Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ÁM ẢNH HỮU THỈNH

Hoàng Quảng Uyên
Thứ ba ngày 3 tháng 6 năm 2025 1:46 PM



Tôi thực lòng sung sướng và háo hức ngay khi nhận được thư mời dự lễ ra mắt và tặng sách Ám Ảnh Chữ của nhà thơ Hữu Thỉnh (qua Zalo và sau đó qua chuyển phát nhanh). Tôi quyết định ngay, kiểu gì cũng phải về Hà Nội (cả đi cả về gần một ngàn cây số) để dự một buổi “sinh hoạt văn học” và gặp gỡ những bậc đàn anh, những người bạn viết trẻ ngay tại trụ sở của Nhà xuất bản Hội nhà văn số 65 - Nguyễn Du nơi tôi có gần hai mươi cuốn sách “ra lò” ở đấy, nơi mà gần hai năm nay thường xuyên tổ chức lễ ra mắt sách mới của nhiều tác giả già, trẻ mà tôi mơ một lần được ‘can dự” thì nay có một cơ hội vàng...

Nhưng đấy chỉ là cảm xúc ban đầu. Cảm xúc ấy nhường chỗ cho nỗi lo trách nhiệm, tôi sẽ nói gì về cuốn sách của người anh quý mến mà ngay tựa sách Ám Ảnh Chữ tôi cũng không hiểu và cảm nhận được bao nhiêu, sợ rằng những điều mình nói sẽ là vu vơ. Suy nghĩ đó là rất thật vì tôi tuy được gọi là Nhà Văn từ rất sớm nhưng vốn Tiếng Việt của tôi rất lõm bõm vì tôi từ nhỏ sống ở “miền rừng núi thẳm hoang vu/ uống sương mù và ăn sỏi đá”... Tôi đã viết nhiều ngàn trang sách bằng Tiếng Việt mà vẫn chưa bao giờ đủ tự tin “Tác nghiệp” bằng thứ ngôn ngữ đẹp đẽ, phong phú và nhiều biến ảo kỳ thú như thế. Tôi nói như thế là thật lòng chứ không phải để làm màu. (Với Tiếng Tày - Nùng thì tôi đủ tự tin viết từ khi tôi trình tác phẩm với nhà thơ Tày Nông Quốc Chấn, ngay lập tức ông xếp tôi vào hàng ngũ chuyên gia tiếng Tày).

Vậy là tôi bắt đầu bằng việc đi tìm nghĩa từ Ám Ảnh. Tất cả các từ điển Tiếng Việt tôi tra cứu đều giảng nghĩa giống nhau. Ám Ảnh: “Lởn vởn luôn trong trí óc, khiến cho phải suy nghĩ bận tâm”. Trong từ điển tiếng Anh từ Ám Ảnh được giảng là từ “chỉ trạng thái tâm lý mà trong đó một người bị cuốn hút, chi phối bởi một ý tưởng, hình ảnh”. Bắt đầu từ cánh cửa đó tất cả hiện ra những kỉ niệm, những câu chuyện, những bài nói của anh Hữu Thỉnh từ đầu những năm tám mươi của thế kỉ trước ở trại viết Tuyên Quang, ở trường viết văn Nguyễn Du khi anh đến trò chuyện giảng bài mà mới nhất là quãng năm 2015-2018 anh khởi thảo Trường Ca Trăng Tân Trào. Công việc chồng chất khiến anh đề xuất Thương lượng với thời gian “Buổi sáng lo kiếm sống/ Buổi chiều tìm công danh/ Buổi tối đem trí khôn ra mài dũa”. Một đêm đang mài dũa trí khôn, anh gọi điện thoại nói chuyện với tôi gần hai tiếng. Tôi kể với anh nhiều chuyện về những năm tháng Bác Hồ sống ở lán Nà Lừa (Tuyên Quang) trong thời khắc vận mệnh sống còn của đất nước, khi ấy Bác Hồ đổ bệnh nặng đã “trăng trối” lại cho đại tướng Võ Nguyên Giáp “Lúc này thời cơ đã đến, dù có đốt cháy cả dãy Trường Sơn thì cũng phải quyết giành cho được độc lập”. Thật may, khi ấy có một ông lang người Tày (đúng ra là người Sán Chay) kịp đến Nà Lừa, nhổ một ít rễ cây về đốt thành than hòa vào cháo cho Bác Hồ ăn. Bác khỏi liền, hôm sau đã ra đình Tân Trào chủ trì Đại hội quốc dân thành lập chính phủ lâm thời. Việc đó trở thành giai thoại. Ông Lang người Sán Chay thành người trời phái xuống cứu Bác Hồ, cứu dân tộc Việt Nam! Chuyện đó có thực và chưa thực. Chuyện thực là thế này: Bác Hồ ở Tân Trào sống rất kham khổ, nhiều muỗi, vắt, một hôm đội bảo vệ (do ông Đàm Quang Trung - Sau này là Thượng tướng- Phó chủ tịch nước làm đội trưởng) xuống sông bắt được một con ba ba to đem về cắt tiết, hòa rượu cho Bác uống thế là dính kiết lị nặng (so với bệnh sốt rét còn nguy hiểm hơn nhiều). Lại thật may khi ấy một tốp quân đồng minh (người Mỹ) mật danh là đội Con Nai nhảy dù xuống Tân Trào, ủng hộ giúp đỡ Việt Minh đánh Nhật (chứ không phải đánh Pháp). Trong đội có quân y sĩ tên là HoaGơLăng, mang theo nhiều thuốc Tây. HoaGơLăng cùng chỉ huy đội là thiếu tá ĐềPhuốcNô lên lán Nà Lừa thăm ông già Việt Minh Hồ chí Minh. Mở cửa lán Nà Lừa ĐềPhuốcNô nhìn thấy “một ông già nằm trong góc tối căn phòng dưới hình hài một bộ xương được bao bọc bởi làn da vàng khô, nhìn chằm chằm người trước mặt bằng đôi mắt đờ đẫn”. HoaGơLăng nhìn lướt qua người bệnh nói ngay “người này chẳng còn sống được bao lâu nữa”, HoaGơLăng đến gần chỗ ông cụ mũi hếch lên hít hít mùi lạ và quả quyết ông già bị bệnh sốt rét và bệnh lỵ. Nhất là bệnh lỵ nó quật đổ người bệnh cực nhanh. HoaGơLăng đưa cho ông già Việt Minh mấy loại thuốc sốt rét, suynphamit và vitamin. Ông cụ uống và căn bệnh lỵ được kìm lại tức khắc... mấy hôm sau nữa ông lang (người trời) mới tới đốt rễ cây thuốc thành than cho Bác uống. Đó là thực tế tôi tả rất kỹ trong chương năm mươi tư trong bộ tiểu thuyết 3 tập Hồ Chí Minh của tôi, duy có đoạn kể về việc 2 người phụ nữ ở dưới làng Tân Trào tên là Chi (bà Trần Thị Minh Châu) và bà Khanh đem cháo gà lên lán cho Bác ăn rồi dọn sạch phòng, đem quần áo (có mùi) xuống suối giặt là bị cắt bỏ hoàn toàn. Biên tập nhà xuất bản kiên quyết “Phải bỏ đoạn này hoặc không in cả cuốn sách. Ai lại tả Bác Hồ ỉa đùn” (bạn đọc có dịp đọc tiểu thuyết Hồ Chí Minh của tôi xin chú ý tới những mô tả chi tiết các loại sự kiện là đặc trưng của thể tài tiểu thuyết rất khác lối viết theo kiểu hồi ký, hay gần hơn là truyện ký và tôi hoàn toàn tự tin ghi thể loại tiểu thuyết trong bộ sách Hồ Chí Minh chứ không phải ghi theo kiểu “lấy được”.

(Lán Nà Lừa nay đã được đổi tên là lán Nà Nưa (tiếng Tày là ruộng trên nghe có vẻ có lý) nhưng hoàn toàn sai vì người cho đổi tên hiểu chữ Lừa theo tiếng Kinh là lừa đảo, lừa lọc. Nơi Bác Hồ ở sao để tên xấu như vậy! phải đổi! Thế là tấm biển ghi lán Nà Lừa bị tháo xuống gắn biển Nà Nưa lên. Tôi đã bỏ ra hơn mười năm tìm hiểu, đấu tranh để trả lại tên Nà Lừa. Tôi đủ tự tin hiểu văn hóa và tiếng Tày - Nùng để giảng nghĩa rằng Lừa tiếng Tày là chỉ chiếc thuyền đập lúa ở vùng cao giống chiếc mũ phớt. Người ta đập lúa xong lật úp chiếc thuyền nhìn xa trông giống mũ phớt! giữa những đám ruộng phẳng đột nhiên nhô lên mấy đám cao hơn như chỏm mũ phớt. Tất cả những địa hình như thế là Lừa: Kỳ Lừa (Lạng Sơn) Khau Lừa (Cao Bằng) nay vẫn giữ là Lừa chứ chưa bao giờ có ý nghĩ đổi Lừa thành Nưa cả.

Tôi đã có 3 bài in ở báo Văn nghệ đòi trả lại tên. Viết thư cho bí thư tỉnh Tuyên Quang nhưng chẳng ai nghe vì việc đổi Nà Lừa thành Nà Nưa đã là sự báng bổ lịch sử và vi phạm pháp luật nay lại đổi Nà Nưa thành Nà Lừa lại càng kì cục. Nên im lặng là hơn và Hoàng Quàng Uyên trở thành người bị kì thị nhất ở Tân Trào Tuyên Quang không biết khi nào lấy lại được tên Nà Lừa, khó lắm không nên mơ!).

Xin trở lại mạch Ám Ảnh Chữ khi anh Hữu Thỉnh cho in Trường Ca Trăng Tân Trào ở tạp chí Thơ, tôi chăm chú đọc và lập tức bị ám ảnh bởi 4 câu thơ

Linh hồn của tự do

Thở dồn trong lán cỏ

Chí lớn thu giang sơn

Giấu mình trong tre nứa.

Và những câu thơ ấy cứ lởn vởn trong trí óc khiến cho phải suy nghĩ bận tâm.

Khi cầm cuốn Ám Ảnh Chữ trên tay điều đầu tiên là tôi tìm chữ Ám Ảnh được nhà lý luận phê bình Hữu Thỉnh dùng như thế nào?. Thật bất ngờ trong 47 bài in trong 600 trang sách khổ lớn (16x24) có độc nhất một chữ Ám Ảnh và kinh ngạc hơn chữ Ám Ảnh độc nhất ấy trở thành tựa sách rất ám ảnh! Đó là bài: Ám Ảnh Thi Hoàng (trang 189).

Trong bài này anh nói kỹ về trường ca Gọi nhau qua vách núi, dẫn câu thơ

Trời cứ xanh như rút ruột mà xanh

Cây thì biếc như vặn mình mà biếc

Để đưa ra hình hài con người thơ Thi Hoàng “thực ra anh chỉ là người biết sống chậm, sống kỹ, sống đằm, dám đi đến đáy cảm xúc, hết sức tránh các lối mòn. Thế thôi”.

Với bài Trúc Thông dịu dàng và kĩ tính (trang 201) Hữu Thỉnh nói rất hay và rất đúng về thơ và con người thơ Trúc Thông. Bình dẫn bài thơ mà ông cho là bài thơ hay nhất, bài Bờ Sông Vẫn Gió ta nhận ra một Trúc Thông tưởng như là phá thơ mà lại có bài thơ hay nhất viết theo thể thơ cổ truyền. Đó mới chỉ là khởi đầu. Ám ảnh nhất là Hữu Thỉnh “đính chính” thời điểm Trúc Thông viết bài thơ về mẹ. Người đọc cứ đinh ninh là bài thơ được viết sau khi mẹ mất, nhưng không phải, Trúc Thông viết bài đó một năm trước khi mẹ ông mất! một chi tiết tâm linh cứ xoáy vào tâm can. (buổi lễ tặng sách Chị Nguyệt vợ anh Trúc Thông đưa con đến dự, tôi có gặp chị. Rưng rưng).

Bây giờ xin nói về bài viết Nhà thơ Vũ Quần Phương. Tôi có nhận xét là anh Hữu Thỉnh đặt tên bài viết có vẻ chểnh mảng nhưng quả thật viết về một nhà thơ nổi tiếng bình thơ ở bậc siêu đẳng thật là khó nhưng anh Hữu Thỉnh với sự hiểu thơ và thân thiết với nhà thơ Vũ Quần Phương đã đưa ra một nhận xét nhẹ tênh mà sâu sắc. “Vũ Quần Phương là người đa cảm nhưng cũng là người cả nghĩ, dào dạt mà lắng sâu. Biết tự đòi hỏi và không dễ tự bằng lòng đó là phẩm chất và cái chí thú của anh”. Tôi cho đó chính là chìa khóa Hữu Thỉnh đánh riêng để mở vào cõi thơ Vũ Quần Phương thật hay và ám ảnh. Khi viết đến đoạn này tôi chợt nhớ câu nói của nhà thơ Hữu Thỉnh ở trại viết Tuyên Quang “Một bài thơ hay trước hết phải lạ! nhưng lạ chưa chắc đã hay”. Thật đúng và sâu sắc.

Khi Hữu Thỉnh viết về nhà thơ Gia Dũng Nhà thơ Gia Dũng quen mà lạ - Trang 505) thực ra là lạ mà quen. Bắt đầu từ bài thơ đã quá nổi tiếng những năm sáu mươi thế kỉ trước: Bài Ca Trường Sơn luận về câu thơ “Gì vui hơn đường ra trận mùa xuân” không thể đúng và hay hơn nhưng điều ám ảnh là những câu chuyện kể ở chiến trường, thời mở trại viết Tuyên Quang năm 1984....mà Gia Dũng là trại trưởng ta càng nhận ra một nhà thơ tài hoa nhiều lận đận trong tình thơ, tình đời..

Và một bài viết đủ tình, đủ tài, đủ cả hoa “mùa thu xịch đến lúc sang hè” dẫn nhiều bài thơ hay, câu thơ hay trong “trí nhớ” đủ xác tín hạ một nhận định. Có một chút xảo chữ mà không thể thật tình hơn: “vậy là Trần Nhương đã có hơn 60 năm cầm bút, anh có một sự nghiệp dầy dặn, đa dạng được công chúng mến mộ từ lâu. Với sự nghiệp ấy, bài viết của tôi chỉ là sự điểm xuyết khiêm tốn mà thôi. Bạn đọc đã được tiếp cận khá nhiều bài viết của đồng nghiệp khẳng định tài năng và đóng góp của Trần Nhương vào nền thơ nói riêng và văn học ta nói chung. Bài viết của tôi là lá phiếu thuận cho sự đánh giá đó” (bài Trần Nhương trong trí nhớ - trang 491).

Tôi đã đọc nhiều bài viết của Hữu Thỉnh về thơ, văn xuôi, cả những bài có tính chất khái quát, tổng kết cả một nền văn học thật đa dạng đủ cảm xúc để phát biểu nhận định riêng của mình về những công trình tiểu luận và phê bình văn học rất có giá trị của anh Hữu Thỉnh, mạnh dạn trải lòng với mấy lời thô sơ (mượn chữ của nhà thơ Y Phương - người đồng mình tuy thô sơ da thịt) để tặng Tài Cố (người anh cả yêu kính - Tiếng Tày) - Nhà Thơ - Nhà Lý Luận phê bình Hữu Thỉnh.

Với tâm thế và tình cảm ấy tôi đủ tự tin và niềm hứng khởi bước tới ngôi nhà yêu quý, thân thuộc số 65 - Nguyễn Du, Hà Nội nhập vào không khí tưng bừng, náo nhiệt của lễ tặng sách đặc biệt. Khán phòng được trang hoàng với màu xanh chủ đạo, có cả Piano chơi những bản nhạc phổ từ thơ Hữu Thỉnh. Đó là công trình sáng tạo đỉnh cao của đạo diễn, nhà thiết kế trẻ Việt Thanh - con gái của nhà thơ Hữu Thỉnh chợt ấm áp lạ thường. Được gặp mặt, bắt tay (và cả ôm nữa) người anh đã lâu ngày không gặp thấy anh còn rất vượng về sức khỏe và năng lực sáng tạo. Tôi rất mừng. (Đọc bài phỏng vấn rất hay của nhà báo, nhà văn trẻ Như Bình đăng trên văn nghệ công an số 761 đoạn anh Hữu Thình trải lòng “Riêng tôi xin góp một phần nhỏ bé dù cường độ làm việc và sức đọc của tôi tăng lên rất nhiều” tôi nghĩ đó là lời tự an ủi, tự gồng mình của một người già tuổi tám mươi nhưng đó hoàn toàn là thực tế và đó là hồng phúc).

Sau lời phát biểu của nhà thơ (Thần nói) Trần Đăng Khoa và giáo sư Phong Lê, tôi được mời lên phát biểu. Đứng trước một cử tọa nhiều tinh hoa văn học nghệ thuật của đất nước tôi đâm ra lúng túng, mất kiểm soát chỉ nói được vài phút rồi tắt tiếng sau mấy lời cảm ơn, tôi rời vội ra cửa, lên xe trở về Cao Bằng với nhiều ám ảnh tiếc nuối và ân hận vì không nói được hết những điều muốn nói, về đến nhà tôi viết mấy dòng này gửi nhà thơ Hữu Thỉnh và những người có mặt trong buổi tặng sách ngày 28/5/2025 để lòng nhẹ bớt ưu tư. Có thể đầu đề bài viết Ám Ảnh Hữu Thỉnh có chút gì chưa thuận tai, thuận mắt và nội dung bài viết dễ dẫn tới hơi hướng “ăn theo” từ Ám Ảnh thì cũng xin được đại xá./.


Cao Bằng, ngày 30 tháng 5 năm 2025