
Với ngót 600 trang sách, nhà thơ Hữu Thỉnh điểm danh nền văn học Việt Nam gần một thế kỉ. Từ những ngọn núi cao trên văn đàn đến các bình nguyên phẳng lặng, ngay cả những lùm cây thấp thoáng của văn đàn, dường như không một ai bị bỏ lại phía sau. Đủ biết sức đọc của vị Nguyên Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam là khủng khiếp. Thế mới biết cái tình của Hữu Thỉnh là bao la. Anh ôm trọn các Hội viên của mình vào lòng, không trừ một ai. Điều đó không phải ai cũng làm được. Chắc anh đọc lâu rồi, nhưng ấp ủ, mãi gần đây mới bắt tay vào viết. Xem nơi đề ngày tháng, biết anh viết từ 2020 tới nay. Có bài mới viết vào tháng 3, thang 4 năm 2025. Nghĩa là về hưu anh mới có thì giờ trả cái “Nợ văn chương” cho các hội viên.
Không chỉ Hội viên Hội Nhà văn, mà cả Hội viên Hội LHVHNT khi anh chưa làm Chủ tịch cái Hội đó cũng được anh quan tâm.
Tôi nhớ cách đây khoảng 6,7 năm, khi Tạp chí Văn Hiến tổ chức Hội thảo về sự cống hiến của nữ Kịch tác gia Thanh Hương, trên sân khấu kịch Việt Nam. Khi nhà thơ Hữu Thỉnh được mời lên phát biểu. Không tham luận viết sẵn, không sổ sách giấy tờ chuẩn bị gì hết. Hữu Thỉnh nói rành rọt từng bước thăng trầm và thăng hoa của chị Thanh Hương trên sân khấu kịch. Đặc biệt vào thập niên 80 của Thế kỷ trước, khi Thanh Hương là Phó chủ nhiệm Uỷ ban Văn hóa Giáo dục của Quốc Hội. Chị có nhiều vở diễn thành công.
Điều làm tôi kinh ngạc là anh gọi tên từng vở đã được công diễn bao nhiêu đêm liền. Và cứ rạp sáng đèn là các hàng ghế kín người. Vào thời điểm ấy, nhà thơ Hữu Thỉnh chưa ở vào vị trí lãnh đạo báo Văn Nghệ hoặc Hội Nhà văn Việt Nam…
Với tác phẩm “Ám ảnh chữ”, viết theo chủ đề Tiểu luận & Phê bình. Sau vài lời Mở, tác giả có bài tổng quát:”GÓP THÊM CÁCH NHÌN VỀ MỘT NỬA THẾ KỶ VĂN HỌC (30-4-1975 – 30-4-2025).
Nửa thế kỷ văn chương này tác giả kiểm diện khá đầy đủ những tác giả có đóng góp cụ thể bằng tác phẩm. Trong đó từ Sáng tác, Dịch thuật, Phê bình đều hăng hái đua sức đua tài trong dòng chảy sáng tạo.
Khép lại phần này, tác giả kết luận:”…Nửa thế kỷ qua là nửa thế kỷ sum họp của 5 thế hệ nhà văn. Đó là các thế hệ nhà văn tiền chiến, các nhà văn thời chống Pháp, các nhà văn thời chống Mỹ, các nhà văn Hậu chiến, các nhà văn xuất hiện trong thời Đổi mới. Mỗi thế hệ có lợi thế riêng, cùng bổ sung và cộng hưởng với nhau đưa nền văn học ta phát triển lên một tầm cao mới.”
Phần tiếp theo là các chân dung văn học. Hàng chục tác giả và tác phẩm được Hữu Thỉnh phân tích và đánh giá rất công tâm, minh bạch. Để tránh nhắc lại điều anh đã viết, tôi chỉ điểm một số tác giả và trích dẫn phần cốt lõi, coi như phần Hữu Thỉnh điểm nhỡn từng tác giả. Cái phần gọi là điểm nhỡn đó, phải nói Hữu Thỉnh có linh giác rất bén nhạy, chỉ với vài chục từ, anh có thể lôi ra được phần cốt tủy của tác phẩm. Và khi nói về tác giả, cũng lột tả được đúng phẩm chất của tác giả với lời lẽ nhẹ nhàng, thân thiện nhưng không kém phần sâu sắc.
Phần giới thiệu tác phẩm, Hữu Thỉnh dành vị trí trang trọng nhất cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Anh khôn khéo không đi theo lối mòn là phân tích” Nhật ký trong tù.” Mà giới thiệu bộ ba tiểu thuyết của Hoàng Quảng Uyên viết về Bác rất đặc sắc. Sau đây là đánh giá mang tính tổng quát về tác phẩm của Hoàng Quảng Uyên:
”Với một dung lượng lịch sử đồ sộ kéo dài trên 40 năm, Hoàng Quảng Uyên đã theo sát từng bước đi của Bác, vừa cụ thể, sinh động chân thực và giầu chất sử thi. Sức hấp dẫn của tác phẩm không phải ở những tình huống ly kỳ, mạo hiểm, mà là vẻ đẹp nội tâm, ung dung cốt cách cao thượng, tấm lòng yêu nước cháy bỏng, những phẩm chất nhân văn cao quý toát lên từ con người giản dị mà vĩ đại của Bác… Hoàng Quảng Uyên đã rất thành công khi tái hiện thiên tài của Bác với khả năng phi thường trong tư duy chiến lược…
Hồ Chí Minh là cuốn tiểu thuyết thành công vượt bậc của Hoàng Quảng Uyên.”
:
THƠ TỐ HỮU: KHÁT VỌNG VÀ HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN
Hữu Thỉnh, với tấm lòng thành kính và tình cảm ưu ái nhất khi viết về nhà thơ Tố Hữu nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông.
“Năm 1938, Tố Hữu công bố bài thơ Từ Ấy. Lúc đó Thơ Mới đang lên, cuốn hút những tài năng lớn nhất của thơ ca tiền chiến, tạo nên một thi đàn tráng lệ trước sự chiêm ngưỡng, trầm trồ, sung sướng của hàng vạn trí thức và lớp thanh niên đang miệt mài Âu hóa. Thời thế là như thế. Ấy vậy mà Tố Hữu, và chỉ có một Tố Hữu lặng lẽ và can đảm rẽ sang một lối khác, quyết liệt làm nên một thế giới, một vẻ đẹp khác…
Tố Hữu là người hướng dẫn tinh thần, người tổ chức, người tiên phong của nền thơ cách mạng. Sự phát triển của mỗi tài năng mỗi nhà thơ có phong cách, giọng điệu riêng của mình. Nhưng vai trò và ảnh hưởng của Tố Hữu không ai có thể phủ nhân được. Tố Hữu như một ngọn núi lớn, thời gian càng lùi xa càng thấy cao. Ông là sự kết tinh đẹp đẽ của nền thơ ca cách mạng với những tố chất truyền thống và hiện đại, dân tộc và nhân văn. Tố Hữu đã đi vào lịch sử cách mạng Việt Nam, đi vào lịch sử văn học Việt Nam như một tinh hoa văn hóa kết tinh những phẩm chất cao đẹp của dân tộc và thời đại.”
THẾ GIỚI CHẾ LAN VIÊN
Hữu Thỉnh không chỉ là một nhà thơ trữ tình, anh còn là một nhà phê bình tinh tế, đôi khi táo bạo. Anh là người khiêm nhường, tôn trọng tới mức kính cẩn các bậc đàn anh của thế hệ trước. Bản thân anh cũng là một tài năng, nhưng anh thường ẩn mình hoặc đứng thấp hơn một chút để tôn vinh các bậc đàn anh. Trong đánh giá tài năng và sự cống hiến của các bậc đàn anh, Hữu Thỉnh không bao giờ sẻn kiệm lời khen. Đặc biệt với nhà thơ Chế Lan Viên, Hữu Thỉnh có biệt nhỡn với bậc kỳ tài (chữ của Hữu Thỉnh) này. Sau đây là đoạn trích của nhà thơ Hữu Thỉnh viết về họ Chế:
“ Chế Lan Viên đóng góp cho Thơ Việt to lớn đến mức, tôi muốn xem ông như một thế giới. Thế giới Chế Lan Viên. Đặc điểm lớn nhất của sự cống hiến đó là sự hài hòa. Lý luận mỹ học coi sự hài hòa là một tiêu chuẩn số một của cái Đẹp. Chế Lan Viên đem đến sự hài hòa cho Thơ Mới, và cũng tương tự như vậy, cho tiến trình Thơ Việt từ 1945 tới nay. Một người phải có tài đến mức nào mới có thể làm vế đối cho cả một nền thơ.
Với Thơ Mới:
-Tất cả các nhà thơ còn lại viết về cõi Người. Chế Lan Viên viết về cõi Ma.
-Tất cả các nhà thơ còn lại viết vè cái còn, Chế Lan Viên viết về cái mất.
-Tất cả các nhà thơ còn lại viết về thì hiện tại. Chế Lan Viên viết về quá khứ.
Chế Lan Viên đem đến sự hai hòa cho nền thơ cách mạng sau 1945.
- Nếu tất cả các nhà thơ còn lại là sự thăng hoa của tâm hồn, thì Chế Lan Viên là sự thăng hoa của trí tuệ.
- Nếu tất cả các nhà thơ còn lại là rung động trữ tình thì Chế Lan Viên là đanh thép của chính luận.
- Nếu tất cả các nhà thơ còn lại là ru ca, là tình ca, thì Chế Lan Viên là tráng ca, là hùng ca.
Ông là nhà phê bình thơ hay nhất trong số các nhà thơ… Ông là bộ óc điện tử của Hội Nhà văn Việt Nam.
Chế Lan Viên đã đi vào lịch sử văn học Việt Nam như một nhà thơ kỳ tài, xuất chúng… Một trong những tinh hoa văn hóa nổi bật của thời đại Hồ Chí Minh. »
TẦM VÓC NGUYỄN ĐÌNH THI
Nguyễn Đình Thi là một nhà văn lớn đồng thời là một nhà văn hóa lớn, ông không chỉ được công chúng ngưỡng mộ qua các tác phẩm : Thơ ; Văn ; Nhạc ; Kịch mà ngay cả những người trong cùng ngành nghề cũng mến mộ tài năng của ông, nhân cách của ông. Trong lĩnh vực nào ông cũng chiếm ngôi đầu bảng. Tầm ảnh hưởng của ông không chỉ trong văn giới mà còn lan tỏa khá rộng ngoài xã hội. Chính vì vậy, mà nhân kỉ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Đình Thi, nhà thơ Hữu Thỉnh có bài tham luận quan trọng viết về ông khá sâu sắc, và kết luận :
« Nguyễn Đình Thi là một nghệ sĩ đa tài hiếm có. Hiếm có hơn là ở tất cả các binh chủng nghệ thuật anh đều có những tác phẩm đỉnh cao vươn tới tầm thời đại, có sức sống vượt thời gian. Nếu nói văn hóa là sự kết tinh các giá trị theo ý nghĩa ấy, Nguyễn Đình Thi xứng đáng là một nhà văn hóa lớn trong thời đại Hồ Chí Minh.
NGUYỄN BÍNH, NGƯỜI GỌI HỒN QUÊ
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá về tài năng bậc đàn anh này khá chính xác :
«Đó là Nguyễn Bính. Một hiện tượng độc đáo của Thơ Mới. Một trong những thi sĩ có lượng độc giả lớn nhất của thơ ca Quốc ngữ… Người có khả năng tạo nên một quĩ đạo thơ riêng với bí mật của tạo hóa. Tiếng tăm Ông thật lừng lẫy, ảnh hưởng của Ông thật xa rộng… Trong lúc các nhà thơ mải mê Âu hóa, Nguyễn Bính ngược dòng trở về với dân tộc, tự mình làm một mảng thơ riêng. Đây là sự lựa chọn sống còn với một đời thơ. Tập TÂM HỒN TÔI được giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn năm 1937, phải đợi đến 6 năm sau, Đảng mới công bố Đề cương văn hóa năm 1943 với đường lối Dân tôc- Khoa học- Đại chúng. Từ đó mới thấy Nguyễn Bính tỉnh táo và sáng suốt biết nhường nào. Tưởng cũng nên biết, năm đó Nguyễn Bính mới 19 tuổi. »
ĐỌC « ĐI ! ĐÂY VIỆT BẮC » CỦA TRẦN DẦN
Nhà thơ Hữu Thỉnh có ưu ái đặc biệt với cố thi sĩ Trần Dần, ông để tới 30 trang vừa trích dẫn vừa phân tích tâp thơ « Đi ! Đây Việt Bắc » của nhà thơ Trần Dần.
Sự ưu ái này có nhiều nhẽ. Trước hết Trần Dần có nhiều phẩm chất khiến mọi người ưu ái ông. Sinh thời, ông là người toàn tâm toàn ý, sống chết với nghề. Đời ông, là cả một cuộc hành trình đi tìm cái mới của ngôn từ. Rất kĩ tính trong chuyện chữ nghĩa. Ông theo dõi rất sát sao với Thơ Mới, nhưng không nhập cuộc. Vào những năm đầu của thập niên 40 của Thế kỷ trước, ông đã chán ngấy các nhà Thơ Mới, vì nó không còn gì gọi là mới nữa. Thù ghét với sự sáo mòn, nên trong « Đi ! Đây Việt Bắc », ông viết như là một tuyên ngôn sáng tạo : «Tôi có thể
mặc thây
ngàn tiếng chửi tục tằn
trừ tiếng chửi không sáng tạo »
Vì vậy cuối năm 1946 ông lập nhóm «Dạ Đài » gồm : Trần Dần-Trần Mai Châu-Vũ Hoàng Địch (em trai Thi sĩ Vũ Hoàng Chương). Vì sao có cái tên Dạ Đài, là do gợi ý từ tựa đề tập thơ của thi sĩ tài danh người Pháp thế kỷ 19 : « Une saison enfer » ( Một mùa địa ngục) của A Rimbaud.
Bởi không khí xã hội Việt Nam vừa thoát khỏi nạn đói kinh hoàng tới 2 triệu người chết. Tiếp ngay là 20 vạn quân Tầu Tưởng nằm ì từ vĩ tuyến 13 tới toàn Bắc Bộ. Lại quân Pháp lấp ló đổ bộ vào Lạng Sơn, Hải Phòng, chiến tranh toàn quốc có nguy cơ bùng nổ. Trong kia, Nam Bộ đã kháng chiến từ 23 tháng 9 rồi. Như thế có khác gì sống trong địa ngục. Vì vậy, cái tên Dạ Đài rất phù hợp. Tuy nhiên, các ông chỉ kịp ra được một số báo Dạ Đài đầu tiên thì Hà Nội kháng chiến, toàn quốc kháng chiến. Chiến tranh bùng nổ như là một định mệnh bất hạnh đối với dân tộc ta..
Nhà thơ Trần Dần đi kháng chiến, làm văn nghệ trong quân đội. Theo bộ đội chiến đấu. Dự hết chến dịch Điện Biên Phủ, có tiểu thuyết « Người người lớp lớp » viết rất kịp thời về chiến dịch Điện Biên Phủ.
Nhưng số phận trớ trêu, tai nạn văn chương, khiến ông phải long đong khổ lụy suốt mấy chục năm ròng.
Có lẽ cảm thông với nỗi đau nhân thế của một tài năng dang dở, nên nhà thơ Hữu Thỉnh viết về cố thi sĩ Trần Dần với tất cả sự trân trọng đúng mức :
« … Đúng với tên gọi của nó, đây là « Hùng ca-lụa. »Đó là sự kết hợp giữa tráng ca và tình ca, bình thường và phi thường, hiện thực và mộng mơ, trữ tình và triết luận, tụng ca và dự cảm. Một cái tôi trữ tình luôn hiện diện. Lúc thì hóa thân vào thiên nhiên, lúc thì trần trui như đời lính, lúc thì rất xa vào quá khứ, lúc lại phóng tới tương lai. Lúc thì bám rất chắc vào cội nguồn dân tộc, lúc thì đào mãi tới trái tim nhân loại. Cách nói, cách cảm biến hóa khôn lường và lạ lùng, làm thỏa mãn người đọc cả khối óc và trái tim. Trần Dần đã đóng góp một giọng điệu riêng, một phong cách riêng, mang đến một giá trị bổ sung, làm phong phú thêm nền thơ ca chống Pháp trong tiến trình hiện đại hóa thơ Việt. »
Đúng vậy, nhà thơ Trần Dần đã dũng cảm, gan góc và quyết liệt với tình yêu nghệ thuật chân chính, ông vắt kiệt sức mình cho lao động nghệ thuật trong đó hòa trộn cả máu và nước mắt, con tim và khối óc.
Yêu quá, và kính trọng thay nhân cách Trần Dần khi ông viết :
Tôi yêu đất mẹ đây
Có cỏ hoa làm chứng.
Cũng như khi ông viết :
Thương những chân trời không có người bay.
Thương những người bay không có chân trời.
Vậy ông bay theo đường nào mà suốt đời rơi vào khổ lụy ?
ĐỌC TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ
SUY NGHĨ VỀ HIỆN TƯỢNG HOÀNG QUỐC HẢI
Trước khi vào nội dung, tôi nói qua một chút về quá trình hình thành bài viết này của nhà thơ Hữ Thỉnh.
Ít lâu sau khi nhà thơ Hữu Thỉnh nghỉ hưu, một hôm anh gọi điện cho tôi :
-Tự nhiên tôi muốn đọc hai bộ tiểu thuyết của anh quá.
-Cám ơn bác, thì bác cứ đọc.
-Nhưng không có sách.
Tôi biết anh ngại lục tìm trong cái kho sách khổng lồ của nhà anh. Tôi nhớ hồi 2010, tôi đã tặng anh cả hai bộ. Nhà xuất bản cũng tặng anh. Và Hội Nhà văn cũng mua khá nhiều để biếu lãnh đạo. Anh còn nhờ tôi kí khoảng hai chục bộ sách tặng. Nhưng tôi đã từ chối, vì không muốn ghé bóng cầu rợp.
Biết anh ngại tìm, tôi hỏi lại :
-Vậy tôi gửi sách cho ông nhé.
-Tuyệt ! Tuyệt quá ! Anh gửi ngay cho tôi đi. Tôi đang muốn đọc.
-Gửi về Văn phòng Hội hay gửi về đâu ?
-Anh gửi thẳng về nhà cho tôi.
-Nghe nói anh đã chuyển nhà lâu rồi. Đọc địa chỉ đi, để tôi gửi sách.
Bẵng một thời gian không lâu, Hữu Thỉnh lại gọi :
-Chậc chậc, ghê quá, ghê quá ! Tôi thật không ngờ anh viết hay quá ! Hay quá ! Tôi vừa đọc xong bộ « Tám triều vua Lý » .
Rồi anh đảo lộn trật tự thứ hạng theo anh xếp đặt, ai là số mấy số mấy trong ngôi thứ làng văn. Anh nhấc tôi lên tới mấy bậc.
Tôi mỉm cười đáp lễ :
Này ông Thỉnh, không có thứ hạng gì hết. Chúng ta xếp hạng cho nhau, thử hỏi có giá trị gì. Xưa nay các tác phẩm văn học đứng được hay không là ở các thế hệ độc giả. Nghĩa là tác phẩm phải được thời gian thử thách, và nó phải truyền được cảm hứng cho bất cứ loại độc giả nào. Anh không thấy nhiều tác giả ăn đủ các thứ giải, kể cả giải lớn nhất. Nhưng nó chưa một lần được tái bản. Tác phẩm văn học mà sau 5 năm xuất bản không được in lại, coi như nó đã được chôn cất trọn vẹn. Hãy để cho công chúng lên tiếng. Chúng ta bớt bớt tự sướng đi ông Thỉnh ạ.
Một phút im lặng, Hữu Thỉnh tiếp :
-Chẳng lẽ tôi thẩm định không chính xác sao ? Không, cảm nhận của tôi là chính xác. Để tôi đọc tiếp bộ «Bão táp triều Trần » xong, tôi sẽ viết về hai bộ sach này của anh.
Cho đến bữa gặp nhau tại cuộc gặp gỡ các nhà văn cao tuổi tại Đồ Sơn có đương kim Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng tham dự. Giờ giải lao gặp nhau, anh kéo tôi lại nói rất rành mạch :
- Đọc xong cả « Bão táp triều Trần » rồi. Khiếp quá, tôi không ngờ anh trường sức đến thế. Thú thực, qui mô hai bộ sách đồ sộ quá, tôi không đủ sức. Không đủ sức viết đâu.
Lại bẵng một thời gian. Thật tình, tôi không chờ đợi. Vì đi vào lĩnh vực này tốn sức lắm, phức tạp lắm. Vì vậy tôi cũng không nài ép Hữu Thỉnh viết. Chỗ bạn bè, đọc của nhau đã là quí. Nhiều người, tặng họ cũng không thèm đọc. Có người tuy chưa đọc, nhưng cũng nói xưng xưng:”Đọc rồi, chẳng có gì mới, thuần chép từ chính sử ra thôi.” Hoặc:” Văn chương cục gạch thôi, có gì mà phải đọc.”V.v…
Bữa Hội Nhà văn họp kỷ niệm 100 nhà thơ Nguyễn Đình Thi, Hữu Thỉnh ghé tai tôi nói nhỏ’’Tôi sắp có quà cho anh đấy.”
Tôi vẫn nghĩ anh sắp có sách mới tặng.
Cho tới một hôm thật bất ngờ, nhà thơ Hữu Thỉnh gọi điện thoại, giọng thật vui:
-Anh Hải ơi, tôi vừa viết xong bài về hai bộ sách của anh rồi.
- Vậy à, cám ơn bác. Đọc đã mệt, viết còn mệt hơn. Ông sụt mấy cân ?
- Vui lắm. Thích lắm. Chẳng sụt giảm cân nào. Gửi email của anh, tôi bảo cháu chuyển bài anh đọc. Này, nhưng con gái tôi nó cũng ghê lắm đấy. Tôi viết xong, nhờ cháu đánh máy. Nó đọc xong, ngẫm nghĩ thế nào, nó bảo : « Để con đọc xong hai bộ này xem thế nào đã. »Thế là nó lặng lẽ đọc, rồi lặng lẽ đánh máy, xong gọi bố đọc lại bản đánh máy.
Đúng là cha nào con ấy.
Nhận bài viết của nhà thơ Hữu Thỉnh, tôi rất xúc động. Bởi bài viết rất công phu, và kéo tới cả vạn từ. Xem ra người viết vẫn còn chưa thỏa mãn. Cảm động xiết bao cái tình nghệ sĩ, tình bạn.
Bài viết rất dài, đã in trọn vẹn trong sách, nên không cần trích dẫn. Chỉ xin ghi lại đôi dòng cảm xúc để tri ân bạn, và lưu chút tình đồng nghiệp.
Trong tác phẩm «Ám ảnh chữ »tác giả còn viết nhiều chân dung nữa. Kể cả các tác giả trẻ thuộc lớp sau như nhà văn Phùng Văn Khai. Với cả chục tác phẩm gửi tặng. Tập nào cũng từ 400 – 500 trang. Nhà thơ Hữu Thỉnh cũng chăm chú đọc rất kĩ, và phẩm bình nghiêm túc.
Với các bạn thơ cùng trang lứa như nhà thơ Bằng Việt, nhà thơ Vũ Quần Phương, Hữu Thỉnh trân trọng đặt các bạn đúng vị trí, cân nhắc từng từ để gửi các bạn vào lâu đài thơ ca của dòng thơ Việt hiện đại.
Đặc biệt khi Hữu Thỉnh viết về Nhà thơ Trúc Thông, tôi đọc mà không cầm nổi nước mắt. Bởi trog đó không chỉ có tình nghệ sĩ mà còn có tình bạn tri kỷ hiếm thấy.
Trích… « Vào một ngày chủ nhật, tôi về thăm gia đình ở Vĩnh Yên. Đêm đó tôi được Mợ ( Mẹ Trúc Thông) báo mộng, cụ sắp mất. Tôi choàng thức lúc hơn 4 giờ sáng, bảo nhà tôi sắp mấy cân gạo nếp và đậu xanh để tôi mang về Hà Nội. Vợ tôi sửa soạn cho tôi xong thì có tiếng tầu hỏa vang lên từ xa. Toi xách vội mọi thứ rồi băng qua lối tắt để đi ra ga. May quá, tôi vừa lên được toa khách thì tầu chạy. Về đến Hà Nội, tôi xuống ga Long Biên và đi thẳng về nhà 16 Hồng Phúc. Lúc đó cả nhà cũng vừa dậy. Tôi vào nhà trong, đến bên giường mợ hỏi thăm sức khỏe. Lúc này mợ tôi vẫn còn nói chuyện được. Thăm sức khỏe của mợ xong, tôi ra nhà ngoài kéo Trúc Thông vào một góc :
-Thông ạ, đêm qua mình nằm mơ mợ báo mộng cho mình sắp mất.
Trúc Thông an ủi tôi :
-Sinh dữ, tử lành. Ông yên tâm.
Chiều hôm sau, vào lúc tan tầm, trong lúc tôi đang chuẩn bị nấu bữa tối thì Trúc Thông tất tả chạy sang:
-Thỉnh ơi, Mợ mất rồi!
Tôi rụng rời chân tay cùng Trúc Thông chạy sang nhà. Lúc đó Mợ vẫn nằm trong tấm màn, người thư thái như đang ngủ.
Chỉ qua đoạn văn trên, cho ta biết tình bạn giữa hai người gắn bó với nhau từ thưở còn hàn vi thân thiết với nhau đến mức nào.
Tôi biết Trúc Thông và cả gia đình từ năm 1957 qua người bạn cùng học với tôi ở Hải Phòng là Tạ Đức Phương. Gia đình Trúc Thông đơn người, cha mất sớm, chỉ cò mẹ và chị gái: Chị Chí. Chị Chí hơn Thông khoảng 6-7 tuổi. Trúc Thông được mẹ và chị chăm sóc,yêu chiều. Nhưng rất nghiêm khắc trong việc chọn bạn cho con. Khi mẹ và chị đã ưng cậu nào được chơi với Thông, sẽ được bà coi như con và chị Chí coi như em. Tuy nhiên, Hữu Thỉnh là trường hợp khá đặc biệt. Tôi biết anh giúp Thông lo liệu đám tang cho Cụ rất tận tình và chu đáo. Tình bạn giữa Trúc Thông và Hữu Thỉnh kéo dài suốt cuộc đời, cho tận ngày nay, khi Trúc Thông đã qua đời.
Tôi chỉ nói qua một chi tiết về bà mẹ. Nhớ có lần cụ nhắn tôi qua. Mở đầu cụ nói:
“ Thằng Thông nó có rất nhiều bạn, thuần bạn tốt như Hải, cậu Chúc (Vũ Quần Phương), Tô Hà, cậu Thỉnh, Cậu Tạ Đức Phương…Mỗi khi các cậu tới nhà chơi với Thông, chuyện trò thơ văn với nhau, ăn nói từ tốn, lịch thiệp, đàng hoàng, bác rất vui. Nhưng gần đây có cậu…( Xin được giấu tên) đến đây, ăn nói lỗ mãng như bọn đầu đường xó chợ. Lại còn ngủ lại hết đêm này qua đêm khác. Nói cười hô hố, tục tằn. Mười hai giờ đêm còn hút thuốc lào rít vang đến điếc cả tai. Bác bảo thằng Thông đuổi cậu ấy đi. Nhưng Thông tính nó cả nể. Bác nhờ Hải khuyên cái cậu ấy đừng đến đây nữa, bác phiền lòng lắm”.
Tôi nói đôi lời an ủi bác. Và cũng nói anh bạn kia là người tử tế, chỉ có anh ăn nói bỗ bã thôi. Phải nói thế để bác yên tâm. Mà sự thật, anh bạn kia không chỉ là người tử tế mà còn là một nhà văn tài hoa nữa.
Thế rồi tôi tìm gặp anh tại nơi làm việc, kéo nhau ra quán trà đầu phố. Tôi nhắc “Nếu đến chơi Trúc Thông, cậu không được hút thuốc lào trong nhà. Cụ nhiễm khói thuốc của cậu, đang bị ho nặng đấy.” Với anh bạn này, không được hút thuốc lào, coi như cấm cửa. Qủa nhiên từ đấy, anh không qua nhà nữa. Việc này chỉ có tôi và bác biết. Có lần Thông phàn nàn với tôi: “Sao tay ấy… bặt nhiên không qua mình nữa?”(Xin tiết lộ, anh bạn kia cũng là một người có vai vể trong làng văn. Được tặng thưởng các giải văn chương lớn đấy).
Qua việc này đủ biết Trúc Thông được tiếp nhận một nền giáo dục gia đình trong sáng đến mức nào.
TRẦN NHƯƠNG TRONG TRÍ NHỚ
Chưa biết Hữu Thỉnh nhớ Trần Nhương như thế nào. Nhưng với Trần Nhương thì trong Hội Nhà văn Việt Nam ta, quả thật không ai không biết đến Trần Nhương, và không ai không nhớ đến Trần Nhương lúc bình thường cũng như khi hữu sự. Bởi anh rất nặng tình với đồng nghiệp. Không một bạn văn nào đau yếu không được anh thăm hỏi bằng những hình thức khác nhau. Không một đồng nghiệp nào ra đi mà anh không có lời chia buồn sâu sắc trên trannhuong.com
Không chỉ ngồi nhà đưa lí lịch trích ngang mà anh đến tận giường bệnh thăm hỏi lúc bạn còn đang đau yếu. Không chỉ quanh quẩn tại Hà Nội mà anh còn tới các tỉnh xa, xa lắc như Tây Nguyên, Tây Bắc… Và không đám tang nào của đồng nghiệp diễn ra tại Hà Nội mà Trần Nhương không có mặt tiễn đưa. Cái tình của Trần Nhương đối với bàn bè trải khắp bốn phương đều trĩu nặng ân tình.
Vậy nhà thơ Hữu Thỉnh đã nhớ những gì về Trần Nhương trong trí nhớ ? Khi đã Nhớ nhau trong Trí nhớ. Tức là bạn thân nhau lắm, thân tới mức tri kỷ. Việt Nam có thành ngữ:”Con chấy cắn đôi” để nói về sự thân mật sẻ chia đến tận cùng trong tình bạn. ( Kể ra cũng hơi mất vệ sinh. Nhưng xét sự ra đời của thành ngữ này là rất cổ, tức có truyền thống lâu đời).
Thoạt kì thủy, Hữu Thỉnh nhớ đến Làng Sỏi của Trần Nhương. Cái Làng Sỏi nghèo truyền kiếp của bạn nằm trong trí nhớ của tôi, tức là tôi thương bạn tận đáy lòng tôi. Mở đầu Hữu Thỉnh viết:
“…Hãy bắt đầu từ thuở hàn vi của anh. Tôi cứ nhớ mãi cái “Làng Sỏi” ấy. Một cái tên hiếm có ở trên đời. Mới đọc đã thấy gợi lên đủ cái khó, cái nghèo truyền đời truyền kiếp. Dù thế, nó vãn cứ là quê hương. Không ai có thể chọn trước quê hương để được sinh ra. Nếu con cái không chê cha mẹ khó, thì người đời, nào dám quên nơi mình đã sinh ra. Làng thì sỏi, mà câu thơ sao nặng tình thế.
Làng Sỏi của ta lộp độp cơn mưa vườn cọ
Cổng đá ong xóm Sộp xóm Rèo
Cây gạo trước đình mang nắng lửa từ trời xuống
Chằm sen hương ướp khắp làng….
Cũng nằm trong trí nhớ, Hữu Thỉnh nhớ từng bước chân bạn rong ruổi khắp các chiến trường, rong ruổi khắp thi đàn, và nhớ nằm lòng thuần thơ hay. Tất cả nhà thơ Hữu Thỉnh đã chép lại trong sách này, bất tất tôi không cần phải trích nữa.
Tuy nhiên, nhà thơ Trần Nhương có một bài thơ tình vừa tinh tế, vừa trữ tình, lại vừa trào lộng nữa, tôi xin chép lại cho “vừa đủ”.
VỪA ĐỦ
Em vừa đủ để anh khao khát
Vừa đủ làm cho anh thật là anh
Trời chớm thu vừa đủ nét xanh
Qủa chua ấy cũng vừa đủ ngọt
Em vừa đủ qua thời non nớt
Nét thục hiền vừa đủ chút đành hanh
Trong vững bền vừa đủ sự mong manh
Trong đằm thắm vừa đủ lòng nghi kỵ
Em vừa đàn bà vừa đủ men thi sĩ
Em trang đài vừa đủ nét chân quê
Thích cộng vào vừa đủ biết đem chia
Lòng ngay thẳng vừa đủ mưu che đậy
Em già dặn vừa đủ điều non bấy
Em tươi vui vừa đủ nét ưu phiền
Em lạnh lùng vừa đủ để thôi miên
Em gìn giữ vừa đủ lòng nổi loạn
Anh khao khát với trái tim lãng mạn
Mong suốt đời vừa đủ để yêu em
“ÁM ẢNH CHỮ”còn khá dài. Tạm dừng ở đây. Chỉ biết tác giả là người rất chu đáo, ăn ở có tình. Hồi Hữu Thỉnh làm Tổng biên tập báo Văn Nghệ, xảy ra tai nạn truyên ngắn ‘’Linh nghiệm” của biên tập viên Trần Huy Quang. Sinh mệnh chính trị của nhà văn này như vật nặng treo trên đầu sợi tóc. Hữu Thỉnh biết việc đó là Tòa báo có lỗi. Tổng biên tập có lỗi. Anh xin nhận kỷ luật. Nhưng dường như cấp trên đòi hỏi phải có hình thức kỉ luật thật nghiêm khắc với tác giả Trần Huy Quang.
Hữu Thỉnh đã làm tất cả mọi việc cần thiết. Trong việc này phải công nhận Hữu Thỉnh đã sả thân để cứu đồng nghiệp, cứu bạn. Cuối cùng, Trần Huy Quang chỉ phải nhận án “treo bút”, tức không được viết nữa. Song sự thật, Trần Huy Quang vẫn viết, nhưng phải kí tên khác.
Một người sả thân cứu bạn, cứu đồng nghiệp, thế là NHÂN.
Về hưu rồi vẫn không quên công lao lớp người đi trước, không quên đóng góp của lớp lớp người đi sau, đã làm nên bề dầy của nền văn chương Việt Nam, Hữu Thỉnh đem hết tâm huyết ra điểm gần một thế kỷ văn chương Việt. Bầy tỏ lòng biết ơn bằng hành vi cụ thể đến với mọi thế hệ nhà văn. Thế là NGHĨA.
Người có Nhân, có Nghĩa là người ăn ở có trước có sau, nghĩa tình trọn vẹn. Hữu Thỉnh được như vậy.
Xóm vắng Pháo Đài Láng
Ngày 26/5/2025.
H Q H