hãy nhìn đáp số cuộc chiến tranh chết hàng chục triệu người qua thơ Văn Lê viết về nỗi buồn lính :
“Quê anh bây giờ lôm nhôm lam nham
Anh ngắm nhìn mà thương con mắt
Những bức tường đá xanh biến mất
Nhường chỗ cho những ngôi nhà mái bằng nép sát vào nhau
Cao thấp nhấp nhô như người bị chắt đầu
Chẳng tìm đâu ra những mái nhà đội nón
Cuộc sống dường như đảo lộn
Chẳng còn ai vướng bận đến quá khứ xa xưa
Có lẽ vậy nên làng anh bây giờ
Cuộc sống mất đi cái hồn cái vía…”
Những câu thơ Văn Lê bình dị, lắng đọng, sâu xa mà như một lời lên án chiến tranh Hãy nhìn xã hội tham nhũng vô phương cứu chữa, kẻ cầm quyền giàu có hóa thành tư bản để vô sản hóa nhân dân. Nhà thơ quân đội, nhà văn cách mạng, nhà biên kịch đạo diễn có hạng Văn Lê đã vượt lên trước đội hình nhà văn để lý giải, để thúc giục nhân dân nhìn đúng bản chất về chiến tranh
“LÀNG QUÊ U U MÊ MÊ
NGƯỜI TA NHƯ ĂN CHÁO LÚ”
“ Họ ( nhân dân –chú của TMH) lao ra bến sông bãi chợ
Giành giật miếng ăn của nhau
Chợ quê tràn ngập đồ Tàu
Chẳng thiếu thứ gì, ngoại trừ đồ thật !”
Văn Lê lý giải hiện tượng làng anh tha hóa, mất hết hồn dân tộc, đang tan tác như đám gà gặp cáo chỉ vì thờ sai thần, vào nhầm miếu :
“CÓ NGƯỜI BẢO DÂN LÀNG ANH NHƯ THẾ
ĐÃ VÀO NHẦM MIẾU LẠI CÚNG NHẦM THẦN”
Đọc đến đây, ai là người còn tấm lòng với đất nước đều hiểu nhà thơ Văn Lê không chỉ nói làng anh,
Một tập thơ tâm huyết thế này, trung thực và xúc động dám nói thẳng nói thật tận tâm can như thế này, lại được một nhà xuất bản lề phải Quân Đội Nhân Dân cho in, liệu có phải là tin mừng hay không ?
Viết đến đây, chúng tôi xin kể một kỷ niệm với nhà thơ Văn Lê ( anh từng được giải thơ cùng hạng A với Hữu Thỉnh và Anh Ngọc trong cuộc thi thơ Báo Văn Nghệ năm 1975-1976); rằng sau khi thống nhất đất nước, Văn Lê rủ chúng tôi từ Sài Gòn ra Bắc về thăm quê hương ( Hà Nam Ninh) sau ngót mười năm xa vắng. Chia tay Văn Lê ở thị xã Ninh Bình cuối năm 1975, hai đứa chúng tôi vào một quán phở mậu dịch. Bát phở được bưng ra, chúng tôi cầm thìa lên múc phở nhưng thìa chảy hết nước ra ngoài, không thể ăn được. Mọi người bảo hai chú bộ đội từ chiến trường ra à, rằng thìa ở đây đã được cấp ủy duyệt cho cửa hàng phở lấy đinh đục nát thìa ra lỗ chỗ như hố bom để cho nhân dân chúng nó không còn ăn cắp thìa mang về nhà làm của riêng được nữa. Văn Lê ngồi khóc. Anh thương nhân dân quê hương Ninh Bình của mình khổ đến thế để đánh thắng Mỹ mà không ăn nổi bát phở, đành để cho hai ba ông ăn mày giành nhau…Còn tôi kìm xúc cảm, vẫn ăn hết bát phở để chia tay Văn Lê, lấy sức đi bộ về quê Nghĩa Hưng Nam Định…”
Kể chuyện này, có lẽ nhiều người bảo chúng tôi bịa, rằng làm gì có chuyện đó. Vâng, tôi xin lấy danh dự ra mà nói rằng, còn nhiều chuyện kinh thiên động địa hơn chi tiết này rất nhiều nhưng vẫn là sự thật !
Sài Gòn ngày 30 tháng tư năm 2014
T.M.H.