Nhà thơ Cao Xuân TháiTiếng thở dài của ông cứ như mây mưa kéo về lòng tôi bao kỷ niệm một thời trai trẻ, cùng bao cay đắng ngọt bùi. Khi trở thành tri kỷ bên nhau tôi đã biết thơ ông và từng thuộc đôi bài thơ của ông từ buổi còn trên tay chiếc gậy vượt Trường Sơn. Không tỏ duyên cớ gì mà thơ cứ theo ông từ ấy đến giờ! Ngay phút bệnh tật đang hành hạ ông vẫn nghĩ đến thơ, vẫn tính làm thế nào để có tiền in tập thơ về cao nguyên đá đang hoàn thành này. Nhìn ông tôi cũng chỉ biết thở dài và những câu thơ ấm áp, chan chứa, một thời thương nhớ của ông lại vang lên.
Trời đêm nay tỏa sáng muôn vì sao
Vai ướt sương đêm mà gian lao quên hết.
Con chim nhỏ giật mình kêu nhiêm nhiếp.
Lá reo trong gió xôn xao
Đoàn quân đi vào chiến dịch,
Hẳn đêm nay mẹ vẫn chưa đi ngủ
Thầm tính ngày con xa mẹ xa làng
Cơm vắt con ăn với muối vừng đỡ đói
Nhớ canh cua nấu với mùng tơi…
Thời gian ơi chả bao giờ dừng lại
Mà nhớ thương như dài suốt thời gian
Con lại hành quân chân trời ửng sáng
Niềm vui rạo rực ánh bình minh
Ôi ! tổ quốc tình dân nghĩa Đảng
Mỗi chiến công như có cả mẹ con mình.
(Trích trong bài Quê Hương )
Thơ hồn nhiên đến ngây thơ, một thời đồng đội tôi đã hát, đã đọc cho nhau nghe dọc suốt dặm dài hành quân gian khổ. Có lẽ vì thế nên bây giờ nằm trên giường bệnh ông vẫn nghĩ đến thơ, thơ trên đá cao nguyên Đồng Văn. Như vỡ òa ra điều bí ẩn này tôi lại như đang cùng ông những ngày trong quân ngũ. Có lúc nằm trong hầm địa đạo Vĩnh Linh tôi thì bịt tai tránh nghe tiếng bom, tiếng pháo, ông lại cặm cụi viết . Tiếng trẻ sơ sinh trong hầm Địa Đạo. Bài thơ này được đăng trên báo của quân khu thời những năm bẩy mươi và ông cứ hồn nhiên theo đoàn quân và làm thơ như thế. Thơ theo ông suốt dặm dài đất nước, khi hào hùng bi tráng, khi lắng đọng nhơ thương da diết nhưng đều tấu lên tấm lòng ông với đất nước, quê hương.
Từ những dòng sông cũng bừng lên sóng biếc
Từ những nẻo đường cũng hối hả ra quân
Lời đất nước – bản anh hùng ca bay xa bất diệt.
Ta mang trong tim di chúc của Bác Hồ
Là vũ khí tấn công và tâm hồn Việt Nam Bình dị
Ta mang đi diệt mỹ…
(1969- Đất Nước Ra Quân)
Và
Trời trong in trắng cánh cò
Phải mùa cam chín giọng hò ngọt thêm
Từ trong đôi mắt tuyệt vời
Cũng bừng ánh lửa soi ngời chiến công…
(Cam Quê Mẹ)
Thế hệ chúng tôi đã số
ng một thời như thế, Cao Xuân Thái từng một thời làm thơ như thế. Giờ đọc lại những trang thơ này không ít người mỉm cười nhưng với chúng tôi nó là máu thịt, máu thịt một thời mà lớp lớp chúng tôi vai nặng ba lô cùng chiếc gậy vượt Trường Sơn đi cho trời xanh hóa tuổi, đi cho chọn bản tình ca…Không ai tính đếm hơn thiệt, hy sinh. Một thời hoa đỏ tuyệt vời dù bây giờ tất cả chỉ còn là kỷ niệm.
Sau năm 1975 những người còn sống sót như bọn tôi đều được ùn về trạm 86 thuộc tỉnh đội Hà Tuyên. Người chờ ra quân, người cặm cụi đèn sách chờ kỳ thi vào các trường đại học, trung học. Chúng tôi lại có dịp hội ngộ, thời điểm này tôi và ông có cùng hoàn cảnh. Vợ đều làm cơ quan nhà nước vậy nên cả hai càng gắn bó, càng quyết tâm đèn sách để thi đỗ, để được làm cán bộ cho môn đăng hậu đối với vợ con. Khổ, học hành thi cử thì khó, không có sự ưu tiên nào cả mà chữ nghĩa chúng tôi đều rải khắp nẻo đường chiến trận rồi. Phải cặm cụi, lấy cần cù bù thông minh vậy. Tôi có cái may hơn còn nhớ chữ nhiều, nhất là những môn tự nhiên vì thế hay bị Cao Xuân Thái hành phù đạo. Cái ông này kỳ lắm, rất chịu khó nhưng những hàng số má tính toán rất khó ở lại đầu, tôi nói ra rả mà cứ như nước đổ lá khoai. Hết giờ hành nhau ông lại làm thơ, làm xong lại dựng tôi dậy bắt nghe thế mới kỳ. May trong đợt ấy giời cho thế nào tôi và ông lại không phải chờ thi cử mà được tuyển thẳng về ty văn hóa Hà Tuyên. Chắc là các ông quân lực xem hồ sơ thấy chúng tôi đều được học võ vẽ nghề viết trong các quân khu thời chinh chiến. Về ty ông được biên chế vào phòng Văn nghệ phụ trách nếp sống mới, tôi đi làm Bảo tàng. Vậy là ổn định cái việc môn đăng hậu đối cùng vợ con, không còn e cảnh “Rế cao hơn nồi”.
Từ người lính ra làm công chức, bọn tôi cứ thật thà như đất, ai dày cơ quan dân sự cũng nhiều toan tính, chúng tôi luôn phải điều động khi thì đi chỉ đạo sản xuất, khi thì tăng cường cho vùng nọ, chỗ kia, khi thì giảm biên chế, chúng tôi cứ như hòn bi lăn tròn nhưng nhờ là lính chuyển ngành nên không bị xếp dôi dư. Lận đận với đồng lương ba cọc ba đồng chả biết làm gì ngoài việc được phân công ông lại làm thơ. Rồi tỉnh lỵ Hà Tuyên do chiến cuộc biên giới rời về Tuyên, tôi đi học, ông vẫn ở ty và làm nếp sống mới. anh em vẫn giữ liên lạc cùng nhau. Ngày tôi ra trường cũng bị thuyên chuyển khắp nơi cuối cùng lại về phụ trách tờ Văn hóa thông tin của ty ( sau nảy gọi là sở). Tờ thông tin cũng có trang Văn nghệ, thế là thơ ông lại xuất hiện đều đều và ông cũng thường xuyên đến phòng tôi. Có một chuyện thật vui vẻ ấy là hôm bác Diệp kiếm đâu được chai rượu, bác kéo Trần Khoái và đám Tuấn què đến, anh em đang rộn thì Cao xuân Thái xuất hiện. Ông chìa ra mấy tờ báo mủm mỉm cười. “Thằng Nhân Dân vừa in bài Đêm Gió Thượng Phùng, và thằng Văn Nghệ Quân Đội cũng in bài Thị Xã Mùa Thu của tôi) Bác Diệp reo to. Chúc mừng, chúc mừng thế là chén cốc giơ cao, vừa lúc ấy điện tắt, một lúc điện lại nhòe lên. Rượu vào tuấn què thèm thuốc, hắn lơ láo tìm cái bật lửa rồi phàn nàn. Như có ma ấy, cái bật lửa vừa ềnh ềnh trên bàn chỉ một phút mất điện mà biến mất. Lão nào bỏ túi lôi ra đi. Không ai nói gì, Cao xuân Thái lại cầm tờ báo Nhân Dân lên đọc thơ. Mọi người cười rinh còn thầy giáo Trần Khoái thì bảo. Không thể nào khác được… cái bật lửa… Tuấn què bảo. Đếch cần, có hộp diêm trong ngăn kéo tay phong đây rồi. Khói thuốc lại cùng rượu mù mịt. khuya mới tan, mọi người ra về nhưng ai cũng nhớ chuyện cái bật lửa và câu nói của thầy giáo Trần Khoái. “Không thể nào khác được” nhưng mà vui, cái thời khó nó sinh ra cho người ta cái vụn vặt ấy, đâu phải bản chất, không sao, không sao. Vui, vui mà. Bác Diệp lật khật vừa đi vừa nói như reo. Cuộc sống có những phút kỳ thú như vậy, chúng tôi vẫn chan hòa ở và yêu thương nhau. Đến năm 1991 hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang tái lập. Nằm trong danh sách lên Hà Giang, Cao Xuân Thái lúi cúi mở ra một loạt huân huy chương nhưng rồi ông lại tự cất vào cặp và đồng ý xa vợ con trở lại Hà Giang. Ông bảo. Lần này lại một cuộc đi dài nữa nên không mang theo gì ngoài tình yêu thơ. Chắc là giời phù hay tự lòng ông phát sáng khi tự hóa thân vào đất đá Hà Giang thơ ông đột ngột đổi sắc vừa hay vừa lạ.
Vách đá tai bèo nhìn vào nhức mắt
Khát màu xanh đến thế mẹ ơi
Mẹ thầm lặng gùi từng gùi đất
Quẩy tấu nhấp nhô dưới mặt trời
….
Bao nhiêu đất mẹ gùi không thể nhớ
Chỉ thấy ngô xanh ngát núi đồi
Và
Triền núi mở ra xanh mát mắt
Một chút vàng bay trong nắng bồi hồi
Cây ngô đứng thân thương dáng mẹ
Mùa lại về ấm áp cao nguyên.
( Cây Ngô Dáng Mẹ)
Bài thơ như bức ảnh để ta nhìn thấy dáng người mẹ ngày ngày gùi đầy những quẩy tấu đất đổ vào hốc đá với khát khao nho nhỏ cho mầm ngô nảy xanh, thơ như bức ảnh đẹp, nhìn, ngẫm thơ ta thấy cái khó nhọc của người vùng cao làm ra mùa màng trên nhấp nhô núi đá. Từ đó càng thấy thiêng liêng ( một chút vàng bay trong nắng bồi hồi). Rõ ràng ta thấy Cao Xuân Thái ngửa mặt nhìn đá để nhận ra dáng mẹ, ngửa mặt nhìn đá để thấy hương vị của quê hương, hình hài tổ quốc.
Một miền đá xám mênh mông
Núi che khuất mặt, cách lòng người thương
….
Thương người áo bạc mồ hôi
Bàn tay xếp đá chưa xuôi mọi bề
Rau rừng mèn mén nước khe
Lên cao ngọn gió khô nghe buốt lòng
Vẫn chưa nguôi ngọn gió rừng
Đêm đêm thổi vẹt vầng trăng cuối trời.
( Tổ Quốc Nơi Cực Bắc)
Tổ quốc nơi đây là vậy, quê hương ở đây là vậy. Tất cả đều lầm lũi, giản dị như đôi bàn tay con người ngày đêm uống nước khe, ăn rau rừng lặng lẽ xếp từng hòn đá, cõng từng gùi đất làm nên vóc dáng quê hương, Tổ quốc.
Thời gian sống, thời gian gắn bó với cao nguyên ông đã hóa thân vào đá, hóa thân vào đá thơ ông càng như đá vững bền, ông thấu cái ớn lạnh sắc nhọn của đá và cả những hung dữ của những rốn gió cao nguyên.
“ Quê hương tôi tự nó đã cao rồi…
Gần mặt trời mà thiếu nắng quanh năm
Giá rét nhiều vì quanh năm gió mưa gào thét
Đá thì lởm chởm nhọn sắc, một vùng mênh mông xám lạnh rợn người”
(Trước Đá)
Hiểu đá ông càng thương người, những dáng mẹ, hình em trong sương giá cao nguyên ngày đêm gùi đất lấp vào hốc đá để làm ra sự sống, làm ra chất men thơm vàng như nắng và khi nâng bát “ Vàng” lên ăn ông ngẫm.
Đồng bào tôi một đời khó nhọc
Hạt gạo bữa thường mang dáng mồ hôi
Phải thấu đáo lắm, chia xẻ lắm, gắn bó lắm mới có được những câu thơ như thế này. Cao Xuân Thái đã sống và viết ra thơ từ cao nguyên đá như thế. Theo mạch nguồn này ông đã sinh đẻ hàng chục tác phẩm về cao nguyên đá như: Sóng Thượng Nguồn, Trước Đá, Tổ Quốc Nơi Cực Bắc, Thu Vàng Ở Lại, Tổ Quốc Cao Lên Từ Lũng Cú… Một đời đi và viết ông đã để lại cho bạn đọc một gia tài thơ về cao nguyên đá khá phong phú, có lẽ đây là niềm hạnh phúc trời giành riêng cho ông. Mỗi khi đọc thơ ông tôi có cảm nhận này. Nhưng hôm nay ngồi với ông trong phòng bệnh, nhìn từng giọt nước theo ống truyền rớt vào cái thân thể khô gầy như cây củi của ông tôi lại thấy khắp lòng như muối sát. Ấy là nghĩ đến cuộc đời riêng tư của ông từ buổi cùng nhau trong quân ngũ đến giờ. Ông chắt chiu chăm vợ yêu con thế mà giời lại lấy đi tất cả. Đứa con giai đang học phổ thông nhớ bố đang công cán ở Hà Giang, bắt xe lên chơi, khi về xe đổ ở Thác Cái, cháu vĩnh viễn ra đi, đứa con gái thì đường đời lận đận, sinh được thằng cháu giai thì bị khuyết tật ông bà phải chăm. Năm ngoái vợ ông làm lụng thế nào lại ngã bị bể xương hông thế là ngồi xe lăn, bây giờ ông nằm đây, con bệnh hiểm ngày đêm móc túi ông lấy tiền đi vậy mà ông vẫn nghĩ về cao nguyên đá, vẫn đau đáu tập thơ chưa hoàn thành. Nhìn ông tôi vừa cám cảnh vừa nể phục nhưng chả biết nói gì, bốn mắt nhìn nhau tôi lại thấy thơ ông lung linh giữa núi đồi cao nguyên chông chênh nhưng ngào ngạt hoa lá.
Nhà ai nghiêng dốc đồi
Hoàng thảo vàng trước cửa
Hương đêm như chỉ để
Thơm cho người yêu nhau
(Thị Xã Mùa Thu)
Thơ hay tiếng lòng ông thổn thức mỗi ngày mà ngay trong cơn đau bệnh ông vẫn ngửa mặt đau đáu nhìn đất đá trên cao nguyên Đồng Văn, Mèo Vạc. Cầu cho ông sức khỏe, mong có một sự diệu kỳ để ông đuổi xa con bệnh hiểm tiếp tục hoàn thành những bài thơ hay ông ấp ủ từ bao tháng năm ngẩng mặt nhìn đá, gắn bó với cao nguyên chọn một đời người, một đời thơ. Nhắc đến ông, bầu bạn thường nói. “ Cuộc đời Cao Xuân Thái chỉ còn lại là Thơ ”. Vậy thế mới nói. Nhà thơ Cao Xuân Thái Trong Đau Vẫn Ngửa Mặt Nhìn Đá.
Những ngày tháng 5.2025
TRỊNH THANH PHONG