Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

ĐÀO DUY ANH

Thái Kế Toại
Thứ tư ngày 13 tháng 3 năm 2024 10:09 AM


Viết tạm xong số chân dung văn nghệ sỹ chủ chốt của Nhân Văn Giai Phẩm xong tôi thấy cứ thiêu thiếu. Phần thể hiện về trí thức, giáo dục chưa có bao nhiêu ngoài Giáo sư Trương Tửu. Trong khi đó những vị Giáo sư đáng kính tham gia phong trào, đóng vai trò quan trọng còn nhiều: Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Đào Duy Anh, Đặng Văn Ngữ cùng một số trợ giảng, sinh viên thân thiết của họ. Cuối cùng tôi chọn Đào Duy Anh nhưng với tham vọng qua chân dung của ông có thể phản ánh tương đối quy mô, nội dung của phong trào trong ngành giáo dục và các bạn đồng chí hướng của ông. Tuy vậy vẫn phải gặp một trở ngại là tư liệu về giai đoạn 1956-1958 cho chuyên đề rất hiếm. Bản thân Đào Duy Anh cũng không muốn nói về chuyện đó. Những học trò yêu của ông, 4 tứ trụ sử học cũng né tránh, ít nói cụ thể chuyện cũ. Vì vậy tôi sẽ phải tìm cách viết mới như là đặt những tấm gương phản chiếu xung quanh ông để bạn đọc tự suy ra cái đời sống thời đại trong tinh thần của ông.

Có một học trò của ông là nhà văn Thái Vũ tức Bùi Quang Đoài đã phủ nhận vai trò của Nhân Văn Giai Phẩm trong văn nghệ với giáo dục, cho là khu biệt, không liên quan đến nhau. Thực ra các ông mới là những thủ lĩnh tiên phong về lý luận văn hóa về dân chủ, chính trị trên các báo Nhân Văn, Giai Phẩm và tác động sâu rộng đến sinh viên, học sinh, nhân dân bên cạnh các tác phẩm văn học xuất sắc khác…Các ông cũng có mối quan hệ thân thiết với Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy và các văn nghệ sỹ quan trọng khác giúp tổ chức cho các ông tập san Đất Mới và Tự do diễn đàn.

Xin mời đọc trước mấy đoạn của văn học miền Nam, thứ không có trong văn học miền Bắc cùng thời. Đó là tâm trạng người day dứt của người Hà Nội, một thứ bi kịch thời đại, trước sự lựa chọn ở lại hay đi Sài Gòn. Làn sóng và tâm trạng người di cư, nỗi đau khổ của gần một triệu người dân miền Bắc, tiếng thơ của văn nghệ miền Nam về máu chảy ở Budapest Hung ga ri trên tạp chí Sáng Tạo, thứ tâm trạng nhân loại tiếc thay không có ở Hà Nội, cuộc đấu tranh vì dân chủ của sinh viên Sài Gòn với chính quyền miền Nam trong đó có nhiều người vừa rời bỏ Hà Nội.

Đoạn thứ nhất

Phượng nhìn xuống vực thẳm.
Hà Nội ở dưới ấy.

Từ chỗ anh đứng, Phượng nhìn sang bờ đường bên kia. Những tảng bóng tối đã đặc lại thành khối hình. Từng chiếc một, những hàng mái Hà Nội nhoà dần. Phượng nhìn lên những hàng mái cũ kỹ, đau yếu ấy, giữa một phút giây nhoè nhạt, anh cảm thấy chúng chứa đựng rất nhiều tâm sự, rất nhiều nỗi niềm. Những tâm sự câm lặng. Những nỗi niềm nghẹn uất. Của Hà Nội. Của anh nữa.

Dưới những hàng mái cong trũng, ngập đầy lá mùa kia, đang xảy ra những tâm trạng, những biến đổi gì mà ở bên này đường Phượng không đoán hiểu được. Hà Nội đang đổi màu. Đứng bên này bờ đường nhìn sang, Phượng bắt đầu tiếp nhận với một thứ cảm giác ớn lạnh, cách biệt, anh đã đứng trên một bờ vĩ tuyến mà nhìn về một vĩ tuyến bên kia. Bên ấy, có những hình ảnh chia cắt, đứt đoạn. Bên ấy, có những hình chiến luỹ, những hàng rào dây thép gai, những đoạn đường cấm, những vùng không người.

Phượng cũng không hiểu tại sao nữa. Giờ này anh còn là người của Hà Nội, thở nhịp thở của Hà Nội, đau niềm đau của Hà Nội, mà Hà Nội hình như đã ở bên kia.

Phượng nhìn xuống lòng đường. Trong bóng tối, mặt nhựa lầm lì không nói gì. Những hình cây đổ nghiêng trên những tấc đất đá câm nín. Bí mật dàn ra những bề phẳng, những đường dài như một dòng sông ngăn chia hai bờ, và Phượng đã đứng ở bên này mà nhìn sang một bờ bến bên kia. Bên kia có Hà Nội. Bên này có anh. Có tập thể. Có những bạn đường. Có một chuyến đi về Hà Nội.

Chung quanh chỗ Phượng đứng, những tảng bóng tối đã đọng lại trên bờ đường như những bờ hầm hố. Nhìn xuống, Phượng có cảm giác chơi vơi như đứng trên một tầng cao. Anh nhìn xuống vực thẳm. Hà Nội ở dưới ấy.

Anh nhớ đến Thu. Thu cũng còn ở dưới ấy, trong Hà Nội. Cái mái nhà cũ kỹ bên kia, chính là mái nhà Thu, lại cũng chính là ở bên ấy, Thu sẽ đến với anh, ở bên này. Từ một mái nhà của Hà Nội đêm nay, đến bờ đường anh đứng, chỉ có một đoạn ngắn, nhưng Phượng biết rằng đêm nay, nó chứa đựng tất cả ý nghĩa của một đoạn đời. Và Thu, Thu phải đặt cả đời Thu vào một chuyến đi, thì Thu mới vượt được đoạn đường ngắn ngủi ấy, và Thu mới sang được với anh. Như anh, như hàng nghìn hàng vạn con người Hà Nội đêm nay, Thu sẽ ở lại hay sẽ vượt lòng biên giới cũ. Giữa những phút giây Hà Nội đang rắn lạnh lại trong chuyển đổi chính thể đã bắt nguồn, đứng bên này đường, Phượng mới cảm thấy rằng ở bên kia Hà Nội, Thu đã ở thật xa anh. Cái cảm giác ớn lạnh mỗi khi anh đứng trước một dòng sông lại nổi lên. Con sông biên giới đêm nay lại hình như con sông Hồng chảy qua một bờ Hà Nội. Trong Phượng, sóng lòng của chuyển dịch chưa kịp nổi lên mà những ngọn sóng của dòng sông cũ đã nổi dậy. Âm thanh oà oà. Lòng đêm Hà Nội chứa đựng những tiếng đổ vỡ đang xô chen trong bóng tối đặc quánh.

Mai Thảo Đêm giã từ Hà Nội

Đoạn thứ hai

Năm 1954 với những đợt di cư đầu tiên khuôn mặt dân tộc Việt đẹp một cách kỳ diệu - đó là điều Kha vẫn thường lòng tự nhủ lòng. Ra đi để lại mồ mả ông cha phía sau và biết bao nhiêu trường hợp gia đình phân đôi cha mẹ già ở lại con cháu ra đi, ra đi hẹn ngày trùng phùng tuy còn xa lắm nhưng tất nhiên phải có. Cuộc chia tay của gia đình nào mà chẳng “lệ rơi thấm đá tơ chia rủ tằm!” Vào tới miền Nam, đồng bào miền Nam nhân hậu lại hiểu lầm và hỏi mỉa “Ngoài đó chiến thắng Điện Biên Phủ, tổ quốc độc lập vinh quang rồi sao không ở lại mà lại di cư?” Kha nghe kể có người anh là sĩ quan mang tiểu gia đình theo quân đội viễn chinh vào đóng ở Nha Trang trước, người em trai đã vô Nam làm ăn tự mấy năm trước bèn đi chuyến xe tốc hành từ Sài Gòn tới Nha Trang tìm gặp anh, chỉ vào chiếc xe Jeep sơn màu cứt ngựa của quân đội và nói: “Anh quen bơ sữa của giặc nó thí cho, anh ngồi trên chiếc xe Jeep này của giặc anh có thấy nhục không? Rồi bỏ đi liền, lên chuyến tốc hành về Sài Gòn. Người anh đành im lặng. Còn biết nói gì hơn?! Còn muốn nói gì hơn?! Làm sao mà giải thích cho người em hay hoàn cảnh tế nhị của mình cũng như của ngót một triệu đồng bào di cư khác, là vào Nam đề giữ lấy nhân phẩm điều kiện tiên quyết của con người xứng đáng với danh vị đó. Sự kiện hiểu nhầm đầy rẫy giữa những người từ Bắc vô với những người vốn ở miền Nam hoặc sắp từ Nam “chọn tự do” ra Bắc. Người em mắng anh xong rồi ra Bắc, mặc dầu có biết rằng mẹ, chú, bác, cô, dì và các anh em khác cũng đương lênh đênh trên con dường vào Nam bằng đường thủy. Người anh không hề giận em, sự đau khổ vì nhiều từng trải dã khiến anh trở thành bao dung. Cũng như tất cả những ai đã “qua cầu cộng sản,” anh hiểu với tuyệt kỹ bưng bít và tuyên truyền của cộng sản thêm vào những sơ hở ấu trĩ của miền quốc gia thì hình như định mệnh của một số người Việt miền Nam là phải đích thân “qua cầu cộng sản” ngõ hầu mới hiểu bộ mặt thật cộng sản để mà thông cảm với nỗi lòng đau như cắt của tám mươi vạn đồng bào miền Bắc di cư vào Nam. Một niềm an ủi cho người anh, là sang năm 1955 anh nhận được bưu thiếp của người em trong có một câu lờ-mờ như lời xin lỗi. Thoạt anh bỡ ngỡ chưa hiểu, thì một tháng sau nhặn được một bức thư dài gửi thoát qua đường Cao Mên, bức thư đó đoạn sau cùng người em viết:

“... Mẹ bảo các em viết thư ngay cho con biết chừng. Con gởi lời vào chúc bà ngoại, các chú thím cậu mợ, các anh chị bên nội bên ngoại được mạnh giỏi. Con gửi lời thăm bà con chòm xóm đã vào tới đây và mong mỏi chòm xóm mạnh giỏi làm ăn thịnh vượng. Cả nhà nhớ là con đương chờ tin của nhà. Vì công cuộc làm ăn nên con chưa thể tới thăm cả nhà được.

Mẹ ơi con cứ động mơ thấy mẹ là lòng nghẹn ngào nước mắt ứa ra vì ngay trong giấc mơ con đã linh cảm thấy việc đó đâu có thực hiện dễ dàng như thế. Hoàn cảnh đau thương biết là chừng nào!

Kính chúc mẹ mạnh khỏe

Con của mẹ

T.”

Đã có những người vượt tuyến, có người bị giữ hàng tháng, bị tra khảo vì ngờ là phản gián điệp. Trong đám người được thả ra trên đất tự do ấy có người tuyên bố “dù có bị giữ hàng năm và mỗi ngày một trận đòn rồi mới được thả, tôi vẫn thấy là xứng đáng! Đó là thái độ và tiếng nói của những người đã có kinh nghiệm bản thân qua “cầu đoạn trường cộng sản”. Đọc xong lá thư của em, người anh bắt đầu nuôi hy vọng đợi ngày tái ngộ, hy vọng em sẽ trở về giới tuyến của mình qua con đường Lào hoặc Miên.

Sinh viên Đại học Hà Nội di cư - thăm Kha. Thời này đoàn Sinh viên Đại Học Hà Nội đang dẫn đầu phong trào chống thực dân

Pháp và cộng sản, và cố lôi kéo anh em sinh viên Nam cùng tham dự phong trào, mặc dầu vào dạo đó anh em Hà Nội có nhận thức thấy trong số sinh viên Nam có nhiều khuynh hướng thân cộng. Sinh viên đại học Hà Nội đã vận động xong cuộc tổng bãi khóa để đòi được chính phủ Pháp trao trả Viện Đại học cho chính phủ Việt Nam. Cũng đã gần tới kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày đất nước chia cắt. Vào ngày 13-7-1955 Kha cùng một số đông các anh em sinh viên và một số đông hơn nữa anh em học sinh đi biểu tình bốn tiếng đồng hồ liền trước các trụ sở Ủy Hội Quốc tế - một ở đường Yên Đổ, một ở khách sạn Galliéni, một ở khách sạn Majestic - phản đối họ đã quá nhân nhượng với Cộng Sản. Vì có sự can thiệp yêu cầu của Thủ tướng - ông Ngô Đình Diệm - đoàn biểu tình tạm giải tán, nhưng cơn căm phẫn - không riêng gì của anh em sinh viên, học sinh, mà của toàn dân - còn kéo dài đến ngày 20 tháng 7.

Sớm ngày 20-7 Miên được nghỉ bèn đến thăm Kha tại làng Thăng Long, tới nơi chỉ thấy những căn lều trống trải. Nàng hỏi anh sinh viên ở lại phụ trách bếp nước, được anh cho hay toàn thể anh em sinh viên đã chia nhau đi biểu tình phản đối Ủy hội Qưốc tế ở ba trụ sở của họ. Miên lên xe theo hút họ ra chợ Bến Thành thấy Kha cầm đầu một trong ba toán. Gọi chàng thì không tiện, nàng về thẳng nhà. Đến trưa Miên hay tin cuộc biểu tình đã trở thành vĩ đại với hào khí ngất ngất có thể át cả cuộc biểu tình tổng khởi nghĩa xưa tại Hà Nội.

Quả thực thế, khối sinh viên di cư, hợp với khối học sinh các trường Chu Văn An, Nguyễn Trãi và khối học sinh còn ở tạm khu lều Phú Thọ cùng ùa tới, rồi cả khối sinh viên học sinh đó thu hút đồng bào các giới... Chính phủ Ngô Đình Diệm vào những ngày đầu di cư này như một cô gái nghèo hiếu hạnh vừa đến tuổi dậy thì với một nhan sắc vừa khích động tình yêu, vừa vừa khích động lòng thương, và lòng ái quốc dâng lên như nén hương lòng thơm ngát... Tin tức truyền đi qua các cửa miệng rất nhanh chóng: “Đoàn biểu tình tới khách sạn Galliéni thấy một tên lính Việt Cộng đứng gác bèn ồ ạt xông vào, tên Việt Cộng bỏ chạy... Một học sinh Chu Văn An bị thương ở mặt phải chở đến nhà thương Chợ Rẫy...”

Tin tức khác về đoàn biểu tình trước khách sạn Majestic:

“Sinh viên cướp súng tiểu liên rồi dùng judo quật một nhân viên Ủy hội, nhân viên Ba Lan trong Ủy Hội trốn biệt tăm. Đồ đạc của khách sạn bị dập phá tan hoang.

Nhớ lại ban sáng thấy Kha đứng ở bùng binh Chợ Bến Thành, Miên không rõ sau đấy Kha dẫn đầu toán đến khách sạn Galliéni, hay dẫn đầu toán đến Majestic. Nàng thuê xe đến cả hai nơi cùng chỉ thấy hai cảnh tan hoang, cửa kính bị đập vỡ, cửa chớp bị phá gẫy, các đồ đạc vứt xuống đường ngổn ngang... Anh em sinh viên thì chỉ đập phá cho sướng tay nhưng một số dân chứng nhân dịp bèn ùa vào hôi của. Khi Miên tới, anh em cảnh sát đã cố vãn hồi dược trật tự và đứng canh gác quanh khách sạn. Miên tới làng Thăng Long, Kha vẫn chưa về.

Buổi sáng hôm đó Kha ở trong toán dẫn đầu cuộc biểu tình đến khách sạn Galliéni. Bầu không khi biểu tình quả có sục sôi nhưng lần này hoàn cảnh đất nước có khác và Kha đã trưởng thành, thái độ chín chắn hơn, chàng làm chủ thời cuộc chứ không bị thời cuộc lôi cuốn đi như ngày tổng khởi nghĩa năm xưa làm chàng quên Vân. Buổi chiều hôm đó chàng đến tìm gặp Miên.

Doãn Quốc Sỹ

Tình yêu Thanh Hóa Khu rừng lau III

Đoạn thứ ba

Hãy cho anh khóc bằng mắt em

Những cuộc tình duyên Budapest

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest
Anh một trái tim em một trái tim
Chúng kéo đầy đường chiến xa đại bác
Hãy cho anh giận bằng ngực em
Như chúng bắn lửa thép vào
Môi son họng súng
Mỗi ngã tư mặt anh là hàng rào

Hãy cho anh la bằng cổ em
Trời mai bay rực rỡ
Chúng nó say giết người như gạch ngói
Như lòng chúng ta thèm khát tương lai
Hãy cho anh run bằng má em
Khi chúng đóng mọi đường biên giới
Lùa những ngón tay vào nhau
Thân thể anh chờ đợi
Hãy cho anh ngủ bằng trán em
Ðau dấu đạn
Ðêm không bao giờ không bao giờ đêm
Chúng tấn công hoài những buổi sáng
Hãy cho anh chết bằng da em
Trong dây xích chiến xa tội nghiệp
Anh sẽ sống bằng hơi thở em
Hỡi những người kế tiếp

Hãy cho anh khóc bằng mắt em
Những cuộc tình duyên Budapest

12-56

Thanh Tâm Tuyền

Đào Duy Anh

Học giả Đào Duy Anh (1904 - 1988) sinh tại Thanh Hóa, nguyên quán làng Khúc Thủy, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội). Tổ tiên họ Đào thế kỉ XV có Anh liệt tướng quân Đào Đình Lãng đã từ Khúc Thủy tìm vào Lam Sơn theo phò Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, giành lại độc lập Tổ quốc, được phong Thượng tướng khinh xa. Đời ông nội của Đào Duy Anh chuyển cư vào xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Sau khi đỗ Thành chung tại trường Quốc học Huế năm 1923, ông không làm công chức dưới chính quyền thực dân Pháp mà làm nghề dạy học ở Trường Tiểu học Đồng Hới tỉnh Quảng Bình. Ông chịu ảnh hưởng của các phong trào yêu nước đang dấy lên thời kỳ đó như phong trào đấu tranh đòi "ân xá" cho Phan Bội Châu năm 1925, đám tang Phan Chu Trinh năm 1926... Cuối năm 1925, ông tham gia sự kiện Hội Quảng Tri Đồng Hới đón tiếp Phan Bội Châu trên đường từ Hà Nội vào Huế.

Năm 1926, ông từ chức giáo học, vào Đà Nẵng và có ý định đến Sài Gòn. Trên đường vào Đà Nẵng, ông đã gặp Phan Bội Châu đang bị giam lỏng ở chùa Phổ Quang, vào Quảng Nam gặp Huỳnh Thúc Kháng đang làm Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Ông đã giúp Huỳnh Thúc Kháng sáng lập báo Tiếng dân và làm Thư ký tòa soạn. Đào Duy Anh tham gia Việt Nam Cách mạng Đảng năm 1926 và sau khi đảng này đổi tên thành Tân Việt Cách mạng Đảng (tháng 7 năm 1928), ông trở thành Tổng Bí thư.

Năm 1928, ông sáng lập Quan hải tùng thư, với sự cộng tác của những trí thức như Võ Liêm Sơn, Trần Đình Nam, Phan Đăng Lưu... xuất bản những tập sách phổ cập để người đọc làm quen với tư tưởng khoa học và duy vật lịch sử (như Lịch sử các học thuyết kinh tế, Phụ nữ vận động, Lịch sử nhân loại, Tôn giáo là gì? Xã hội là gì? Dân tộc là gì?). Trong thời gian này, ông lấy biệt hiệu là Vệ Thạch (chim tinh vệ).

Tháng 7 năm 1929, Đào Duy Anh bị chính quyền Pháp bắt giam cho đến đầu năm 1930. Sau khi ra tù ông cưới bà Trần Thị Như Mân, người đồng chí trong Đảng Tân Việt. Từ đó ông bà bỏ chính trị, chuyên tâm nghiên cứu văn hóa bắt đầu là từ điển học rồi văn hóa, văn học, sử học.

Sau Cách mạng tháng Tám, Đào Duy Anh bị chính quyền cách mạng ở Huế bắt giam rồi được Hồ Chủ tịch mời ra Hà Nội giảng dạy môn Lịch sử tại Đại học Văn khoa. Ông là Ủy viên Ban vận động Đại hội văn hóa toàn quốc năm 1946. Trong kháng chiến chống Pháp, ông hoạt động trong Chi hội văn nghệ Liên khu IV.

Đào Duy Anh lẽ ra có thể giữ một chức vụ lãnh đạo trong Chính phủ nhưng chỉ nhận nhiệm vụ khiêm tốn Ủy viên Ủy ban Kiến thiết Quốc gia theo Sắc lệnh số 78 ngày 31/12/1945, cùng với các nhân sĩ trí thức khác

Năm 1950, ông được mời ra Việt Bắc làm Trưởng ban Sử - Địa thuộc Vụ Văn học Nghệ thuật, Bộ Giáo dục.

Năm 1952, do sức khỏe kém, Đào Duy Anh về Thanh Hóa giảng dạy tại trường Dự bị Đại học. Năm 1954, ông trở về Hà Nội giảng dạy tại trường Đại học Sư phạm và Đại học Văn khoa.

Từ năm 1955 - 1958, ông là Chủ nhiệm khoa Sử Trường Đại học Sư phạm và Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau đó làm chuyên viên Viện Sử học thuộc Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam. Ông có công lao to lớn trong việc đào tạo cán bộ nghiên cứu Sử học Việt Nam. Thời gian làm chủ nhiệm bộ môn Cổ sử Việt Nam ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông đã đào tạo được những thế hệ sử gia đầu tiên của nền đại học Việt Nam độc lập.

Năm 1956, ông có bài trả lời phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do, dân chủ đăng trên bán nguyệt san Nhân văn số 5 (ngày 20 tháng 11). Viết bài Muốn phát triển học thuật đăng trên Giai Phẩm Mùa Thu 1956 tập III. Năm 1958, Đào Duy Anh bị chuyển sang làm việc tại Bộ Giáo dục. Từ đây, ông bị cách chức giáo sư, không được giảng dạy đại học và điều sang Viện Sử học làm công việc hiệu đính.

Ông nghỉ hưu năm 1965 nhưng vẫn tiếp tục nghiên cứu cho đến cuối đời.

Trong những năm từ 1960 đến 1970, ông dịch, hiệu đính chú giải nhiều bộ sách lớn về văn hoá, sử học như: Lịch triều hiến chương loại chí lục của Lê Quý Đôn, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Thơ chữ Hán của Nguyễn Du... Ngoài ra ông còn biên khảo chữ nôm - nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến, dịch Khoá hư lục của Trần Thái Tông

Ngày 1 tháng 4 năm 1988, ông qua đời tại Hà Nội, thọ 84 tuổi.

Ông là một trong số ít nhân vật Việt Nam được ghi tên vào bộ từ điển Larousse với tư cách là một nhà bách khoa toàn thư của thời hiện đại.

Đào Duy Anh được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội đợt II năm 2000.

Tên của ông được đặt cho các con đường tại quận Phú Nhuận (TP Hồ Chí Minh), quận Đống Đa (TP Hà Nội), thành phố Thanh Hóa, thành phố Hạ Long (từ đường Trần Phú tới đường Trần Thái Tông)...

Đào Duy Anh đã thực hiện trên 30 công trình về nghiên cứu và dịch thuật cổ văn được in thành khoảng hơn 60 tập sách bắt đầu từ năm 1927.

Ở lĩnh vực từ điển, với hai cuốn từ điển Hán-Việt và Pháp-Việt xuất bản trong thập niên 1930, không chỉ là các sách công cụ tra cứu rất cần thiết thời điểm bấy giờ mà trong đó, ở những trường hợp cụ thể, ông đưa ra những giải thích khoa học và tiến bộ theo quan điểm mác-xít. Với ảnh hưởng và tác dụng to lớn, các công trình này góp phần đặt cơ sở cho nền từ điển học Việt Nam và đưa Đào Duy Anh trở thành nhà từ điển học tiên phong.

Là một trong những người có công xây dựng nền khoa học xã hội - nhân văn hiện đại của Việt Nam, Đào Duy Anh có nhiều đóng góp trong các lĩnh vực nghiên cứu. Ông là một nhà từ điển học đặt cơ sở cho nền từ điển học hiện đại Việt Nam. Trên lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, văn học, tác phẩm Việt Nam văn hóa sử cương của Đào Duy Anh cùng với Văn minh An Nam (La Civilization Annamite, 1944) của Nguyễn Văn Huyên là những công trình khoa học đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn hóa học hiện đại Việt Nam một cách khoa học.

Trong lĩnh vực văn hóa nói chung, với hàng loạt công trình xuất bản trước và sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đào Duy Anh vừa có những đóng góp mang tính khai mở, vừa có cả những khảo cứu chuyên sâu. Tác phẩm “Việt Nam văn hóa sử cương” được coi là một trong hai công trình khoa học mang tính nền tảng của văn hóa học hiện đại Việt Nam (cùng với “Văn minh An Nam” của Nguyễn Văn Huyên).

Năm 1964, Đào Duy Anh hoàn thành công trình “Đất nước Việt Nam qua các đời”. Đây là một khảo cứu cực kỳ công phu, một cống hiến lớn của ông về địa lý học lịch sử. Bằng việc tham khảo nhiều nguồn tài liệu, nhất là tài liệu nước ngoài, học hỏi và kế thừa thành tựu, kinh nghiệm trong và ngoài nước, tác phẩm này được đánh giá vừa có tính tổng kết, vừa chuẩn bị và vạch hướng cho tương lai phát triển của địa lý học lịch sử Việt Nam, xứng đáng là công trình tiêu biểu đưa ông trở thành “nhà địa lý học lịch sử tiêu biểu nhất và nổi bật nhất ở thế kỷ 20”.

Trong lĩnh vực sử học, Đào Duy Anh không chỉ là thế hệ xây nền đắp móng của Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội), mà rộng hơn, là của cả nền sử học Việt Nam hiện đại. Các bộ giáo trình ông viết trong 3 năm công tác ở Khoa Lịch sử (1956-1958), thuộc thời kỳ lịch sử cổ trung đại Việt Nam, đã trực tiếp góp phần đào tạo thế hệ các nhà sử học đầu tiên của nền sử học Việt Nam mới, cũng là tài liệu tham khảo có giá trị mãi về sau này, ngay cả khi các bộ giáo trình “Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam” (3 tập) do các học trò-cộng sự xuất sắc của ông biên soạn được xuất bản.

Đảm nhiệm vị trí Chủ nhiệm bộ môn Cổ sử Việt Nam, Đào Duy Anh đã tập trung nỗ lực cao độ để chỉ trong một thời gian ngắn biên soạn, bổ sung các bộ giáo trình về lịch sử Việt Nam thời kỳ cổ trung đại. Các cộng sự trẻ tuổi bấy giờ như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn đã được sự hướng dẫn, dìu dắt của Đào Duy Anh. Các lớp sinh viên đầu tiên được GS Đào Duy Anh trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, nhiều người trong số đó sau này trở thành những nhà nghiên cứu, nhà quản lý xuất sắc. Đặc biệt, Đào Duy Anh đã có đóng góp quan trọng trong việc xây dựng cơ sở tư liệu của Khoa bằng việc mua các thư tịch Trung Quốc, sao chép các bộ sử và tài liệu Hán Nôm của Việt Nam, các tài liệu bằng chữ phương Tây (Anh, Pháp), tiến hành dịch thuật các tài liệu quan trọng với sự cộng tác của các nhà Hán học cao tuổi, thông thạo cả chữ Hán và chữ Pháp. Phòng Tư liệu của Khoa Lịch sử với hàng vạn đầu tài liệu quý hiện nay được xây dựng có phần đóng góp quan trọng của Đào Duy Anh.

Di sản Đào Duy Anh để lại khẳng định công lao to lớn của ông trong việc xây dựng nền khoa học xã hội và nhân văn nước nhà, với những đóng góp lớn trong nhiều lĩnh vực của sử học và văn hóa học mà gần như ở lĩnh vực nào ông cũng là người đóng vai trò khai phá, đặt nền móng. Nhà sử học Phan Huy Lê viết về Đào Duy Anh: “Bao trùm lên tất cả, ông là một nhà sử học lớn, một nhà văn hóa lớn với những công trình nghiên cứu mang tính khai phá đặt nền tảng cho sự hình thành nền sử học và nền văn hóa học hiện đại Việt Nam”.

Sau 30 năm Trần Đức Thảo đánh giá thẳng thắn về Nhân Văn Giai Phẩm

Năm 1989 trong bản BÁO CÁO VỀ VẤN ĐỀ NHÂN VĂN

Trần Đức Thảo viết:

Cuộc kiểm thảo báo Nhân Văn đầu năm 1958 đã tiến hành theo phương pháp “Ai thắng ai” do đấy mà thực chất vấn đề không được nêu lên.

Nguyên nhân sinh ra báo Nhân Văn trước hết là những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, đặc biệt là trong Chỉnh đốn tổ chức.

Trước tháng 3-1956 một số cán bộ đã thấy rằng có sai lầm, nhưng không ai dám nói, vì mọi người đều khiếp sợ vì bị quy kết coi như liên quan đến giai cấp địch. Phải đến khi có tin về những sai lầm của Stalin, báo cáo ở Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô và cán bộ ta nghiên cứu những tài liệu của Đại hội, bắt đầu từ tháng 3-1956 mới có những tiếng nói đầu tiên đặt vấn đề sai lầm trong Cải cách ruộng đất vừa qua, và nhất là trong chỉnh đốn tổ chức đang tiến hành. Do đấy mà phát hiện cả một loạt phương pháp quy kết, suy diễn ngược đời, đàn áp, khủng bố. Nhờ phát hiện như thế nên Chỉnh đốn tổ chức được chấm dứt. Tôi thấy rằng nếu không có Đại hội XX của ĐCSLX thì tất nhiên Chỉnh đốn tổ chức tiếp tục tiến hành theo đà năm 1955, đầu 1956, phá vỡ cơ sở Đảng từ xã này đến xã khác, và đã có dự kiến, kế hoạch lên đến huyện, tỉnh và cao hơn nữa. Trên thực tế thì đoàn cố vấn Trung Quốc đã hướng dẫn cán bộ Chỉnh đốn tổ chức của ta chuẩn bị hồ sơ các đồng chí trung ương, trong ấy quy kết một số là địa chủ hoặc lên quan địa chủ.

…Với mức độ nhận thức hạn chế 1956, tôi cũng đã thấy vai trò của Đại hội XX kịp thời hãm lại phong trào “bàn tay phải chặt bàn tay trái” trong Chỉnh đốn tổ chức của ta. Vì thế nên tôi đã hoan nghênh báo Nhân Văn khi nó phản ánh lời kêu gọi của Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô.

Ngày ấy tôi đã viết một bài kêu gọi phát triển tự do dân chủ, cho rằng nếu có xảy ra lệch lạc, sai lầm gì trong lời ăn tiếng nói, thì điều ấy cũng không thấm vào đâu so với con đường “tay phải chặt tay trái” trong Chỉnh đốn tổ chức do ảnh hưởng của đoàn cố vấn Mao ít.

Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm trong ngành giáo dục miền Bắc Việt Nam 1954-1958

Đây là chuyên đề không kém phần quan trọng so với chuyên đề Nhân Văn Giai Phẩm trong văn nghệ, nhưng do thời gian chúng tôi mới chỉ làm được một phần và đề cập đến những người liên quan đến văn học. Còn toàn bộ phần phong trào NVGP trong các trường đại học và ngành giáo dục trong khoảng 1954-1958 chưa được khảo cứu, vả lại tư liệu, tài liệu rất hiếm và bản thân các nhân vật chủ chốt cũng rất ít nói về sự kiện của họ.

Bối cảnh ngành giáo dục 1954-1958 và sự hình thành hai khoa văn và khoa Sử của hai trường ĐHSPHN và ĐHTHHN

Ngày 10 tháng 10 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 45 thành lập Ban Đại học Văn khoa, bổ sung vào các ban đã có từ trước cách mạng như: Y khoa, Khoa học, Luật học, Cao đẳng Sư phạm và Mỹ thuật. Sau đó, Nghị định ngày 7 tháng 11 năm 1945 của Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử GS Đặng Thai Mai, Tổng thanh tra Trung học vụ, kiêm chức Giám đốc Ban Văn khoa của Trường Đại học Việt Nam. Ban này gồm có các giáo sư Cao Xuân Huy, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Đức Nguyên (tức Hoài Thanh), Nguyễn Mạnh Tường.

Cuối năm 1951, thành lập hai cơ sở đào tạo đại học, một ở Nam Ninh (Trung Quốc), gồm Trường Khoa học Cơ bản và Trường Sư phạm Cao cấp Tự nhiên và một ở trong nước gồm hai phân hiệu Dự bị Đại học tại hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa. Sau đó, phân hiệu Nghệ An được chuyển ra, nhập với phân hiệu Thanh Hoá làm một. Trường Dự bị Đại học Thanh Hoá bấy giờ chỉ mới phân làm hai chuyên ngành lớn: Khoa học tự nhiên và Văn khoa.

Trong Văn khoa, Văn và Sử được học chung với nhau. Thời gian học của Dự bị Đại học là một năm rưỡi. Sau khi tốt nghiệp, hầu hết được học tiếp lớp Sư phạm cấp tốc trong một học kỳ

Tháng 7 năm 1954, Hiệp định Genève được ký kết, hoà bình lập lại ở miền Bắc. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Thủ đô Hà Nội được giải phóng, Trường Dự bị Đại học ở Thanh Hoá (với khoá II) và Trường Sư phạm Cao cấp ở Nam Ninh (Trung Quốc) cùng được lệnh chuyển về Hà Nội tiếp quản Trường Đại học Hà Nội cũ tại đường Lê Thánh Tông, trước vườn hoa Tao Đàn, sắp xếp tổ chức thành hai trường Đại học Sư phạm: Khoa học và Văn học.

Đại học Sư phạm Văn học do Giáo sư Đặng Thai Mai làm Giám đốc, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường làm Phó Giám đốc. Đội ngũ thầy giáo vẫn là đội ngũ của Dự bị Đại học ở Thanh Hoá trước đó nhưng có thêm một giáo sư Triết học lừng danh ở phương Tây là Trần Đức Thảo và một số giảng viên khác là Hoàng Xuân Nhị, Hoàng Thiếu Sơn, Phan Ngọc, Hoàng Tuệ, Trần Lê Nhân. Hai vị Thứ trưởng Bộ Giáo dục (cũng là hai uỷ viên Trung ương Đảng) bấy giờ là Nguyễn Khánh Toàn và Hà Huy Giáp đã tham gia giảng dạy ngay năm học đầu tiên của khoá đào tạo.

Một khóa gồm những sinh viên đã học xong năm thứ nhất của Dự bị Đại học khóa II ở Thanh Hoá, nay về Hà Nội tiếp tục năm thứ hai. Khoá đào tạo này còn có thêm một số sinh viên vốn là giáo viên được cử đi học, lúc đầu vẫn học năm thứ nhất, nhưng hết học kỳ một thì được bỏ năm thứ nhất chuyển lên học chung với năm thứ hai và tiếp theo là năm thứ ba do yêu cầu chuẩn bị cho kế hoạch thống nhất đất nước hai năm sau theo Hiệp định Genève.

Một khoá khác gồm những sinh viên mới được tuyển vào trường, vốn là học sinh đã tốt nghiệp cấp ba từ khu IV, khu III, khu Việt Bắc, khu V (tập kết), hoặc vừa tốt nghiệp tú tài ở Hà Nội tạm chiếm. Ngoài ra, còn có một ít học sinh tốt nghiệp tú tài ở Sài Gòn tạm chiếm vượt tuyến ra Hà Nội học. Ngay từ năm học 1954-1955, Trường Đại học Sư phạm Văn khoa đã tách Văn ra khỏi Sử - Địa. Trong năm học đầu 1954- 1955 bên cạnh Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, vẫn tồn tại lớp Dự bị Đại học Văn học. Nhưng sau một năm dự bị, lớp học này cũng nhập vào Đại học Sư phạm Văn khoa để cùng học tiếp năm thứ hai, năm thứ ba và cùng ra trường vào cuối năm học 1956-1957.

Năm học 1955-1956, Đại học Sư phạm Văn khoa ngừng tuyển sinh một năm. Trong điều kiện hoà bình, Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, cũng như Trường Đại học Sư phạm Khoa học, đã có giảng đường ở Lê Thánh Tông rất khang trang. Ký túc xá sinh viên chính là khu nhà D một trong bốn khu nhà ký túc của sinh viên có từ thời Đông Dương học xá trước 1945, khu nhà này sau thuộc về Đại học Bách khoa Hà Nội.

Trong số sinh viên tốt nghiệp năm học 1955-1956, một số đã được giữ lại làm cán bộ giảng dạy gồm: Cao Huy Đỉnh, Lê Hoài Nam, Nguyễn Duy Bình, Cao Xuân Hạo, Phạm Hoàng Gia, Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ (bút danh Thúc Hà, được giải Nhất thơ của Liên hoan Thanh niên thế giới tại Berlin, 1955 với bài Chờ con má nhé) và Bùi Quang Đoài (nhà văn Thái Vũ)

Cuối năm 1956 thành lập các Trường Đại học Tổng hợp, Đại học Bách khoa, Đại học Nông lâm, Đại học Sư phạm.

Đại học sư phạm Hà Nội có Ban giám hiệu mới gồm Hiệu trưởng là Giáo sư Sử học kiêm thi sĩ Phạm Huy Thông, Hiệu phó là Giáo sư Nguyễn Thúc Hào.

Trong hai niên khoá 1956- 1957, 1957-1958 quan hệ giữa hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội là quan hệ vừa độc lập, vừa đan xen. Bởi đã có trường, hai Ban Giám hiệu, hai đối tượng sinh viên, hai hệ thống phòng ban, nhưng trường sở vẫn là một khoa và đội ngũ giáo viên vẫn là một. Giáo viên vẫn dạy cả hai đối tượng sinh viên thuộc hai trường - Chủ nhiệm Khoa Văn lúc này là Giáo sư Đặng Thai Mai.

Trong năm học 1956- 1957 về Khoa làm cán bộ giảng dạy có các vị: Vũ Đình Liên, Trương Chính, Đỗ Đức Hiểu, Đinh Gia Khánh và ba cán bộ phiên dịch Trung văn được đào tạo từ Trung Quốc về là Đặng Đức Siêu, Nguyễn Ngọc San, Nguyễn Thạch Giang.

Tháng 8-1957, Khoa lại có thêm một số cán bộ giảng dạy vốn là sinh viên vừa tốt nghiệp được tuyển chọn: Nguyễn Đình Chú, Trần Văn Hối, Nguyễn Hải Hà, Trần Văn Bính, Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Nguyễn Phan Cảnh, Nguyễn Khắc Phi, Lê Bá Hán và Bùi Văn Nguyên được điều từ trường cấp 3 lên đại học. Bấy giờ, đã có sự phân định chức danh trong đội ngũ giáo viên đại học. Trên hết là giáo sư gồm Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Phạm Huy Thông, Trương Tửu, Hoàng Xuân Nhị. Dưới giáo sư là giảng viên - dưới giảng viên là phụ giảng - dưới phụ giảng là trợ lí, tập sự trợ lí.

Bước vào năm học 1958-1959 hai trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Đại học Tổng hợp Hà Nội bắt đầu tách biệt. Trường ĐHSP Hà Nội nhường hẳn cơ sở cũ ở đường Lê Thánh Tông cho trường ĐHTH Hà Nội, và chuyển ra xây dựng trường mới trên cơ sở của Trường Trung cấp Sư phạm Trung ương đang chuẩn bị giải thể tại cây số 8 đường Hà Nội - Sơn Tây.

Về mặt tổ chức, trong một hai năm đầu khi mới tách ra khỏi khoa chung của hai trường ĐHSP Hà Nội và ĐH Tổng hợp Hà Nội, Khoa Ngữ văn chỉ mới là phân khoa, cùng với phân khoa Lịch sử, nằm chung trong một khoa Văn Sử do thầy Nguyễn Lương Ngọc làm Trưởng Khoa (kiêm phân khoa trưởng của Văn).

Đại học tổng hợp Hà Nội

Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội ra đời tháng 6-1956 của Chính phủ, do GS. Ngụy Như Kontum làm giám đốc. Trường lúc đầu chỉ có hai ban Khoa học và Văn khoa. Ban Văn khoa gồm hai bộ phận tương đối độc lập là Văn và Sử do GS Trần Đức Thảo phụ trách chung, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau đó được chia thành hai khoa là Văn học và Lịch sử. Lúc mới thành lập, trụ sở của trường là Đại học Việt Nam, 19 Lê Thánh Tông. Khoa Lịch sử làm việc tại số 7 và số 9 phố Hai Bà Trưng.

Đội ngũ cán bộ đầu tiên của khoa Sử chỉ có khoảng hai chục người, gồm các nhà khoa học nổi tiếng như GS. Trần Đức Thảo, GS. Đào Duy Anh, GS. Trần Văn Giàu, các thầy giáo Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Vương Hoàng Tuyên…và một số cán bộ biên dịch tư liệu vốn là những nhà Hán học uyên thâm như các cụ, các bác Trần Lê Nhân, Đoàn Thăng, Ngô Lập Chi, Kiều Hữu Hỷ, Trần Lê Hữu… Năm 1957 các thầy Kiều Xuân Bá, Đặng Huy Vận, Hà Văn Tấn, Ngô Vi Luật, Hoàng Văn Lân, Lê Khắc Thành... được bổ sung về làm cán bộ giảng dạy.Trong Khoa Lịch sử đã dần dần hình thành các Bộ môn: Cổ sử Việt Nam, Cậnđại Việt Nam, Hiện đại Việt Nam, Lịch sử thế giới do các GS. Trần Đức Thảo, Trần Văn Giàu, Đào Duy Anh trực tiếp hoặc kiêm nhiệm phụ trách.

Lớp sinh viên khoá I có 80 người được tuyển từ nhiều nguồn, nhiều địa phương, trong đó có một số cán bộ, học sinh miền Nam tập kết, cán bộ đi học, học sinh bổ túc công nông và cả lưu học sinh Trung Quốc.

Năm 1958, GS. Trần Đức Thảo chuyển sang công tác ở Nhà xuất bản Sự thật. Khoa Lịch sử do GS. Trần Văn Giàu làm Chủ nhiệm. Bộ môn Cổ sử Việt Nam do thầy Phan Huy Lê làm chủ nhiệm. Bộ môn Cận đại Việt Nam do thầy Đinh Xuân Lâm làm chủ nhiệm. Các Bộ môn Hiện đại Việt Nam và Lịch sử Thế giới đều do GS. Trần Văn Giàu phụ trách. Sinh viên các khoá 2,3,4 tiếp tục tựu trường. Năm học 1958-1959, cùng với việc học tập, thầy trò khoa Lịch sử đã đi thực tế lao động sản xuất ở Thanh Oai (Hà Tây).

NVGP diễn ra trong ngành Giáo dục như thế nào?

Hưởng ứng Nhân Văn Giai Phẩm diễn ra trong toàn ngành giáo dục rất nhanh. Rất nhiều giảng viên các trường trung cấp, đại học, sinh viên, giáo viên và học sinh lớn tuổi các trường phổ thông trên miền Bắc, có đọc, mua báo và góp quỹ ủng hộ các báo Nhân Văn, Giai Phẩm, Đất Mới, Trăm Hoa…

Lực lượng hưởng ứng mạnh mẽ là sinh viên ở Trường Sư phạm Trung cấp trung ương và hai trường ĐHSP và ĐHTH nhưng hoạt động chủ yếu là sinh viên Khóa ra trường 1956 của Đại học Văn khoa và Khóa ra trường 1957 tức là Khóa I của Văn khoa ĐHSP. Chủ chốt là các giảng viên trí thức lớn có tên tuổi là các ông Trương Tửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy cùng những trợ giảng như Phan Ngọc, Cao Xuân Hạo, số trợ lý mới ra trường: Văn Tâm, Thúc Hà, Phan Kế Hoành, Bùi Quang Đoài… Ngoài ra còn số sinh viên học giỏi: Ninh Viết Giao, Hà Nhật, Tuân Nguyễn, Văn Tôn, Dương Viết Á, Nguyễn Đức Tiếu, Lê Tư Gia…Các ông đều có bài bài trên Giai Phẩm và báo Nhân Văn, Đất Mới, Tự do diễn đàn…Cùng với việc tuyên truyền cho sinh viên các ông còn tham gia thành lập trung tâm ngôn luận tại hai trường là các tập san Đất Mới và Tự do diễn đàn.

Giáo sư Nguyễn Huệ Chi cựu sinh viên khóa I Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội trao đổi với tác giả như sau:

Khóa I Văn khoa ĐHTH thì không tham gia. Không. Không có cuộc đấu tố nào. Chỉ có trong năm thứ nhất là một bài viết dài được in ronéo thành một tập chuyên luận của môt sinh viên trong lớp tên là Hồ Nguyên Cát truyền đi cho cả lớp đọc, phản đối bài giảng lý luận văn học của anh Phan Ngọc, đầu đề anh nhớ là "Phan Ngọc hay là những luận điệu phản đối chuyên chính vô sản của Hồ Phong" (anh nhớ không chính xác lắm đâu). Cả lớp đều sửng sốt và cũng không ngờ sau đó anh Phan Ngọc thôi không dạy môn lý luận văn học và cả những giờ ngôn ngữ học nữa Nhưng đến năm thứ hai, cụ Hoàng Xuân Nhị lên dạy thay (lúc bấy giờ chưa được phong GS mà có lẽ vẫn chỉ là phụ giảng thôi nhưng tác phong của cụ rất già), dạy không hay, đúng hơn là rất dở, chỉ có vài ý nghèo nàn lặp đi lặp lại (lại hết lời ca ngợi Đ.), vì thế toàn lớp làm reo, họp lại góp ý và lên tiếng đề nghị cụ thôi không đảm nhiệm môn này. Tiếng nói của sinh viên thuở bấy giờ rất có trọng lượng, thế là Ban Giáo vụ phải cử Hoàng Ngọc Hiến (là trợ lý giảng đạy mới về trường) lên giảng thay. Anh Hiến chỉ trình bày nguyên lý lý luận văn học trong cuốn sách của Abramovits thôi chứ không có giáo trình riêng. Nhưng anh ấy trình bày rất xuất sắc (cũng như Cao Xuân Hạo, chỉ dịch miệng những giờ giảng của bà GS Ngôn ngữ học người Nga Polina, thế mà anh ấy dịch tuyệt hay khiến anh em mê tít); cách trình bày của anh Hiến thuyết phục được anh em, cả lớp bèn gửi kiến nghị lên trường yêu cầu cho anh Hiến thay hẳn cụ Nhị. Tiếc rằng chỉ ít lâu sau (hình như hết năm thứ hai tức là giữa năm 1958) thì anh Hiến lại đi sang LX làm nghiên cứu sinh. Môn lý luận văn học từ đấy cũng coi như kết thúc, trong năm thứ ba chỉ đọc bổ túc thêm một ít chương ở cuốn sách do anh Hạo dịch của Gurievits, đến 1959 mới công bố.

Cụ thể từng ông Toại ơi, Toại nói đúng, hai khóa đầu 1954-1956 (từ Thanh Hóa về học tiếp ở HN) và 1955-1957 (khóa này chỉ có hai năm) thì còn có những anh chị tham gia, có lẽ vì họ nằm đúng vào lúc NVGP khởi phát và cao trào, còn chúng mình là khóa I Đại học Tổng hợp 1956-1959 không còn một ai viết theo khuynh hướng của NVGP nữa, vì ngay lúc mới vào rục rịch có biểu tình thì đã nghe đồn Trường Bổ túc Công nông có cuộc họp khẩn trang bị vũ khí cho học sinh toàn trường, nếu Tổng hợp có biểu tình thì kéo tới đàn áp. Thế là không ai ho he gì nữa. Nhưng năm thứ nhất ở Khoa Văn và Khoa Toán cũng có nhiều chuyện lắm, đến nỗi Bí thư Đảng ủy tên là Linh xuống họp sinh viên lên lớp xoành xoạch, và sinh viên lên cãi lại ông ta cũng rất hăng, ngay sinh viên Khoa Toán cũng kéo sang tham gia và phát biểu ở hội trường. Phải đến năm thứ hai trở đi mới không còn sóng gió gì nữa (đó là nhìn ở bề ngoài).

Báo Đất mới

Ngày 10- 11-1956 Tập san Đất mới tập I - Chuyện sinh viên được NXB Minh Đức xuất bản với bài

Phê bình lãnh đạo sinh viên của Q. Ngọc và T. Hồng.

Dương Viết Á: Những bóng mây đen đã qua. Chúng ta hãy giữ lấy ánh sáng mới.

Nguyễn Bao: Hai bài thơ Chỉ một mà thôi. Đôi ta.

Bùi Quang Đoài: Lịch sử một câu chuyện tình.

Thúc Hà: Vai mới tuồng xưa.

Văn Tâm: Những người ấy muốn gì.

Lê Tự Gia: Một cơn mê.

Nguyễn Đức Tiếu: Nhắn ông Lê Văn Hải: Hiểu rồi hãy phê.

Ông Bùi Quang Đoài sau này là nhà văn Thái Vũ sinh viên ĐHVK tốt nghiệp 1956 kể lại:

Chuyện viết bài “kê” ông Hoàng Xuân Nhị trên tờ Nhân văn đúng là chuyện “không mời mà đến”, nhưng khoảng một tuần sau, hoạ sĩ Trần Duy đến đưa thư cảm ơn và “xin miễn nhuận bút vì tờ báo đang nghèo”. Song cùng lúc Trần Duy lại đưa ra một tập bản thảo viết tay, giấy đủ loại và đủ cỡ, rồi nói tiếp: “Sau tập Giai phẩm mùa Thu này là tập Giai phẩm Sinh viên”.

Tôi thích thú vì đang định tập viết về chuyện sinh viên sau khi đọc cuốn Les Etudiants của Liên Xô, vì lúc đó có nhiều chuyện vui giữa sinh viên từ kháng chiến về Hà Nội và sinh viên Hà Nội cũ. Trần Duy cho biết sau tập Giai phẩm Sinh viên sẽ là tập Giai phẩm Công nhân, Giai phẩm Nông dân, gãi đúng mơ ước của tôi và các bạn ở đại học lúc đó.

Hơn nữa người đứng đầu trong tập Giai phẩm Sinh viên này lại là Văn Tâm, bạn tốt nghiệp đại học cùng khoá, cũng là chỗ quen biết cũ ở thị xã Thanh Hoá, tôi quen cô Mai em gái Văn Tâm. Hơn nữa Trần Duy mở tập bản thảo có chữ ký của Văn Tâm là đã tuyển chọn kỹ, nay do tôi quyết định cuối cùng. Tâm lý tuổi trẻ là háo danh, “ngựa non háu đá”, được tâng bốc tôi nhận ngay. Tôi rủ Thúc Hà tuyển thơ, mới biết anh chị em sinh viên ai cũng mê văn chương.

Khi biết tôi là người quyết định cuối cùng tập Giai phẩm Sinh viên, các tác giả có bài nhiều lần đến gặp tôi: ai cũng cho bài của mình là hay. Vì vậy chọn bài rất khó. Tôi thấy Cao Huy Đỉnh có bài; vì là bạn khá thân, Đỉnh là đảng viên, tôi bảo Đỉnh nên rút bài về. Đa số bài là chống tiêu cực, chống bè phái theo kiểu như báo Nhân văn.

Duy bài đầu chống tiêu cực ở đại học, nhất là ở mấy năm dự bị đại học thì do Văn Tâm viết, liên quan đến khoá II Dự bị Đại học và khoá đầu đại học, tốt nghiệp 1956. Tôi phải viết lại, bổ sung việc của khoá Dự bị Đại học đầu tiên, chẳng hạn anh em rất bất mãn về việc xử lý của thầy T.V.G trong Đảng uỷ với nhóm Thành, Khái, Nhâm, sau này là Ng. Duy Bình (như cắt học bổng của anh em Liên khu 4 và Bình Trị Thiên để bồi dưỡng cho Hiệu đoàn trường là cánh Liên khu 3 giàu có). Cho nên sau này phản ứng chính là từ tổ chức, lãnh đạo đại học chứ không phải từ các thầy dạy, các giáo sư.

Riêng về truyện ngắn ít đạt, tôi loại khá nhiều, tuy nội dung tốt về chống tiêu cực tham ô, nói chung đó là tiêu điểm chính của nội dung tập Giai phẩm Sinh viên. Do vậy chỉ trong thời gian rất ngắn tôi viết “Một câu chuyện tình” trong sinh viên mà các nhân vật đều có thật trong khoá học của chúng tôi (cả bên Văn và Sử).

Nhưng gay cấn nhất là tên Đất mới mà Văn Tâm và Trần Duy bảo lưu cho kỳ được, khi tôi phản ứng rằng cái tên đó là một địa điểm xưa ở Huế, ngay sau sân vận động Huế (nơi đó hiện giờ có “Quán cơm Âm Phủ”), trên làng Vân Dương, là nơi tụ tập đĩ điếm và dân nghiện hút. Khu vực này dân Huế đều biết. Vì chủ sòng Trần Duy và Văn Tâm trong nhóm nhà xuất bản Minh Đức quen thân với anh Trần Thiếu Bảo, họ bỏ tiền in thì họ… có quyền giữ tên Đất mới.

Bài Phê bình lãnh đạo sinh viên phê phán việc lạm dụng quản lý sinh viên của đảng viên, chi bộ Đảng còn phê phán việc đánh trượt, không vớt nhà văn Phùng Quán. Phùng Quán chỉ thiếu 2 điểm trong khi vớt những người ít điểm hơn ông.

Đất Mới tập II đang được chuẩn bị thì báo Nhân Văn số 6 bị đóng cửa, do đó Đất Mới tập II bị chết yểu.

Tự do diễn đàn

Cuối tháng 12- 1956 Tập san Tự do diễn đàn do NXB Minh Đức phát hành. TDDĐ có các bài Qua sai lầm của Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo của Nguyễn Mạnh Tường, Tại sao quần chúng nhân dân tha thiết với cuộc đấu tranh văn nghệ? của Nguyễn Hữu Đang, Nhiệm vụ của văn học không phải là giải thích chính sách của Phan Ngọc, Chú bé làm văn của Trần Dần, Vài ý nghĩ sau khi đọc bài thơ Động Long Mạch của Hoàng Cầm, Sinh hoạt văn hóa của Trương Tửu- Trần Đức Thảo.

Rất tiếc Tự do diễn đàn bị phát hiện sớm, bị tịch thu ngay trong nhà in, không được phát hành ra ngoài.


Nguyễn Mạnh Tường

Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16 tháng 9 năm 1909 tại phố Hàng Đào, Hà Nội, nhưng quê quán ông lại là làng Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà nội. Cha ông là Nguyễn Căn Cát, công chức.

Ông học tiếng Pháp từ nhỏ, trước học trường Paul Bert, sau học Trường Albert Sarraut, Hà Nội.

Năm 1926, ông đỗ Tú tài triết học (16 tuổi), hạng ưu, được học bổng sang Pháp học Luật và Văn chương tại Trường đại học Tổng hợp Montpellier (1927).

Năm 1929, ông đỗ Cử nhân văn chương, và năm sau đỗ Cử nhân Luật (1930). Tháng 5 năm 1932, ông bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật, với luận án chính: L'Individu dans la vieille cité annamite (Cá nhân trong xã hội Việt Nam cổ) và luận án bổ túc: Essai de synthèse sur le Code de Lê (Tổng luận về luật đời ). Tháng 6 năm 1932, ông bảo vệ luận án tiến sĩ văn chương với luận án chính: Essai sur la valeur dramatique du théâtre d'Alfred de Musset (Giá trị bi kịch trong tuồng của A. Musset) và luận án bổ túc: L'Annam dans la littérature française, Jules Boissières (Việt Nam trong các tác phẩm của Jules Boissières.

Tháng 9 năm 1932, ông về nước nhưng không nhận một chức vụ gì của chính quyền thuộc địa, vì vậy nên họ tìm cách gây khó khăn cho ông.

Ở nhà được khoảng ba tháng, ông trở lại Pháp.

Năm 1936, về nước, Nguyễn Mạnh Tường dạy văn chương Pháp ở trường Bảo hộ (Lycée du Prétectorat, tức trường Bưởi, sau này là Chu Văn An) và trường Cao đẳng Công Chánh ((École Supérieure des Travaux Publics). Theo lời ông kể thì đây "là quãng một thời gian hạnh phúc của đời tôi". Ngoài ra, theo Thụy Khuê, trong khoảng thời gian này, ông học thêm chữ nho và văn chương cổ điển Việt, tham gia phác họa cuốn Việt Nam Văn Phạm (với nhóm Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim), hợp tác làm Việt Nam tự điển (với nhóm Khai Trí Tiến Đức), và còn làm phụ tá cho Thị trưởng Hà Nội.

Sau Cách mạng tháng Tám (1945), Trường Đại học Văn Khoa được thành lập, ông được cử dạy Khoa Văn chương Phương Tây.

Tháng 4 năm 1946, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh cử vào phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị trù bị Đà Lạt.

Năm 1946, ông đang biện hộ cho thân chủ ở Hải Phòng thì toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Sau đó, ông lên Việt khu Việt Bắc, rồi vào Liên khu III và IV, được cử làm Luật sư tại các Tòa án quân sự, Tòa án đại hình và là thành viên Ban Giám đốc Trường dự bị đại học.

Năm 1951 ông tham gia Đảng Xã hội Việt Nam.

Năm 1952, ông được cử đi dự Hội nghị bảo vệ Hòa Bình châu Á – Thái Bình DươngBắc Kinh (Trung Quốc). Ba tháng sau đi dự Đại hội Hòa Bình Thế giới ở Vienne (Áo).

Ngày 7 tháng 5 năm 1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, ông về lại Hà Nội, tiếp quản trường Đại học Luật và Đại học Sư phạm, rồi được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Cũng trong khoảng thời gian này, ông được phong Giáo sư, và tham gia giảng dạy tại các Trường đại học Văn khoa, Sư phạm, Tổng hợp Hà Nội

Vào những năm 1953-1956, miền Bắc Việt Nam tiến hành Cải cách ruộng đất. Theo ông, kể từ "1957 là thời kỳ đen tối của cuộc đời tôi". Luật sư Nguyễn Mạnh Tường kể:

Ngày 22/5/1956, Hội nghị Luật gia Dân chủ họp ở Bruxelles trong lúc phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đang manh nha, ông lại được "vời ra" lần nữa, và ông cũng lại dùng tài hùng biện để biện hộ cho sự thống nhất Việt Nam, theo quan điểm của miền Bắc. Nhân chuyến đi này ông được các luật gia Tiệp Khắc và Nga và mời sang Praha và Moscou.

Khi trở về Hà Nội, ông đã nhận được rất nhiều vinh dự, nhưng ngày 30/10/1956, ông xuất hiện tại Mặt trận tổ quốc với bài diễn thuyết lịch sử: Qua những sai lầm trong cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo, gây chấn động dư luận. Ông cho biết:

"Ở Hội nghị của Mặt trận Tổ Quốc, họp ở Hà Nội ngày 30 tháng 10 năm 1956, sau khi ông Trường Chinh, thay mặt Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam), tự phê bình về các sai lầm đã phạm trong Cải cách ruộng đất, tôi đọc bản tham luận Qua những sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo. Từ góc độ một người hoạt động trong lĩnh vực luật pháp, tôi nói đến một chế độ pháp trị chân chính, một chế độ dân chủ thực sự.

"Đi Hội nghị về, Nguyễn Hữu Đang đến phỏng vấn, rồi viết bài đăng lên báo Nhân văn (của Phong trào Nhân Văn - Giai Phẩm). Tôi như thành một người "phạm pháp quả tang", bị sa thải khỏi Đại học và không được hành nghề Luật sư nữa.

Ông còn một số bài viết về Vũ Trọng Phụng, kể chuyện pháp luật từ các sự tích cổ điển châu Âu cho các báo Nhân Văn, Giai Phẩm, Tự do diễn đàn, sách Vũ Trọng Phụng của chúng ta…

Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông bị cách chức các chức vụ, không được giảng dạy, chuyển sang làm chuyên viên nghiên cứu văn học nước ngoài tại Viện nghiên cứu phương pháp và chương trình giáo dục thuộc Bộ Giáo dục, và là cộng tác viên của nhà xuất bản Giáo dục.

Năm 1989, ông được phép sang Pháp, và lưu lại ở đó 4 tháng. Tại đây, ông cho xuất bản cuốn hồi ký bằng tiếng Pháp Un Excommunié (Một người bị rút phép thông công) viết về những điều trải nghiệm trong những năm ông đã sống và viết kể từ sau 1945 .

Ngày 13 tháng 6 năm 1997, Luật sư Nguyễn Mạnh Tường qua đời vì tuổi già tại nhà số 34 phố Tăng Bạt Hổ, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội, thọ 88 tuổi


Trương Tửu,

Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1913, trong một gia đình trung lưu ở ngoại ô Gia Lâm (Hà Nội). Mẹ mất sớm, cha là một nhà nho thủ cựu, nghiêm khắc, nhưng ông để Trương Tửu muốn làm gì thì làm.

Thời trai trẻ, ông học hết năm thứ nhất bậc trung học, rồi học trường Kỹ nghệ thực hành ở Hải Phòng (nghề thợ tiện, cùng trường lớp với Lê Văn Siêu). Nhưng chỉ được một năm rưỡi thì bị đuổi học (Năm 1927), vì tham gia bãi khoá ở Hà Nội để đòi thực dân Pháp thả tác giả bài thơ Chiêu hồn nước Phạm Tất Đắc. Bị buộc rời trường, ông tự học chương trình Tú tài Pháp Việt.

Từ năm 1941 đến 1946, Trương Tửu làm Giám đốc Văn chương (tương tự Tổng biên tập) Nhà xuất bản Hàn Thuyên. Thời kháng chiến chống Pháp, ông là ủy viên Hội Văn hóa Việt Nam, chi hội phó Chi hội Văn hóa Thanh Hóa, tham gia bí thư đoàn liên đoàn Văn nghệ kháng chiến liên khu IV, dạy trường Thiếu sinh quân, trường Dự bị đại học…

Sau hiệp định Genève 1954, ông hồi cư về Hà Nội, dạy Trường đại học Sư phạm, Đại học Văn khoa Hà Nội. Năm 1957, ông được phong chức danh Giáo sư, cùng đợt với Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường

Hội nghị lần thứ 9 Ban Chấp hành Trung ương họp từ ngày 19 đến 24-4-1956 về việc quán triệt nguyên tắc lãnh đạo tập thể, đề cao vai trò của Đảng đã đề cập rất nghiêm túc việc chống sùng bái cá nhân trong đảng, đã nói rõ sự tôn kính lãnh tụ đã đi vào sự lệch lạc của sùng bái cá nhân, trong đó có trách nhiệm của Bộ Chính trị và cá nhân Hồ Chủ tịch, thừa nhận sự lãnh đạo của Trung ương có nhiều sai lầm nghiêm trọng về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Hội nghị lần thứ 10 họp từ ngày 25-8 đến 5-10-1956 về mở rộng dân chủ, đảm bảo quyền tự do dân chủ và tăng cường chế độ pháp trị dân chủ
Còn cá nhân Trương Tửu, ông đã nhìn nhận các vấn đề ở trên như thế nào? Ông trở thành thủ lĩnh lý luận văn học với hai bài chốt rất trọng lượng:


Về tình trạng sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ, ông viết: “Bệnh sùng bái cá nhân là một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ... Tôi không nói đó là bệnh của văn nghệ sĩ, vì rằng hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo, là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó như nước với lửa, có cái này thì không có cái kia được”...
Trương Tửu nêu lên tấm gương không chịu sùng bái cá nhân của Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc đối với Trường Chinh. Ông quy trách nhiệm cho số lãnh đạo văn nghệ: “Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta muốn yểm tất cả tâm hồn cứng rắn và tự do cho đến trở thành những hòn đất thó tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn. Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường, phạm chính sách phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng, địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v... Còn gì nữa?”…
Theo ông, chính lãnh đạo đã tạo ra một tình trạng u ám trong văn nghệ: “Một số văn nghệ sĩ non gan... biến thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư trĩu nặng hờn oán và uất ức. Một số khác nữa cất kín cá tính và nghệ thuật xuống đáy ba lô, yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu - đánh giặc đã! Còn một số không khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị trù, bị hành hạ, bị gạt sang một bên”...
Trương Tửu đề nghị:
“Đã đến lúc phải sa thải những nhà lãnh đạo thiếu tư cách mà quần chúng tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
Đã đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói”.
Trương Tửu yêu cầu phải tạo ra môi trường dân chủ cho văn nghệ sĩ:
“Muốn sáng tạo ra một thế giới độc đáo, văn nghệ sĩ phải có một cái nhìn độc đáo, một nhận thức độc đáo về thực tại, một trí tưởng tượng độc đáo, một lối nói độc đáo. Phải duy trì bảo vệ tính độc đáo ấy không để một sức mạnh bên ngoài nào xâm phậm đến hay làm cho mất đi. Phải tự do nhìn sự thực, tự do xúc cảm, tự do suy nghĩ, tự do tưởng tượng, tự do vận dụng ngôn ngữ nghệ thuật - để có thể phản ánh hiện thực một cách trung thành. Tự do ở đây có nghĩa là: chống lại mọi áp bức tư tưởng, mọi mệnh lệnh, mọi công thức, mọi quyền uy bắt mình nói điều mình không muốn nói, nghĩ điều mình không muốn nghĩ, nhận là đúng điều mình cho là sai, không yêu những cái mà mình ghét, không ca tụng những cái mà mình phản đối. Không có tự do ấy, sự sáng tác của văn nghệ sĩ sẽ giả tạo”...
Trong hai tiểu luận Văn nghệ và chính trị, Tự do tư tưởng của văn nghệ sĩ và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Bôn-sê-vích, Trương Tửu phân tích những nguyên lý về quan hệ giữa văn nghệ với chính trị của chủ nghĩa Mác Lê nin, muốn rằng những người Cộng sản phải hiểu và vận dụng cho đúng các nguyên lý ấy trong lãnh đạo văn nghệ. Trong Văn nghệ và chính trị, ông khẳng định rằng:
“Những văn nghệ sĩ của Đảng tất nhiên phải tuân theo kỷ luật nội bộ của Đảng, phải chịu sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, phải thực hành những nhiệm vụ và công tác Đảng giao phó cho”…
Nhưng mặt khác, ông đòi hỏi phải thực hiện triệt để chủ trương của Lê nin “tuyệt đối bảo đảm tự do thật rộng rãi cho sáng kiến cá nhân, cho sở hướng cá nhân, bảo đảm tự do thật rộng rãi cho tư tưởng và sức tưởng tượng phóng khoáng, cho nội dung và hình thức”…
Ông cũng khẳng định ý kiến của Lê nin về sự tự do tư tưởng đó vô cùng quan trọng do nó ảnh hưởng đến sự bền vững của cách mạng, bởi nó mang đến cho giai cấp công nhân sự thực khách quan: “Giai cấp vô sản xa rời sự thực ngày nào là bước vào con đường thất bại ngày ấy. Cho nên nó đặc biệt tôn trọng sự thực, tôn trọng chân lý khách quan, tôn trọng những người phát hiện sự thực, tôn trọng những người tìm tòi chân lý - tôn trọng những nhà khoa học và nghệ thuật”.

Trần Đức Thảo

Trần Đức Thảo, sinh ngày 26/9/1917, tại Thái Bình, quê quán tại làng Song Tháp, phường Châu Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là con một viên chức bưu điện,

Ông là học sinh xuất sắc của trường trung học Pháp Albert Sarraut (Hà Nội), giải nhì cuộc thi triết học các trường trung học toàn quốc Pháp, đỗ tú tài Pháp năm 1935. Năm 1936, ông nhận học bổng của Phủ toàn quyền Đông Dương sang Paris, Pháp, và thi đậu vào trường École normale supérieure (Paris) năm 1939.

Ông đậu thủ khoa đồng hạng bằng Thạc sĩ triết học (ngang điểm với Jules Vuillemin) tại Pháp lúc mới 26 tuổi (1942). Với luận án "Phương pháp hiện tượng luận của Husserl", ông là người Việt Nam đầu tiên được nhận bằng thạc sĩ Triết học.Trong những năm thập niên 1940, ông bắt đầu nghiên cứu viết cuốn sách đầu tiên "Phénoménologie et matérialisme dialectique" ("Hiện tượng luận và chủ nghĩa duy vật biện chứng") mà sau này đã được dịch sang nhiều thứ tiếng trên thế giới. Sách này lần đầu tiên xuất bản năm 1951.

Thay mặt sinh viên và trí thức Việt Nam du học ở Pháp, Trần Đức Thảo đã viết thư gửi về Tổ quốc, bày tỏ tình yêu nước khi Việt Nam vừa giành được độc lập tháng 8 năm 1945. Thư này được in trên tờ Cờ giải phóng, cơ quan của Đảng Cộng sản Đông Dương.[2]

Khoảng tháng 10 đến tháng 12 năm 1945, do sự ủng hộ tích cực đối với Việt Minh và chính phủ Hồ Chí Minh, ông bị chính quyền Pháp bắt giam với lý do ông là mối đe dọa an ninh với Pháp.

Trong năm 1946, tháng 5 và tháng 6, Trần Đức Thảo gặp gỡ Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Pháp nhiều lần, ngỏ ý muốn về Việt Nam nhưng Hồ Chí Minh đã khuyên Trần Đức Thảo ở lại Pháp tiếp tục nghiên cứu khoa học và tham gia hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước.

Những năm tháng ở Pháp ông tham gia tích cực vào phong trào chống đế quốc Pháp ủng hộ Việt Minh. Ông là chủ tịch Hội Việt kiều yêu nước tại Pháp.

Vào những năm 1948, 1949, ông tham gia vào những cuộc "bút chiến" khoa học, trong đó có các tranh luận với các nhà triết học bậc thầy thời bấy giờ là Alexandre KojèveJean-Paul Sartre.

Ngày 4/1/1949, Trần Đức Thảo được Chủ Tịch Hồ Chí Minh cử làm thành viên Hội Đồng Giáo Dục Quốc Gia.

Năm 1951, ông rời Paris về chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp.

Năm 1952, đầu 1953 ông là thư ký tại văn phòng Tổng Bí thư Trường Chinh.

Năm 1953-1954, đi nghiên cứu thực tế trong quân đội, trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp ở Việt Bắc, đi tham gia cải cách ruộng đất ở Phú Thọ.

Sau 1954, từ Việt Bắc về Hà Nội, Giáo sư Trần Đức Thảo kết hôn với Tiến sĩ Nguyễn Thị Nhất, đến ngày 5 tháng 1 năm 1967, theo yêu cầu của bà Nguyễn Thị Nhứt hai ông bà đã thuận tình ly hôn.

Năm 1954 tham gia Ban nghiên cứu Văn-Sử-Địa, tiền thân của Ủy ban Khoa học Xã hội và Ban Tuyên huấn Trung ương sau này. Trong thời gian này Trần Đức Thảo đã công bố nhiều tác phẩm trên tạp chí Văn-Sử-Địa.

Năm 1955-1956, ông trở thành giáo sư Triết học và là Phó Giám đốc Đại học Sư phạm Văn khoa, Chủ nhiệm khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội).

Ông Cù Huy Chữ cho biết Trần Đức Thảo tâm sự:

Nghe theo lời khuyên của Đào Duy Anh, tôi đã viết hai bài báo Nỗ lực phát triển tự do dân chủ đăng trên báo Nhân Văn và Nội dung hình thức của tự do đăng trên tạp chí Giai phẩm Mùa Đông. Tôi không ngờ vì hai bài báo ấy mà tôi bị giam hãm trong cái gọi là kiểm thảo. Cuộc đấu tranh với tôi về việc tham gia Nhân Văn Giai Phẩm tại trường Đại học thực ra không phải là đấu lý mà là đấu lực, dùng số đông để áp đảo. Trong số những người phê phán tôi, tôi không còn nhận ra bộ mặt của họ nữa, hôm qua còn là sinh viên ngoan ngoãn của tôi, thân thiết biết mấy, yêu thương biết mấy mà hôm nay họ bịa ra nhiều chuyện để phê phán tôi. Tôi không giải thích nổi động cơ của họ.

Sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, Ông bị cho cách chức Giáo sư, cách chức Phó Giám đốc trường ĐHSP Hà Nội, cách chức Trưởng khoa Lịch sử chung cho cả ĐHSP và ĐHTH Hà Nội và không được tiếp tục giảng dạy ở đây.

Trần Đức Thảo về công tác tại NXB Sự Thật, tiếp tục nghiên cứu triết học. Từ đây công việc chủ yếu của Trần Đức Thảo là nghiên cứu dịch thuật các tác phẩm kinh điển chủ nghĩa Marx-Lenin, viết các tác phẩm khoa học, để xuất bản tại Pháp và một số nước khác.

Năm 2000, ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II về khoa học xã hội với tác phẩm Tìm cội nguồn của ý thức và ngôn ngữ (viết bằng

tiếng Pháp, Editions Sociales, Paris, 1973)

Phan Ngọc

Phan Ngọc quê gốc ở xã Nhân Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An trong một gia đình khoa bảng có truyền thống Nho học, cha ông là Phó bảng Phan Võ nguyên Đốc học Phú Yên, Án sát Hà tĩnh, hàm Thượng thư Bộ Lễ. Ông sinh năm 1925 tại Tĩnh Gia, Thanh Hóa, nơi cha ông khi đó đang làm Tri phủ.

Ông có bằng tú tài vào thời Pháp thuộc, sau đó có học qua ở trường Y rồi nhập ngũ tham gia cuộc chiến chống Pháp chiến đấu trong biên chế của Sư đoàn 304, Quân đội Nhân dân Việt Nam. Từ năm 1952-1954, Phan Ngọc là Trưởng phòng Phiên dịch Bộ Giáo dục. Từ năm 1954-1955 ông là Sĩ quan Ban Liên hiệp đình chiến. Từ năm 1955-1958 Phan Ngọc là phụ giảng tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tổ trưởng đầu tiên của tổ Ngôn ngữ học, đồng thời kiêm nhiệm giảng viên Văn học Trung Quốc, Lý luận văn học tại khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Do có liên quan tới vụ án Nhân văn - Giai phẩm, ông không được trực tiếp giảng dạy nữa mà chuyển sang làm nhân viên dịch thuật khoa Văn.

Từ năm 1980-1995 ông là chuyên viên cao cấp tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Ông được phong học hàm Phó Giáo sư năm 1992. Phan Ngọc đã giảng dạy ở Pháp, New Zealand, Hồng Kông, Singapore và viết khoảng 200 bài nghiên cứu đăng nhiều báo và tạp chí trong và ngoài nước.

Phan Ngọc là người biết nhiều ngoại ngữ. Ông từng dịch bộ Triết học Hegel từ tiếng Đức sang tiếng Việt để phục vụ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông dịch Thần thoại Hy Lạp từ nguyên bản tiếng Hy Lạp; Spartacus từ nguyên bản tiếng Ý; Chiến tranh và hoà bình từ nguyên bản tiếng Nga; Sử ký Tư Mã Thiên, thơ Đỗ Phủ... từ nguyên bản tiếng Hán; Shakespeare từ nguyên bản tiếng Anh.

Theo thông tin của Báo Thanh Niên, sau Trương Vĩnh Ký Phan Ngọc là người biết nhiều ngoại ngữ nhất ở Việt Nam. Ông biết tới 12 ngoại ngữ, trong đó sử dụng thông thạo được 6 ngoại ngữ.

Năm 1976, dịch giả Phan Ngọc đã dịch từ "Triết học Hegel" để chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV từ nguyên bản tiếng Đức, hoàn thành vượt thời hạn 3 tháng, dù trước đó ông chưa hề biết tiếng Đức. Ông được gọi là "vua" dịch giả ở Việt Nam.

Ông được xem là nhà bách khoa cuối cùng của thế hệ trí thức Việt Nam được đào tạo dưới thời Pháp thuộc; tuy vậy những công trình của ông cũng đã gây không ít tranh cãi về chất lượng học thuật.

Cụm công trình về văn hóa Việt Nam của ông gồm Văn hóa Việt Nam, cách tiếp cận mới (1994) và Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985) đã được Nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2000.


Các biện pháp đấu tố thanh trừng

Trong bài báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm, có một đoạn Tố Hữu viết:

"Cho đến khi, dưới ánh sáng của nghị quyết Bộ Chính trị, mở ra hai lớp học tập cho ngót 500 anh chị em văn nghệ sĩ, qua một cuộc đấu tranh kiên quyết thì mặt nạ của nhóm phá hoại "Nhân văn- Giai phẩm" mới hoàn toàn rơi xuống đất; và đồng thời, những sai lầm lệch lạc nghiêm trọng, nhất là tình trạng mất cảnh giác giai cấp trong văn nghệ sĩ, trong các đảng viên và cơ quan của Đảng cũng được vạch chỉ rõ ràng.

Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học, chủ yếu ở khoa Văn, khoa Sử, bọn tơ-rốt-kít Trương Tửu, Trần đức Thảo khoác áo giáo sư cũng phơi trần chân tướng" (Tố Hữu,"Nhìn lại 3 năm phá hoại của nhóm "Nhân Văn- Giai Phẩm", BNVGPTTADL).

Câu: "Cùng một lúc, qua cuộc học tập đấu tranh trong các trường Đại học..." rất quan trọng, nó xác định sự kiện cùng lúc với hai lớp Thái Hà, dành cho văn nghệ sĩ, thì trong Đại học, Giáo dục có các "lớp" khác, dành cho các giáo sư đại học, giảng viên, giáo viên, sinh viên và học sinh.

Về những biện pháp trừng phạt đối với toàn bộ văn nghệ sĩ, trí thức, sinh viên và quần chúng đã ít nhiều tham gia, đã đọc, đã mua báo, hoặc đã giúp đỡ, ủng hộ phong trào NVGP bằng cách này hay cách khác, hiện nay chưa có một ước lượng nào gần với sự thật nhưng có lẽ cũng phải hàng vạn người bị ảnh hưởng..

Tháng 8/2010, tôi đã viết trong bài Vụ Nhân Văn- Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành

"Tại các đợt học tập Chỉnh huấn tại các trường Sư phạm và Tổng hợp Hà Nội các Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu, Trần Đức Thảo cũng bị đưa ra cho giáo viên và sinh viên đấu tố, bị miễn nhiệm thôi giảng dạy. Ngoài ra còn nhiều người khác cũng chịu kỷ luật như Cao Xuân Hạo, Phan Ngọc, Cao Xuân Huy,… Một số sinh viên cũng bị kỷ luật như Bùi Quang Đoài (Thái Vũ), Văn Tâm, Phan Kế Hoành, Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà)…

Một số trí thức là nhân sĩ đã có thái độ ủng hộ NVGP cũng chịu các hình thức đối xử như Vũ Đình Hòe, Đỗ Đức Dục, Hoàng Văn Đức, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Tấn Gi Trọng… Ngoài ra, tại các địa phương những giáo viên, cán bộ, học sinh có hưởng ứng NVGP mua báo NVGP đều bị xử lý với nhiều hình thức.

Hiện nay, có rất ít tư liệu của các nhà trí thức NVGP viết về vấn đề này, nên không thể biết những gì đã xẩy ra cho họ. Nhờ cuốn Un Excommunié - Kẻ bị khai trừ, trong đó giáo sư Nguyễn Mạnh Tường kể lại ông đã bị đưa ra "corrida - đấu trường" ba lần: đấu trường Mặt Trận Tổ Quốc, đấu trường Đại Học và đấu trường Đảng Xã hội. Sau đó, ông hoàn toàn bị ly khai, không được tiếp xúc với người ngoài, không được dạy học, không cả dạy tư, rơi vào cảnh đói rét, bệnh tật.

Tại mỗi đấu trường, ông phải trả lời về "tội trạng" của mình. Đấu trường đầu tiên là phòng họp của Mặt Trận Tổ Quốc ở phố Tràng Thi, được ông mô tả như sau:

"Tôi đã có nhiều dịp tới đây dự các cuộc họp, hồi tôi còn ở trong nhóm những người được sủng ái được ngồi bên cánh phải của Người. Tôi biết rõ tất cả các vị "đồng liêu" sẽ quyết định số phận của tôi hôm nay!

Lần này, tôi vào phòng họp như con bò mộng bị thả vào đấu trường. Đúng là một đấu trường bởi vì tất cả bàn ghế đã được xếp dẫy dọc tường, chừa một chỗ trống giữa phòng. Sau dẫy bàn, là đám đông nhiều hạng người. Những người ngồi là thành viên Mặt Trận, đứng là những kẻ hiếu kỳ, phần đông là nhà báo, hoặc các cơ quan hội đoàn. Đó là thứ quần chúng đấu trường, thèm cảm giác mạnh và sôi sục ham muốn thấy quang cảnh lạ lùng khó tả sắp diễn ra!

Như con bò mộng thả trong đấu trường, tôi đưa mắt nhìn một lượt cử tọa. Nếu những người đứng, trố mắt nhìn và lắng tai nghe, thì những vị "đồng liêu" của tôi ngồi sau dãy bàn, có vẻ ngượng nghịu với nhiệm vụ mà họ chưa quen lắm. Tuy những câu hỏi đã được các vị "có thẩm quyền" soạn sẵn, nhưng trong cách diễn tả, giọng họ có chút bối rối. Tôi không khỏi thương cho họ bị rơi vào hoàn cảnh trái khoáy này"[31].

Biết rõ bản lĩnh của mình, luật sư Nguyễn Mạnh Tường cảm thấy hoàn toàn thoải mái trong việc tự biện hộ, ông nắm chắc phần "thắng" trước những đối thủ tầm thường, đuối lý, không đáp lại được những lời hùng biện của người luật sư đầy kinh nghiệm.

Ngày hôm sau, đấu trường Đại học diễn ra trong không khí công cộng, mọi hạng người đều có thể tham dự. Hàng ngàn sinh viên, nhân viên trong đại học, nhà báo, những kẻ hiếu kỳ, bọn lang bang, đến kín chật hành lang, giảng đường, muốn dự kiến buổi "xử tử một trí thức nổi tiếng ở Hà Nội". Lần này quan toà không ngồi bàn, mà thay phiên nhau bước lên giảng đàn. Nếu bên Mặt Trận Tổ Quốc còn có chút nể mặt ông, chưa làm quá lộ liễu, thì ở đây, ông thấy rõ:

"Người ta muốn kéo tên tôi xuống bùn đen, họ muốn chỉ rõ tội ác của tôi để biện minh trước cho sự trừng phạt mà họ sẽ dành cho tôi. Và đồng thời, để răn đe tầng lớp trí thức, để cải tạo họ, bắt họ tuân thủ vô điều kiện những mệnh lệnh và quyết định của đảng, theo đúng đường lối chính thống cộng sản. Tất cả mọi vi phạm vào nguyên tắc thần thánh này sẽ bị trừng phạt nghiêm ngặt, dù cho thủ phạm đã có công lớn như thế nào đối với tổ quốc và cách mạng.

Dưới chân giảng đàn mà tôi đã trải qua những giây phút đẹp nhất cuộc đời, tôi được thấy những điều tồi tệ nhất. Tôi thấy, không những người ta muốn trừng phạt tôi -xin lỗi- cải tạo tôi, mà còn hơn nữa: họ muốn dìm tôi xuống địa vị một phạm nhân dưới chân cái bục mà thời vàng son tôi đã đứng, bắt tôi nghe những lời thoá mạ mỉa mai cay độc của những kẻ không phải là đồng song với tôi như ở Mặt Trận mà là những đứa nhãi ranh không biết lượm được ở đâu, một vài kẻ hình như đã học tôi. "

Những lời đấu tố thô bỉ người thày, không được Nguyễn Mạnh Tường nhắc lại, ông chỉ ghi lại cuộc tranh luận của ông với một sinh viên học trò cũ và một nhà giáo trung học nhờ chạy chọt, được lên dạy đại học, vì những vấn đề họ đưa ra, có chỗ đáng bàn. Và ông vẫn vận dụng kiến thức của mình để thuyết giảng. Ông thấy mình như đã chiếm được cảm tình của số đông cử tọa, qua ánh mắt của họ. Un excommunié của Nguyễn Mạnh Tường thuật lại những nổi trôi của một người trí thức có lòng với đất nước, trong buổi đổi đời.

Qua biện pháp kỷ luật dành cho Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu, Trần Đức Thảo, chúng ta có thể ức đoán được chính sách đối xử với Đào Duy Anh...

Trong số đấu tố nhiệt thành có cả những giảng viên của hai trường, ngoài Nguyễn Lân còn có Hoàng Xuân Nhị.

Thái Vũ viết:

Về lý lịch, Hoàng Xuân Nhị có một lý lịch đặc biệt buộc tôi phải chú ý: ông ta học ở Pháp; 1939 Đức Quốc xã chiếm Paris, lập chính phủ bù nhìn bán nước Vichy với thống chế Pétain, Hoàng Xuân Nhị đã theo quân Đức Quốc xã qua Berlin và được nuôi dưỡng; năm 1945 Đức bại trận, Hoàng Xuân Nhị trở về Paris và… sau đó gia nhập Đảng Cộng sản Pháp…

Đến năm 1955 đã thấy ông ở Hà Nội dạy năm đầu Đại học Sư phạm Văn học, khi tôi học năm thứ 3. Về trình độ học vấn của ông thì sau này, khoảng sau năm 1970 còn có hai bài bàn tới, đăng trên hai số báo Văn nghệ, của Hoàng Minh và Tạ Ngọc Liễn.


Nguyễn Lân với bài Trường Đại học Sư phạm đã nhổ được hai cái gai:

Sở dĩ có những lệch lạc ở một số sinh viên khoa Văn và khoa Sử là vì họ đã chịu cái ảnh hưởng tàn khốc của Trương Tửu và Trần Đức Thảo... Nhà trường đòi hỏi các cán bộ giảng dạy trước khi lên lớp phải soạn giáo trình và giáo án; nhưng Tửu và Thảo thì không chịu viết giáo trình, lấy cớ là môn mình phụ trách khó quá chưa thể cho in thành tài liệu được. Sự thực là họ sợ mực đen giấy trắng dễ biểu lộ những tư tưởng phản động của họ. Họ thường tay không lên lớp rồi nói lung tung, không theo một phương pháp sư phạm nào. Vì không có giáo án nên đã có lần Trương Tửu không chuẩn bị, phải nhai lại một bài đã giảng kỳ trước, làm cho sinh viên hết sức công phẫn...

... Nhưng Trương Tửu và Trần Đức Thảo thì ngược lại, chỉ âm mưu dùng cái diễn đàn của trường đại học để đả kích chế độ, đả kích Đảng và xuyên tạc chân lý. Thí dụ: Tửu đã say sưa giảng về Vũ Trọng Phụng để chứng minh rằng Vũ Trọng Phụng sáng suốt hơn Đảng. Còn Thảo thì trong hai năm dạy lịch sử tư tưởng chỉ cố ý dừng lại ở Hê-ghen, không hề giảng đến Mác, Thảo luôn luôn dùng cái "hạt nhân duy lý" để xóa nhòa ranh giới giữa duy vật và duy tâm, xóa nhòa ranh giới giữa ta và địch. Quả là Tửu và Thảo đã dụng tâm làm tan rã lòng tin tưởng của sinh viên vào Đảng, vào chế độ.


Những sinh viên đấu tố tích cực có: Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức, Lê Khắc Thành…

Một giáo viên ở Hà Tĩnh cho biết:

Mùa hè năm 1958, tất cả giáo viên cấp II, III miền Bắc tập trung ở trường Bổ túc công nông để chỉnh huấn tư tưởng, quét sạch nọc độc Nhân Văn - Giai phẩm trong nhà trường. Có lẽ chưa có một đợt chỉnh huấn nào có quy mô rộng lớn và kéo dài như vậy. Trưởng ban chỉnh huấn là đồng chí Võ Thuần Nho, bí thư là đồng chí Hà Huy Giáp (Thứ trưởng Bộ Giáo dục). Các giảng viên đến giảng bài có các đồng chí Trường Chinh, Hà Huy Giáp, Nguyễn Khánh Toàn, Đỗ Mười, Ngô Minh Loan... Một tháng học lý thuyết, một tháng kiểm thảo, thời gian viết kiểm thảo quy định "nội bất xuất, ngoại bất nhập".

Người được chọn kiểm thảo điển hình cho cụm giáo viên khu IV, không ngoài ai khác là thầy Trần Quốc Nghệ. Nhưng dường như quanh đi quẩn lại cũng chừng ấy vấn đề: với Quốc Dân Đảng, với những phần tử Nhân Văn Giai phẩm. Cũng may cho thầy là hồi ấy ở trong khu IV không có liên hệ với ai, còn chúng tôi cũng may là không tham gia, không liên hệ gì cả. Sau chỉnh huấn, tư tưởng được đổi mới, phấn đấu nhiều hơn để lột xác tiểu tư sản (tạch tạch sè) và đứng vào hàng ngũ người lao động. Còn thầy vẫn như trước, có phần ưu tư hơn. Một hôm, thầy nghĩ thế nào lại nói với tôi: "Cậu thấy không, chỉnh huấn rồi cũng về ngày ngày soạn bài, lên lớp chấm bài, có khác gì đâu"? Tôi sững người, thầy Nghệ "vô chính trị" đến thế là cùng! Ai mà nghe được câu đó thì không biết thầy bị mấy lần kiểm điểm. Nhưng suốt một thời gian dài, tôi không dám nói với ai, vì tôi nghĩ con người đôi khi vẫn có những lúc buột miệng lỡ lời, nếu đem quy kết thì dễ thành tội nặng là đằng khác. Thời ấu trĩ về chính trị ấy, có người chỉ vì một câu nói, một bài báo cũng đủ kết tội đến mấy chục năm không gỡ ra được.

Ninh Viết Giao thuật lại trong hồi ký Xứ Nghệ và tôi NXB Nghệ An 2006:

9-1956 vừa tốt nghiệp ĐHSP VK khóa 1 về Nghệ An được phân về trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng. Vài năm đầu ở HTK nhiều chuyện xảy ra.

Quan trọng nhất là Nhân văn Giai phẩm. Tôi bị quy những khuyết điểm như sau:

Dự hội nghị trong đêm ở Khu học xá trước khi về Vinh có đông đủ sing viên năm thứ 2 thứ 3 Văn và Sử do thày Trần Đức Thảo triệu tập

Học trò thân của thầy Trương Tửu, thầy Trần Đức Thảo…

Bạn thân của nhiều người trong nhóm Đất Mới như Thúc Hà, Bùi Quang Đoài, Văn Tâm…

Nói chuyện Vũ Trọng Phụng, treo ảnh Vũ Trọng Phụng trong nhà

Đọc báo Nhân văn, Giai phẩm và Đất Mới…

V.v

Sau sửa sai, hè 1958, chỉnh huấn giáo viên cấp 2 và cấp 3 toàn quốc tại trường Bổ túc công nông Hà Nội, tôi là một trong số 2,3 giáo viên của trương Huỳnh Thúc Kháng bị đưa ra kiểm thảo điển hình. Tôi không nhắc lại lời thày nọ, thày kia đã phê phán tôi, nặng lời với tôi.

…Trở về Vinh, đầu năm học 1958-1959. Ban giám hiệu trường Huỳnh Thúc Kháng hạ tôi xuống chỉ cho tôi dạy 2 lớp 8 và không cho làm Tổ trưởng chuyên môn nữa.

Trong TRĂM NĂM LY HỢP- LÊ KHẮC GIA PHẢ CHÍ, Nhà xuất bản Lao Động Hà Nội 2013, tác giả Lê Khắc Hoan cho biết:

Khê đang công tác tại Tổ giáo vụ Sư phạm cấp tốc trực thuộc Sở giáo dục Khu tự trị Thái Mèo. Anh được đọc Người người lớp lớp và Nhất định thắng rồi nghe tin Trần Dần, Tử Phác bị bắt. Cơ quan Sở giáo dục theo chỉ đạo của Tuyên huấn Khu ủy mở cuộc đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm gieo nọc độc trong ngành giáo dục. Văn Khê bị đình chỉ công tác chuyên môn. Chuyển làm hành chính sự vụ. Phụ trách cờ đèn kèn trống các hội nghị và cơm áo gạo tiền cho các lớp sư phạm. Cả năm trời sau đó, Văn Khê nín lặng ẩn nhẫn.

Theo Thái Vũ, các bạn ông chịu những trừng phạt sau: bị cách chức trợ giảng, buộc rời khỏi trường đại học và chuyển đi dạy cấp 3 ở địa phương.

Hà Thúc Chỉ (Thúc Hà) về Hải Phòng dạy trường cấp 3 Ngô Quyền. Văn Tâm bị “biếm” lên tỉnh Phú Thọ, sau được về Hà Nội dạy trường cấp 3 Nguyễn Trãi. Phan Kế Hoành đi dạy trường cấp 3 Hà Đông, lại được chuyển về Ban Tu thư Bộ Giáo dục, tham dự làm sách giáo khoa.

Bùi Quang Đoài (Thái Vũ) được cho về Phòng Tuyên truyền báo chí của Bộ Giáo dục lúc đó.

Ninh Viết Giao thì về Nghệ An. Hà Nhật về Quảng Bình…

Phan Ngọc và Cao Xuân Hạo cũng không được giảng dạy chuyển sang dịch tư liệu cho Khoa Ngữ Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội

Hữu Đạt một cựu sinh viên, giáo viên ở Khoa Ngôn ngữ ĐHTHHN kể:

Các thế hệ sau này không hề biết Phan Ngọc ngoài việc đọc một số các công trình rất nổi tiếng của ông. Nhưng thế hệ chúng tôi thì được gần gũi với ông khá nhiều. Nhất là những năm chúng tôi mới ở lại trường. Dạo đó, kỳ thực không ai nói với chúng tôi ông là vị tổ trưởng bộ môn đầu tiên của tổ Ngôn ngữ học. Chúng tôi chỉ biết đại khái, ông là một nhân vật cỡ của Phong trào Nhân văn giai phẩm, một phong trào tư tưởng ta đã có dịp biết đến ở hồi thứ nhất trong thiên lịch sử Văn khoa giai đoạn thập kỷ sáu mươi. Lúc đó, cũng có người nhắc nhở chúng tôi là không nên tiếp xúc với ông nhiều, mặc dù ông là một cán bộ trong khoa. Khi đó ông hoàn toàn không còn là một cán bộ giảng dạy mà là một nhân viên của phòng tư liệu khoa Văn. Song, hầu như tất cả cán bộ thuộc trang lứa chúng tôi, ai cũng vẫn gọi ông bằng “thầy” trong xưng hô giao tiếp hàng ngày một cách rất tự nhiên. Có thày làm thơ tặng ông:

Thông minh vốn sẵn tính trời

Qua cơn bão tố hoá người ngẩn ngơ

Mấy ai tính được chữ ngờ

Tại các địa phương còn diễn ra sự truy bức những người ủng hộ Nhân Văn Giai Phẩm, yêu cầu nộp sách báo của Nhân Văn, kỷ luật, điều chuyển công tác những giáo viên có tư tưởng Nhân Văn… Sau nữa một vài người nhân lý do đó còn bị bắt giam đi tù nhiều năm. Ví dụ như ông Bùi Văn Nghĩa học khóa I ĐHSPVK ra trường 1957 khi bị bắt 1964 khi đang dạy Cấp 3 Thị xã Sơn Tây.

Có một số người tham gia đánh NVGP sau mươi năm lại thay đổi chính kiến chính trị và lại lâm nạn, bị kết án tư tưởng xét lại như Võ Hồng Cương hoặc bị bắt như các ông Huy Vân, Trần Thư, Phùng Văn Mỹ, Lê Khắc Thành…

Các cuộc đấu tố, thanh trừng trong lĩnh vực đại học và giáo dục để lại nhiều dấu ấn nặng nề trong quan hệ thày trò, học sinh, sinh viên mấy chục năm sau. Trong các cuộc gặp mặt của Khóa SPVK 1956 khi bắt đầu đổi mới cũng xảy ra tranh cãi việc đón các thày Nhân Văn đến dự hay không, việc có báo cho những người đã đấu tố các thày hay không. Hoặc có vài người vẫn oán trách thày Trần Văn Giàu vì dẫn công an xuống bắt sinh viên. Có người vào thành phố HCM nhưng không bao giờ đến thăm thày Trần Văn Giàu.

Khi kiến nghị giải quyết chế độ chính sách cho các văn nghệ sỹ, trí thức đã tham gia Nhân Văn Giai Phẩm chúng tôi có đề nghị các Ban Ngành cùng hưởng ứng, tiến hành. Công việc giải tỏa với những người liên quan khối Văn học Nghệ thuật đã tiến hành tương đối tốt, Phan Khôi, Trương Tửu đã được phục hồi hội tịch Hội Nhà văn, nhiều ông đã được kết nạp hội viên Hội Nhà văn như Văn Tâm, Bùi Quang Đoài…

Nhưng tại ngành giáo dục riêng việc phục hồi chức danh giáo sư cho 4 ông Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trương Tửu thì vẫn chưa tiến hành.

Đào Duy Anh Trong Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm

Ông Hoàng Văn Chí tác giả cuốn Trăm hoa đua nở trên đất Bắc xuất bản ở Sài Gòn tháng 1-1959, một trí thức ở Pháp về, người là anh em đồng hao với Nguyễn Sơn, Vũ Ngọc Phan, từng công tác ở Việt Bắc viết về tính cách Đào Duy Anh như sau:

Ông là người điềm đạm, trong các buổi họp ông ít phát biểu ý kiến và mỗi khi cuộc thảo luận trở nên gay gắt thì ông hay lẩn tránh. Tuy vậy gần đây ông cũng đứng hẳn về phe đối lập viết nhiều bài trong Nhân Văn và Giai Phẩm lên án chính sách của Đảng.

Có 3 sự kiện tác động đến tư tưởng của Đào Duy Anh là:

Đại hội lần thứ XX Đảng cộng sản Liên Xô, báo cáo của Khơ Rut sôp về những tội ác của Stalin.

Ấn phẩm đầu tiên của Nhân Văn Giai Phẩm đã xuất hiện là tập Giai phẩm mùa Xuân.

Sự kiện thứ 3 là vào tháng 4-1956 ông cùng đoàn giáo sư Đại học Sư phạm Văn khoa do Giáo sư Trần Văn Giàu làm Trưởng đoàn, Giáo sư Trương Tửu, ông Nguyễn Đức Chính, Nguyễn Lương Ngọc phụ giảng, ông Đào Văn Nhâm phụ trách văn phòng tham quan các trường đại học lớn của Trung Quốc như Đại học Tổng hợp, Đại học sư phạm Bắc Kinh, Nam Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu nhằm nghiên cứu cách tổ chức và giảng dạy đại học. Lúc đó văn nghệ sĩ và trí thức trung Quốc còn đang được hít thở bầu không khí Trăm hoa đua nở - Trăm nhà đua tiếng và chính sách đổi mới đối với trí thức qua bài phát biểu của Chu Ân Lai.

Ngày 23-5-1956 Giáo sư Trương Tửu phát biểu trên Đài phát thanh Bắc Kinh nhận xét về công tác nghiên cứu khoa học ở các trường đại học Trung Quốc: Các nhà lãnh đạo văn hóa ở Trung quốc đã nắm được quy luật phát triển của khoa học: Đó là sự tự do tìm tòi. Tự do tư tưởng, tự do tranh luận trên cơ sở kết hợp lý thuyết với thực tế cách mạng. Về văn nghệ, Đảng cộng sản đã nêu cao khẩu hiệu: Trăm hoa đua nở (bách hoa tề phong). Về khoa học Đảng lại đề ra khẩu hiệu: Bách gia tranh minh (trăm nhà đua tiếng). Mọi tài năng ý kiến ấy nhằm mục đích: phục vụ nhân dân kiến thiết xã hội chủ nghĩa. Mọi tài năng đều được phát biểu. Trên con đường đi tìm chân lý để phục vụ nhân dân, không có một uy quyền độc tôn nào có thể đàn áp sự tự do tư tưởng của nhà nước.

Hẳn là những sự kiện này đã tác động mạnh mẽ đến Đào Duy Anh và đó là những cơ sở để ông tin vào thời cuộc đang xoay vần cho hy vọng của ông và nhiều trí thức, văn nghệ sỹ cấp tiến khác. Chính vì thế hơn 25 năm qua tưởng rằng ông đã lìa xa chính trị chỉ để làm nghiên cứu văn hóa, lịch sử nhưng nay thời thế lại vẫy gọi ông. Không thể làm ngơ với nó được, con người kẻ sỹ trong ông lại thúc giục. Không những lên tiếng mà ông còn có vai trò hướng dẫn những người đàn em như Trần Đức Thảo.

Trích trong Triết gia Trần Đức Thảo Di cảo Khảo luận Kỷ niệm, NXB Đại học sư phạm Huế 2016 trang 1268-1269, ông Cù Huy Chử cho biết:

Khi báo Nhân Văn ra đời, cùng với tạp chí Giai phẩm Mùa Đông, ông Đào Duy Anh có nói với Trần Đức Thảo:” Ta nên gửi bài”. Trần đức Thảo hỏi Đào Duy Anh nên viết từ góc độ nào. Đào Duy Anh trả lời: nên viết từ góc độ văn hóa, triết học. Trần Đức Thảo nói với Đào Duy Anh: “Cũng phải, vừa rồi anh Trường Chinh có mời tôi đến nhà và trao cho tôi những tài liệu của Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô. Anh Trường Chinh nói với tôi cần khai thác khía cạnh chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Đào Duy Anh nói với Trần Đức Thảo: Vậy thì anh hãy viết về vấn đề tự do dân chủ. Trần Đức Thảo trầm ngâm một lúc rồi trả lời Đào Duy Anh: Sai lầm trầm trọng của Cải cách ruộng đất và Chấn chỉnh tổ chức chính là vấn đề này. Chính đồng chí Nguyễn Duy Trinh trong báo cáo trước Quốc hội đã nói, muốn khắc phục những sai lầm trong Cải cách ruộng đất thì phải phát huy dân chủ. Nhưng theo tôi, có lẽ cái khía cạnh cần nói mà bây giờ chưa nói được. khó quá! Đó là nhìn nhận con người như thế nào cho đúng trong sự phát triển của lịch sử. Vô lý qúa, cùng một con người ấy, ngày hôm qua được vinh danh, được ca ngợi là người cách mạng, mà hôm nay lại bị coi là một tên phản động. Không thể nói sai lầm trong Cải cách ruộng đất là một sự nhầm lẫn, là một sai lầm có tính chất cục bộ, phải đào sâu để hiểu cái sai lầm ấy có nguồn gốc trong tư tưởng, trong triết học. Đào Duy Anh trả lời Trần Đức Thảo: Nhận thức của anh thì đúng quá rồi. Đúng vậy, chính tôi cũng nhiều lần tự vấn: Tại sao tôi tổ chức ra đảng Tân Việt mà lại không đi đến tận cùng với nó, rồi sau lại tiếp tục đi với tư tưởng của nó khi Cách mạng Tháng Tám thành công dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng đặt vấn đề như anh để nghiên cứu sai lầm của Cải cách ruộng đất, e không thích hợp lúc này. Thôi anh cứ viết thẳng về vấn đề phát huy dân chủ và tự do.

Trần Đức Thảo tâm sự với tôi: Nghe theo lời khuyên của Đào Duy Anh, tôi đã viết hai bài báo Nỗ lực phát triển tự do dân chủ đăng trên báo Nhân Văn và Nội dung hình thức của tự do đăng trên tạp chí Giai phẩm Mùa Đông. Tôi không ngờ vì hai bài báo ấy mà tôi bị giam hãm trong cái gọi là kiểm thảo. Cuộc đấu tranh với tôi về việc tham gia Nhân Văn Giai Phẩm tại trường Đại học thực ra không phải là đấu lý mà là đấu lực, dùng số đông để áp đảo.

Trong số những người phê phán tôi, tôi không còn nhận ra bộ mặt của họ nữa, hôm qua còn là sinh viên ngoan ngoãn của tôi, thân thiết biết mấy, yêu thương biết mấy mà hôm nay họ bịa ra nhiều chuyện để phê phán tôi. Tôi không giải thích nổi động cơ của họ.

…Ba ngày liền tôi bị phái Phạm Huy Thông đả kích liên tục bằng những chuyện bịa đặt. Tôi không biết nói ra sao, vì trong cảnh tố đấu ai được ai thua, tức là đấu lực thì không thể nào nhắc đến thực chất của vấn đề, là những gì đã xảy ra trong Chỉnh đốn tổ chức, do sự thống trị thực tế của tư tưởng Mao Trạch Đông, thông qua đoàn cố vấn Mao ít... Tôi thấy cái phương pháp khủng bố ấy tạo nên đau xót quá chừng.

…Mấy hôm trước anh Đào Duy Anh bảo tôi rằng dựa vào kinh nghiệm của anh ấy, thì phải nhận ngay tất cả để cho yên.

Ông trực tiếp tham gia Nhân Văn Giai Phẩm với hai bài. Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ Ý kiến của ông Đào Duy Anh, nhà sử học trên báo Nhân Văn số 2 ngày 30-9-1956 và bài Muốn phát triển học thuật trên Giai phẩm Mùa Thu tập III. Giống như lời khuyên Trần Đức Thảo ông đã rất thận trọng, không đụng chạm đến vấn đề chính trị của những sai lầm trong CCRĐ và CĐTC mà chỉ nói về học thuật, nghiên cứu khoa học trong trường đại học của ông.

Trả lời Bài thứ nhất:

Trong khi về thực tế phần nhiều những phương tiện xuất bản, phát hành, đến cả các phương tiện nghiên cứu và sáng tác đã tập trung ở các cơ quan chính quyền, thì vấn đề không phải là đấu tranh để đòi tự do gì gì, mà là đấu tranh để tranh thủ sự giúp đỡ thiết thực của Chính phủ tạo điều kiện cho sự thực hiện những tự do ấy, ví dụ giúp đỡ thiết thực cho tư nhân xuất bản dễ dàng, giúp đỡ việc phát hành, cho phương tiện thuận tiện để sáng tác và nghiên cứu, săn sóc sự xuất bản rộng rãi các tác phẩm văn nghệ và đặc biệt chú ý xuất bản những tác phẩm nghiên cứu khoa học. Ở trong chế độ ta, Chính phủ và nhân dân là nhất trí. Những yêu cầu trên là nghĩa vụ của Chính phủ phải thoả mãn để phát huy hết khả năng của nhân dân và của giới trí thức nói riêng.

…Cho nên, theo ý tôi, vấn đề đầu tiên phải đặt ra là làm thế nào cho các cơ quan có liên quan trách nhiệm thấy rằng xây dựng trường Đại học là một vấn đề quốc gia trọng đại, không tích cực góp phần vào xây dựng nó mà có khi còn trở ngại nó là có tội với nước, với dân. Vấn đề ý thức, vấn đề tư tưởng ấy mà giải quyết được thì mới khỏi gặp phải tình trạng như đối với cái quỹ tí hon 10 vạn đồng một tháng để xây dựng cái thư viện văn khoa cho trường Đại học, bộ Tài chính lại thỉnh thoảng xén xẻo đi một nửa lấy cớ là mua sách nhiều quá (trong khi để có kẻ tham ô lãng phí mỗi lần hàng mấy trăm triệu), hoặc tình trạng như sách Trung Quốc viện trợ cho nước ta rất nhiều, thế mà hơn nửa năm nay, bộ Giáo dục và nhiều người quan trọng can thiệp, bộ Văn hoá vẫn giữ cả chưa chuyển cho trường Đại học quyển nào, đến nỗi các giáo sư rất cần những sách ở đó để chuẩn bị khai giảng sắp tới mà sách vẫn nằm mốc trong kho của Thư viện Trung ương, không tài nào gỡ ra được.

…Dù là một tổ chức nghiên cứu khoa học, tiêu chuẩn chính trị cũng cần phải có, vì chúng ta không quan niệm có nhà khoa học phi chính trị, có nhà chuyên môn siêu giai cấp. Nhưng nên yêu cầu tiêu chuẩn chính trị như thế nào? Có cần nhất thiết phải là đảng viên hay dự bị đảng viên thì mới dùng? Có cần phải là người ngoan ngoãn phục tùng, khôn khéo, mềm dẻo, ít đấu tranh, tức là ít làm phiền cho cấp trên thì mới dùng, mà người có tinh thần đấu tranh thì nhất thiết gạt đi? Hay là cần đặt tiêu chuẩn rộng rãi hơn như thế nào?

Về tiêu chuẩn chuyên môn thì cấp trên nên bằng cứ vào đâu? Nếu bằng cứ vào thành tích nghiên cứu và công tác chuyên môn do quần chúng - quần chúng trực tiếp là học sinh và giáo sư, quần chúng gián tiếp là công chúng rộng rãi và giới khoa học quốc tế - nhận định, hay chỉ bằng vào sự xét đoán riêng, không khỏi có phần hẹp hòi chủ quan và cảm tình cá nhân, của người lãnh đạo?

Cuối cùng tôi muốn nêu lên vấn đề học tập nước bạn. Trong công cuộc xây dựng ngành Đại học, chúng ta cần phải học tập, mà cần phải học tập rất nhiều các nước bạn, nhất là Liên Xô và Trung Quốc là những nước làm thầy chúng ta về nhiều mặt. Chúng ta cần phải thành khẩn học tập kinh nghiệm cũng như kiến thức của các chuyên gia nước bạn. Nhưng có nên lấy tinh thần tự ti dân tộc mà phủ nhận khả năng sáng tạo của chuyên gia Việt Nam không? Vấn đề này cũng cần phải thảo luận để nhằm thực hiện sự học tập một cách sáng tạo; không sa vào cái tệ học tập máy móc và giáo điều có thể gây nên tai hại.

Bài thứ hai: Muốn phát triển học thuật

Tôi muốn góp một số ý kiến vào vấn đề xây dựng nền học thuật của nước nhà. Chẳng cần phải thảo luận, ai ai cũng phải thừa nhận rằng nền học thuật của ta hiện nay thấp kém, lạc hậu. Trong sự nghiệp kiến thiết kinh tế và văn hoá để xây dựng một nước Việt Nam dân chủ theo hướng xã hội chủ nghĩa, công tác học thuật, công tác nghiên cứu khoa học, có một vai trò trọng đại, vì công tác này mà không phát triển thì không những kiến thiết văn hoá mà cả kiến thiết kinh tế cũng không thể đi xa. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thế nào cho công tác ấy đáp ứng xứng đáng được nhu cầu kiến thiết. Nhưng muốn nhận định nhiệm vụ ấy cho đúng đắn, cần phải đánh giá đúng mức tình hình hiện tại của công tác học thuật.

…Tình trạng ấy lại củng cố thêm thành kiến của người cán bộ chính trị phổ thông cho rằng người trí thức chuyên môn cũ chỉ biết khoa học kỹ thuật của đế quốc là cái không thích hợp với chế độ chúng ta. Chính bản thân người trí thức chuyên môn, sau bao nhiêu đợt chỉnh huấn cũng phải nhận thấy rằng mình vốn chứa đầy thói hư nết xấu của thành phần tiểu tư sản hoặc mang nặng những tư tưởng tư sản và địa chủ, và sau khi đã xác định thái độ phục vụ nhân dân vô điều kiện, thì họ đã tự nguyện thủ tiêu hết thắc mắc về công tác chuyên môn để toàn tâm toàn ý phục vụ kháng chiến.

..Do đó, trong thực tế, người trí thức không được cảm thông nâng đỡ trong yêu cầu chuyên môn của họ, mà trái lại, họ cảm thấy luôn luôn bị người cán bộ chính trị chèn ép. Viết đến đây, ngòi bút của tôi ngần ngại rất nhiều. Tôi sợ không khéo người ta lại gia cho tôi cái tội muốn cho chuyên môn độc lập với chính trị, tức muốn thoát ly sự lãnh đạo của Đảng.

…Sự phân công giữa công tác chính trị và công tác chuyên môn phải rạch ròi thì công tác chuyên môn mới tiến hành thông suốt được. Nhưng tình hình thực tế của ta thì cũng ít khi đạt được mức lý tưởng như thế. Vì cái thành kiến không tin trí thức, cho nên trong nhiều cơ quan, có khi là cơ quan thuần tuý chuyên môn, bên cạnh hay ở trên người cán bộ phụ trách chuyên môn, tất phải có người cán bộ chính trị để lãnh đạo. Người cán bộ chính trị ấy, có khi vì trình độ còn non, thường có khuynh hướng vượt quá quyền hạn mà lấn sang quyền điều khiển chuyên môn.

Trong địa hạt khoa học tự nhiên, sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào địa hạt chuyên môn như thế cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Trong địa hạt khoa học xã hội thì mối tệ cũng không kém. Vì khoa học xã hội chịu sự lãnh đạo của chính trị trực tiếp hơn cho nên người ta rất dễ nghĩ lầm rằng hễ người có lập trường và năng lực chính trị vững vàng thì tất có điều kiện căn bản cần thiết để làm công tác về khoa học xã hội. Bởi thế chúng ta thấy không ít trường hợp, hoặc những cán bộ thuần tuý chính trị hoặc những cán bộ chính trị mượn danh hiệu chuyên môn, được cử ra lãnh đạo một tổ chức văn hoá hay học thuật. Như thế thì công tác nghiên cứu khoa học khó lòng được quan niệm và hướng dẫn đúng đắn.

Tóm lại, chính cái tư tưởng không tin và coi rẻ trí thức đã dẫn đến sự ứng dụng lệch lạc cái nguyên tắc rất đúng đắn về quyền lãnh đạo của chính trị, do đó công tác học thuật của chúng ta, về khoa học tự nhiên cũng như về khoa học xã hội, gặp nhiều cản trở mà vẫn bị hãm vào tình trạng lạc hậu.

…Do đó vấn đề mấu chốt cần phải giải quyết trước hết để thúc đẩy công tác học thuật tiến lên là vấn đề trí thức.

Đây là chỗ nên nhắc lại lời nói của Ô. Mi-cai-an ở Đại hội lần thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô: “Học thuật là cái gì nếu không có tinh thần sáng tạo? Thế chỉ là bài tập của học sinh chứ không phải là học thuật, vì học thuật trước hết là sáng tạo cái mới chứ không phải là nhai lại.” Lời nói ấy mãi khuyến cáo những người làm công tác học thuật phải nghiêm khắc với mình.

Nhưng muốn tìm được cái mới thì tất phải biết rõ tình hình cái cũ là thế nào đã. Người làm công tác nghiên cứu khoa học phải biết rõ tình hình tài liệu về vấn đề mình muốn nghiên cứu, và hiện trạng nghiên cứu của vấn đề ấy là thế nào. Như thế mới tránh khỏi cái tình trạng mình mất công cặm cụi phiên dịch hay trình bầy một tài liệu mà người khác đã phiên dịch hay trình bầy từ trước mất rồi, hoặc “một mình vùi đầu vào nghiên cứu một vấn đề và có được những kết quả khả quan, nhưng không may họ không biết rằng có người khác, thậm chí mấy chục năm trước đây đã đạt được những kết quả ấy rồi” (xem bài nói chuyện của ông Lục Định Nhất về Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh). Như thế thì cũng tránh khỏi cái tình trạng có hại hơn nữa là có khi người ta chỉ tìm thấy một mẩu tài liệu vụn vặt nào đã tưởng lầm rằng đó là một phát minh quan trọng, vội dựa vào đó mà kết luận dứt khoát về một vấn đề mà các nhà học giả trong nước, có khi là trên thế giới, đang tranh luận gay go.

…Cái điều kiện cuối cùng, mà không thể thiếu được, để cho học thuật phát triển là tự do tư tưởng, tự do thảo luận. Ở đây tôi không vạch ra hạn chế tự do tư tưởng nói chung vì những tác phong quan liêu bè phái, độc đoán là những cái đã tác hại nghiêm trọng trong mọi ngành công tác. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh hai hình thức hạn chế tự do tư tưởng tác hại nặng nhất đối với học thuật là bệnh giáo điều và biến chứng của nó là bệnh sùng bái cá nhân. Đại hội thứ 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô đã tố cáo những tác hại của hai bệnh ấy trong công tác tư tưởng và học thuật, nhất là về khoa học xã hội. Phần lớn các nhà công tác lý luận cũng như các nhà triết học, sử học chỉ là "nhắc lại những khuyến cáo, công thức và đề án cũ mà họ đã lật đi lật lại đủ chiều" (Mi-cai-an). Thậm chí người ta còn cho rằng "khoa học xã hội chỉ có thể phát triển nhờ những nhân vật phi phàm, các nhà học giả khác chỉ có việc là chú giải và phổ biến những tác phẩm của các lãnh tụ" (Kommounist). Ở nước ta thì bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại còn trầm trọng hơn, khiến người ta, vô luận bàn về vấn đề gì, cũng đều phải bắt đầu dẫn những đề án của Mác-Ăng-ghen và Lê-nin, hoặc những ý kiến của Sta-lin hay các lãnh tụ khác, để, hoặc phát triển thêm những ý kiến ấy, hoặc g̣ò bó tài liệu, xoay sở thế nào để gán vào khuôn khổ của những công thức rút ra tự những ý kiến ấy. Xin chỉ một cái tỷ dụ gần đây. Như vấn đề phân kỳ của lịch sử Việt Nam và vấn đề hình thành dân tộc, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều người nghiên cứu không dám có ý kiến gì mới ngoài những điều các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác hay các vị lãnh tụ đã nói về các vấn đề ấy. Bệnh giáo điều và sùng bái cá nhân lại dẫn thẳng đến cái tệ tư tưởng độc tôn: hễ thấy ai có ý kiến gì vượt ra ngoài những công thức cũ, những khuôn khổ sẵn có thì người ta chụp ngay cho những cái mũ dễ sợ, như cái danh hiệu cải biến chủ nghĩa chẳng hạn, những mũ như thế rất dễ bịt mồm bịt miệng người ta.

Tư tưởng không tự do thì không thể tự do thảo luận được.

..Phải áp dụng chính sách "bách gia tranh minh" mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thi hành đối với công tác nghiên cứu khoa học, cái chủ trương mà ông Lục Định Nhất đã giải thích rằng: "Tự do suy nghĩ độc lập, tự do tranh luận, tự do sáng tác và tự do phê bình, tự do phát biểu ý kiến của mình". Về điểm này tôi không thể nói gì hơn. Tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng cái tự do chúng ta chủ trương đây, cũng như ý kiến của ông Lục Định Nhất, không phải là tự do theo lối tư sản, mà là tự do dân chủ trong nội bộ nhân dân.

Những vấn đề chúng tôi nêu trong bài này thì ở Trung Quốc người ta đã giải quyết tốt đẹp rồi. Về vấn đề trí thức thì bản “Báo cáo về vấn đề phần tử trí thức” của Chu Ân Lai đọc ở cuộc hội nghị bàn về vấn đề phần tử trí thức do Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc triệu tập hồi tháng 1 năm này đã nêu lên chính sách cụ thể của Đảng và Chính phủ, làm cho toàn thể giới trí thức Trung Quốc vô cùng phấn khởi và tin tưởng chắc chắn vào tương lai tươi đẹp của mình và của nước nhà. Về vấn đề phát triển học thuật thì bài nói chuyện của ông Lục Định Nhất hồi tháng 5 vừa rồi về chính sách “Bách hoa tề phóng, bách gia tranh minh” lại làm cho giới trí thức thấy cái đường lối công tác rộng rãi và đúng đắn, đảm bảo chắc chắn sự thực hiện cái nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho họ, trong hạn 12 năm phải làm cho Trung Quốc theo kịp trình độ khoa học tiền tiến của thế giới về những ngành quan trọng. Việt Nam chưa phải là một nước tiến bộ như Trung Quốc, cố nhiên giới trí thức Việt Nam cũng không đòi hỏi sự giải quyết vấn đề in hệt như Trung Quốc. Vấn đề của chúng ta nhất định phải giải quyết trên cơ sở thực tế của chúng ta. Nhưng chúng ta đã học tập Trung Quốc về nhiều phương diện, thì về phương diện này chúng ta cũng có thể học tập Trung Quốc để tìm cái hướng giải quyết vấn đề của chúng ta. Giới trí thức Việt Nam đương chờ đợi một sự giải quyết mạnh bạo và căn bản.

Hậu Nhân Văn

Trong cuốn DÂU HỌ ĐÀO Hồi ký của bà Phan Thị Bội Hoàn phu nhân ông Đào Duy Dếnh chưa xuất bản có viết:

Bạn bè xa lánh, còn một số đến thăm là Văn Cao, Sỹ Ngọc, Bửu Tiến, Tôn Quang Phiệt và một vài người nữa.

Thời gian này Đào Duy Anh buồn vì đáng ra những người bạn tâm đắc đã cùng hoạt động từ thời Tân Việt ở Huế, ở Việt Bắc. khu IV cũ nay có chức, có quyền cần hiểu và thông cảm chia sẻ vui buồn với bác, nhưng ngược lại họ đi phát biểu không đúng sự thật, lại còn viết báo Nhân dân phê phán, uy chụp bác trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm để chứng tỏ họ là người có lập trường cách mạng với Đảng.

… Cuối đời bác nói với con trưởng của tôi: “Bác đã viết xong một cuốn Bi kịch trí tuệ nhưng chưa thể in được cháu ạ. Với tư cách là người làm sử bác kể lại bi kịch của các nhân vật được nhân loại tôn sùng từ Chúa Zê xu, Đức Phật Thích Ca, Mô ha mét, Ga li lê, Tư mã thiên, Nguyễn Trãi và nhiều nhân vật khác. Bác muốn nói lên những ai có suy nghĩ và đi trước thời đại của mình, quyết bảo vệ suy nghĩ ấy là đúng thì họ đều bị chính quyền đương thời hành hạ.”

Hồi ký của bà Trần Thị Như Mân vợ ĐDA, NXB Thanh Niên 2007:

Cùng thời gian này đã xảy ra vụ án Nhân Văn Giai Phẩm, anh Anh bị đưa ra kiểm điểm trước hội trường, phải viết bài nhận lỗi trên báo Nhân dân và sau đó không được dạy Trường Đại học tổng hợp nữa. Lúc đó là sau tết năm 1958. Đó là bài: "Một kết quả bước đầu của đợt học tập hai văn kiện Mat-scơ-va ở trường đại học: Ông Đào Duy Anh tự kiểm thảo" đăng báo "Nhân dân 3 kỳ, ngày 19/5/1958, ngày 20/5/1958 đến số ra ngày 21/5/1958.

Khi về Viện Sử ông Trần Huy Liệu dặn là chọn đề tài nào hiền lành thì hãy làm. Làm hoàn toàn đơn độc không có người cộng tác. Với tuổi ngày càng cao, anh không thể đi lại xông xáo như thời trẻ, những khi có việc cần thì vẫn cứ phải một mình lên ga mua vé tàu hỏa có chở theo xe đạp, đến nơi lại đạp xe hết làng nọ xóm kia.

Tháng 8-1945 Đào Duy Anh ra Hà Nội, đã quay lại chính trị nhưng khát vọng của ông không được thực thi. Ông lại phải chờ đến 1956. Nhưng bi đát thay thời cuộc mới chỉ xoay vần nửa chừng. Một lần nữa Đào Duy Anh lại bị chế độ mà ông đã nhiệt thành phò tá tước mất vũ khí chính trị cuối cùng, danh vị, bục giảng, tiếng nói. Đó mới là bi kịch lớn nhất của đời ông.

Hãy chứng kiến cảnh nhà nghiên cứu ở Pháp Tạ Trọng Hiệp gặp ông:

Chỉ thấy nhớ lại buổi gặp Đào Duy Anh trong tháng 7-1979, ở thành phố Hồ Chí Minh, ông dẫn tôi về nhà khách thành ủy, khẩn khoản xin người ta cho phép tôi được lên phòng ông nói chuyện cho yên tĩnh. Mới gặp mà như quen nhau từ tiền kiếp. Ngồi với nhau gần ba tiếng đồng hồ, nói toàn chuyện cổ văn cổ sử Hán Nôm, Hùng vương hay Lạc vương, đọc Thủy kinh chú như thế nào, chữ “song viết” trong thơ Nguyễn Trãi, v.v…Cuối cùng, ông rút ra mấy tập bản thảo hoàn chỉnh, đánh máy rõ ràng, bảo tôi muốn chọn những gì ông tặng cả mà đem về Pháp, in được cuốn nào cho ông thì in. Lúc chia tay, ông đứng sững nhìn tôi hồi lâu, im lặng, im lặng mãi cho đến phút cuối bất thình lình mở rộng hai tay ôm choàng lấy tôi, vừa ôm vừa nức nở thê thảm, như thể trút hết bao nhiêu buồn đau dồn chất suốt hơn hai mươi năm. Tôi nhìn khuôn mặt giàn giụa nước mắt, lòng thắt lại, cả hai đều vẫn im lặng cho đến khi tôi ra về.

Tạ Trọng Hiệp: Bài Đào Duy Anh (1904-1988), sách Học giả Đào Duy Anh.

Nhận xét cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm

Năm 1973 Đào Duy Anh viết xong cuốn hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm. Tên gọi của nó đã hàm chứa nhiều nỗi niềm tâm sự nhưng mãi đến 1989 nó mới được xuất bản và chỉ có 13 chương trong số 30 chương. Mãi đến 2020 Nhà xuất bản Hà Nội mới in lại với đầy đủ 30 chương. Với hơn 500 trang sách hẳn là nhiều với các nhà nghiên cứu lề phải.

Đỗ Lai Thúy đánh giá:

Năm 1972, sau khi viết xong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (mà 17 năm sau mới được in), Đào Duy Anh có đưa cho một nhà nghiên cứu văn hoá vẫn được ông coi là bạn vong niên cầm về nhà đọc với lời nói kèm: đây chỉ là tập hồi ký vo. Thấy bạn ngơ ngác ông vội giải thích: vo ở đây là chỉ nói được một khía cạnh của cuộc đời mình mà là khía cạnh dễ nhìn thấy nhất. Tuy nhiên, dẫu không trực tiếp quen ông, nhưng bạn đọc hôm nay của cuốn hồi ký học thuật quan trọng này vẫn thấy được, dù chỉ là thấp thoáng, con người thứ hai ẩn kín của ông qua những trang dịch Sở Từ của Khuất Nguyên, Thơ chữ Hán Nguyễn Du và Khảo luận về Truyện Kiều… Ông nghiên cứu tâm sự người xưa để ký gửi vào đấy tâm sự của người nay. Tâm sự ấy bắt nguồn từ đoạn đầu đời hoạt động chính trị chảy tràn sang quãng đời sau hoạt động văn hoá. Đúng như ông nói trong Lời đầu sách của cuốn hồi ký, người ta “có biết tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc mà có buộc tội tôi cũng chỉ ở Lịch sử dân tộc”. Tuy nhiên, trong cô đơn ông vẫn thanh thản, buồn một “nỗi buồn trong sáng” bởi ông biết rằng ông đã thuộc về Lịch sử.

Cuộc trò chuyện với Ngô Vĩnh Long về hồi ký

Tháng 5-1980 Giáo sư Ngô Vĩnh Long về thăm và làm việc trong nước có đến thăm Đào Duy Anh. Ông Long cho biết Đào Duy Anh có cho ông xem bản thảo tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm và nói rằng ông không ưng ý vì chưa có điều kiện thuận lợi để viết một cuốn hồi ký hoàn chỉnh, mới chỉ ghi chép một số điều không nỡ để mai một cuộc đời hoạt động văn hóa của mình. Vì thế Đào Duy Anh chưa ưng ý với những trang viết đầy rẫy thiếu sót này và tiếc rằng mình đã gần đất xa trời không còn thời gian để tiếp tục thực hiện mong muốn.

Cuốn Nhớ nghĩ chiều hôm viết xong trong năm 1973. Thời thế những năm đó và

cho tới gần những năm ông mất chưa cho phép ông nói hết được suy nghĩ thực của mình. Toàn bộ bối cảnh mấy năm 1956-1958 chỉ có mấy dòng trong chương XIII.

Vì thế chúng ta chỉ đọc được mấy dòng tội nghiệp:

Đầu năm 1958, vì có liên can vào vụ Nhân văn Giai phẩm tôi thôi giảng ở Trường Đại học Tổng hợp. Sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô tôi mơ hồ với nhiều ảo tưởng, không nắm được thực tế của thời đại cho nên đã phạm sai lầm lớn là đấu tranh không đúng, chẳng khác gì như người chỉ biết vác mặt lên trời mà chạy, vấp ngã và đau. Hối hận thì chỉ còn một cách là “sửa mình” như cha ông ta đã từng dạy. Bấy giờ tôi có làm một bài thơ tự thuật có hai câu này:

Sẩy bước không chừng muôn thưở hận

Sửa mình duy có một lòng băng.

Nội dung hồi ký Đào Duy Anh né tránh những vấn đề phức tạp của chính trị hiện tại. Ông không dám nói đến những oan ức mà ông phài chịu đựng từ 1930 đến lúc ông mất, không nói đến nhân tình thế thái của đồng chí, bạn bè, học sinh, không nói đến sự chịu đựng vô biên của gia đình về sự nghèo khó, về bệnh tật. Nhưng ông không phủ nhận HCM, ĐCSVN, ông vẫn còn nặng tư tưởng tận trung. Ông cũng không phủ nhận chủ nghĩa Mác. Trang 285 ông viết:

Tôi không tin rằng chủ nghĩa Mác đã lâm vào khủng hoảng mà thấy rằng chủ nghĩa Mác vẫn khỏe mạnh… Chủ nghĩa Mác chính là tư tưởng của thời đại ngày nay.

Nếu còn sống đến đầu những năm 1990 chắc rằng ông không viết như thế mà sẽ nghĩ giống như Trần Đức Thảo.

Mai Thảo viết về tình bạn của Đào Duy Anh với Vũ Hoàng Chương

Cuối năm 1975, một buổi chiều, ông nằm thiếp trên sàn Gác Bút, mãi mới gượng ngồi dậy được.

- Tao vừa ở nhà Mộng Tuyết về. Mệt quá.

- Còn tới đó làm gì cho mệt?

- Nể quá. Đào Duy Anh vừa vào. Ở nhà Mộng Tuyết, nói rất muốn gặp tao và muốn có một tập Rừng Phong đem về Hà Nội. Tao mang lên cho. May quá, còn đúng một tập. Thấy tao, Đào Duy Anh mừng lắm. Hắn cũng già quá rồi. Bây giờ ngồi một chỗ soạn tự điển thôi. Mày biết hắn nói với tao gì không? Tôi vào Nam chỉ để gặp anh. Thơ trước sau tôi vẫn chỉ yêu nhất có hai người. Là anh và Lý Bạch.
Tôi chép miệng, hồi tưởng lại một Đào Duy Anh trắng hồng, mạnh mẽ ngồi trước mặt ở hội nghị văn nghệ Lam Sơn, Cầu Bố ngày nào.
- Thế thì làm sao sống được bấy nhiêu năm ở Hà Nội?
- Phải sống. Làm thế nào. Trương Tửu bây giờ còn phải ngồi sao tẩm thuốc Bắc, xem tướng tay trên một vỉa hè Bạch Mai thì Đào Duy Anh được họ cho ngồi yên với vài trang tự điển còn là may lắm.

Bởi vậy mà với một chế độ tử thù với thơ, sau ngày 30 tháng 4-1975, Vũ Hoàng Chương phải bị giết chết. Ngày bắt ông, 13 tháng 4-76. Ngày ông mất 19 tháng 8 cùng năm.

Lũ chúng ta lạc loài dăm bảy đứa
Bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh
Bể vô tận xá gì phương hướng nữa
Thuyển ơi thuyền theo gió hãy lênh đênh.

Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ
Một đôi người u uất nỗi trơ vơ
Đời kiêu bạc không dung hồn giản dị
Thuyền ơi thuyền xin ghé bến hoang sơ.

Một lần Thanh Tâm Tuyền đã nói với tôi về một hiện tượng ngôn ngữ đặc biệt thường thấy và chỉ có ở những tài thơ lớn, qua một số câu thơ bất chợt có được một số mệnh đặc biệt khi trở thành, từ một lúc nào không hay biết, ngôn ngữ thường dùng của quảng đại, như lời nói thường, trong đời sống hàng ngày. Những người chưa từng biết đến thơ, trọn đời chẳng hiểu thế nào là thơ, bỗng sống thơ, nói thơ, bởi tâm trạng đám đông một thời đã được nói hết trong một câu thơ và quảng đại đã hồn nhiên xử dụng câu thơ ấy như lời nói thường ngày mà không hề biết rằng lời nói thường ấy chính là một lời thơ, của một thi sĩ. Nhà thơ lớn không chỉ bất hủ với văn học, mà còn bất hủ với đồng loại, với cùng thời, với cái cao quý nhất của đời sống là đời sống hàng ngày là vậy. Dân gian đã nói thường với nhau, chứ không phải đã đọc thơ, như thế, hàng trăm câu thơ Nguyễn Du.

Từ cộng sản chiếm được miền Nam, hơn ba triệu người Sài Gòn đều "nói" Vũ Hoàng Chương. Thấy nhau là "Lũ chúng ta lạc loài năm bảy đứa." Gặp nhau là "Lũ chúng ta đầu thai lầm thế kỷ..." Thật cảm động và cũng thật tức cười. Và đó cũng là một lý do nữa trong những lý do gây tai họa sắp tới cho thi sĩ.

Hà Nội văn nghệ vào Nam đủ mặt, chỉ một hai người dám liều tới thăm Gác Bút, như Vũ Đình Liên, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Lưu Trọng Lư, còn nhóm người cùng một thời Tự Lực với ông như Xuân Diệu, Huy Cận, Thế Lữ, Hoài Thanh, hoặc vì đố kỵ với tiếng thơ lẫy lừng của thiên tài, hoặc vì hèn nhát sợ bị liên lụy, đều tránh mặt.

Lê Đạt nói về tình cảm Đào Duy Anh dành cho ông:

Tức là đã lâu lắm, mấy chục năm tôi không gặp anh Ðào Duy Anh nữa, tại vì nhà anh ấy ở rất xa, mà anh ấy lại ở thế hệ khác, mình chẳng có cái gì mà bàn với anh ấy cả. Và hai là, anh ấy không muốn tiếp xúc với những người Nhân Văn cũ, anh rất ngại. Sau này, vì tình hình nó mở ra, thì hôm ấy Mặt trận Tổ quốc tổ chức ngày sinh nhật thật trọng thể 80 năm của anh Ðào Duy Anh. Chị còn lạ gì tôi, tôi không thích đến những cuộc đông đảo như vậy bao giờ cả, tính tôi là người như thế. Tôi đã đắn đo lắm, thì anh Ðào Duy Anh có nói với em anh ấy là Ðào Phan, Ðào Phan là bạn tôi, bảo rằng: “Thế nào cũng bảo Lê Ðạt tới”. Khi anh ấy nói như thế thì nhất định là tôi phải tới rồi. Ðào Phan có dẫn tôi đến chỗ ông Ðào Duy Anh, đông lắm, mọi người những học trò rồi là những người lâu lắm mới lại gặp, ông Ðào Duy Anh xuất hiện thì mọi ngưòi quý lắm, tôi có đến chào anh Ðào Duy Anh thì anh Ðào Duy Anh quay lại ngay. Tôi nói: “Chào bác, thế nào bác còn nhớ tôi không?” Thì anh Ðào Duy Anh có nói một câu mà tôi rất cảm động: “Làm sao mà quên được, bục công an chứ gì!” Thì tôi mới biết là trong mấy chục năm nay ông ấy không bao giờ quên mình cả! Ðấy là cái quan hệ giữ tôi và anh Ðào Duy Anh. Như thế những người ở trong Nhân Văn ấy, mặc dù không gần gũi nhau như trước nữa nhưng trong thâm tâm người ta vẫn dành một chỗ nào nhất định để đối xử với nhau. Ðó là một tình bạn rât hiếm ở một nước như nước Việt Nam.

Bà Trần Thị Như Mân

Xuất thân trong một gia đình dòng dõi quan lại triều Huế. Cha bà từng làm đến Tổng đốc Nghệ An. Còn nhỏ, bà được đi học ở trường Tiểu học Pháp - Việt, sau đó học ở trường Đồng Khánh (Huế). Năm 18 tuổi, bà đỗ cao đẳng tiểu học và được bổ nhiệm làm giáo viên kiên giám thị trường Đồng Khánh. Ngay năm đầu tiên dạy ở trường Đồng Khánh, bà là người đã vận động một số nữ giáo viên khác gửi một bức điện cho toàn quyền Pháp ở Hà Nội đòi ân xá cho Phan Bội Châu khi biết tin chính phủ pháp kết án tử hình. Bà cùng với nữ sử Đạm Phương thành lập “Nữ công học hội”. Mục đích của Hội là dạy “Công việc gia chánh không phải chỉ là việc trong gia đình, mà còn nhằm mục đích nuôi sống bản thân mình. Muốn tham gia công việc xã hội, người phụ nữ trước hết phải sống tự lập về mặt kinh tế”.

Ít năm sau, chính bà lại tham gia lễ tang của Phan Chu Trinh. Đám tang này đã trở thành một cuộc tình tuần hành chống chính quyền đo hộ Pháp. Vì điều này bà bị bãi chức, đuổi khỏi trường Đồng Khánh.

Không muốn phụ thuộc gia đình, bà tìm mọi cách để học một nghề kiếm sống. Bà đã từng lặn lội từ Huế ra Hà Đông (Hà Nội) để học nghề dệt bằng khung cửu cải tiến, rồi học nghề trồng rau, nuôi tằm lấy kén, làm mỹ phẩm…

Trong thời gian này bà gia nhập Tân Việt Đảng và giao nhiệm vụ tổ chức Phụ nữ đoàn nhằm tuyên truyền giác ngộ các chị em trước khi giới thiệu vào Đảng. Bà chủ trương ta tờ báo “Phụ nữ tùng san”. Tờ báo xin phép in lưu hành nhưng không được nên bà đã gia báo bằng cách nguỵ trang dưới dạng một cuốnvà cứ ra định kỳ. Phần đầu in sách từng trích đoạn trong cuốn “Những người khốn khổ” của Victor Hugo do bà tự dịch; phần sau là nội dung chính của tờ báo. Số 1 Phụ nữ Tùng san được ra vào tháng 5 năm 1929 và trở thành một trong hai từo báo phụ nữ đầu tiên của Việt Nam, cùng với tờ phụ nữ Tân Văn ở Sài Gòn.

Bà gặp và yêu ông Đào Duy Anh khi cả hai người cùng hoạt động trong Tân Việt cách mạng. Năm 1930 ông bà chính thức trở thành vợ chồng.

Ổn định gia đình bà lại bươn chải là ăn để nuôi chồng, nuôi con. Biết chồng có chí hướng viết sách, làm báo nên bà một mình lo toan mọi vấn đề kinh tế để ông có thời gian tập trung vào nghiên cứu.

Bà là người đã gợi ý cho công việc viết từ điển. cuốn Hán - Việt từ điển (cuốn từ điển đầu tiên của Đào Duy Anh) được in phần lớn do công của bà. Ông ở nhà viết Từ điển, mà cuốn đầu tiên là cuốn “Hán - Việt từ điển”. Bà là người đọc hết bộ Quan Hải tùng thư, rồi truyện Kiều Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm…trích những từ Hán - Việt hay những danh từ về chính trị - xã hội nào không hiểu ra, viết vào phiếu để ông viết lời giải thích. Sau đó bà lại tập hợp lại, sắp xếp theo thứ tự để biên tập thành từ điển. Vì vậy đây là cuốn Từ điển giải thích chữ không phải Từ điển thông thường. Sau khi hoàn thành, vì điều kiện lúc đó không có đủ tiền in, bà đã nghĩ ra cách chia cuốn từ điển thành nhiều tập. Tập đầu bà in thật mỏng đưa cho mọi người xem. Nhưng ai thích thì đặt tiền cho bà in những tập sau. Với cách đó bộ từ điển đẫ được xuất bản hết.

Sau khi ra được cuốn Hán - Việt từ điển, ông bà tiếp tục làm cuốn Pháp - Việt từ điển. Pháp - Việt từ điển có cả những phần giải nghĩa ra chữa Hán để những người không biết chữ quốc ngữ sử dụng. Như vậy có thể gọi từ điển Pháp - Việt – Hán.

Bà Trần Thị Như Mân cũng là người đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Bà là người thúc đẩy phong trào tự học ở Huế. Hiệu sách Vân Hoà của bà được coi là lớn nhất Huế với đủ loại sách Pháp - Việt – Hán…và cả sách Macxit, các vị Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Chí Diễu, Hải Triều, Phan Đăng Lưu đều tự học từ hiệu sách Vân Hoà của bà.

Vốn xuất thân từ nhà giáo dục, mặc dù đã làm nhiều nghề khác nhau, nhưng việc trông nom dạy dỗ học sinh vẫn là niềm ao ước của bà. Bà đã vận động một số bạn bè làm giáo viên thành lập trường Nữ giáo dành cho những học sinh không thi được vào trường Đồng Khánh học. Nữ giáo là ngôi trường tư thục nữ đầu tiên và duy nhất từ trước đến nay.

Sau cách mạng tháng tám bà là Chủ tịch Hội phụ nữ cứu quốc Thừa Thiên - Huế, rồi Uỷ viên Ban chấp hành TW Hội LHPN Việt Nam, rồi tham gia phụ trách trại nhi đồng miền Bắc. Năm 1965, vì lý do sức khoẻ, bà được nghỉ hưu. Nhưng cũng chính từ thời gian này, bà lại có nhiều thời gian để giúp chồng viết sách.

Sau khi Đào Duy Anh mất bà quyết định viết hồi ký. Cuốn hồi ký viết xong trong năm 1988 nhưng đến tháng 5-1992 mới được Nhà xuất bản Trẻ phát hành sau khi bà qua đời được 3 tháng.

Mối lương duyên chính trị của vợ chồng Đào Duy Anh với Đảng Tân Việt.

Ngày 14 tháng 7 năm 1925, một số tù chính trị cũ ở Trung kỳ như Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên,... một số giáo viên như Trần Mộng Bạch, Trần Phú, Hà Huy Tập... và một số nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... đã lập ra Hội Phục Việt (còn được gọi là Đảng Phục Việt) sau đổi tên thành Hội Hưng Nam. Đến năm 1926 đổi thành Việt Nam Cách mệnh Đảng. Đến tháng 7 năm 1927 lại đổi thành Việt Nam Cách mệnh Đồng chí Hội. Hội đã nhiều lần họp bàn với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên nhưng thất bại. Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội họp đại hội tại Huế quyết định lấy tên là Tân Việt Cách mệnh Đảng. báo cáo tình hình của đảng và thòng báo cho các kỳ bộ thòi điểm họp đại hội. Chiều 13.7.1928, cùng tại nhà Đào Duy. Anh đà diễn ra cuộc họp trù bị cho đại hội.

Chủ trương của hội là lãnh đạo quần chúng trong nước, và liên lạc với các dân tộc bị áp bức trên thế giới nhằm "Đánh đổ đế quốc, xây dựng một xã hội bình đẳng, bác ái...". Lực lượng chủ yếu là các trí thức, thanh niên tiểu tư sản yêu nước. Hội hoạt động chủ yếu ở phạm vi các tỉnh Trung kỳ.

Năm 1928 Việt Nam Quốc dân Đảng cử Hoàng Văn Tùng liên lạc với Đảng Tân Việt trong khi Nguyễn Ngọc Sơn và Lê Văn Phúc thương thảo với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên hầu tìm cách thống nhất tất cả các phần tử chống thực dân Pháp nhưng không đạt được sự đồng thuận nên ba nhóm này tiếp tục con đường riêng. Sau khi thành lập, Phục Việt tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu bằng việc rải truyền đơn tại Hà Nội. Sợ bị lộ nên đầu năm 1926, Phục Việt đổi tên thành Hội Hưng Nam. Đến năm 1926 đổi thành Việt Nam Cách mạng Đảng. Tháng 7 năm 1927 lại đổi thành Việt Nam Cách mạng đồng chí hội. Ngày 14 tháng 7 năm 1928, Hội Việt Nam Cách mạng đồng chí hội họp Đại hội tại Huế và quyết định đổi tên đảng thành Tân Việt Cách mạng Đảng. Đại hội đã bầu Ban lãnh đạo mới gồm: Đào Duy Anh phụ trách Tổng Bí thư, Ngô Đức Diễn là ủy viên tổ chức và tài chính, Phan Đăng Lưu là ủy viên tuyên huấn.

Về tư tưởng chính trị, Đảng Tân Việt xác định: “Liên hợp cả các đồng chí trong ngoài, trong thì dẫn đạo công nông binh, quần chúng; ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa đặng kiến thiết một xã hội bình đẳng và bác ái mới”.

Thành phần xã hội của Đảng Tân Việt chủ yếu gồm các phần tử thanh niên trí thức, học sinh, công chức, tiểu thương và công nông, đặc biệt là những người có học.

Địa bàn hoạt động chủ yếu của Tân Việt là các tỉnh miền Trung, mạnh nhất là ở Nghệ - Tĩnh. Đến cuối năm 1928, ở đây số lượng đảng viên đã lên tới 612 người, gây dựng được cơ sở trong các nhà máy, xí nghiệp, đường phố và các vùng nông thôn.

Do chịu ảnh hưởng tư tưởng mácxít, nhiều đảng viên Tân Việt đã chuyển sang hoạt động cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đảng Tân Việt hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên phát triển mạnh nên các đảng viên Đảng Tân Việt chịu ảnh hưởng từ tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, tác phẩm Đường Kách Mệnh được coi như kim chỉ nam của hội viên Đảng Tân Việt. Nội bộ Tân Việt ngày càng phân hóa thành 2 khuynh hướng rõ rệt: dân tộc tư sản và dân tộc xã hội chủ nghĩa. Những người trong Ban lãnh đạo Tổng bộ đều đứng trên lập trường dân tộc tư sản. Giữa năm 1929, những người theo khuynh hướng dân tộc tư sản trong Ban lãnh đạo Tổng bộ Tân Việt đã công bố đề án thành lập “Khối quốc gia”. Trước tình hình đó, những đảng viên tích cực, cấp tiến dưới ảnh hưởng tư tưởng cộng sản của Đảng Tân Việt đã nhóm họp và đi đến tiến hành cuộc vận động thành lập một tổ chức cộng sản lấy tên là Đông Dương Cộng sản Liên đoàn. Ngày 24 tháng 2 năm 1930, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn đã gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.


Tháng 7-1929 Đào Duy Anh và Trần Thị Như Mân bị bắt. Tháng 6-1930 cả hai người bị xử án treo 3 năm và 3 năm quản thúc. Ông bà làm lễ cưới và không hoạt động chính trị nữa, chuyển sang hoạt động văn hóa.

Tuy nhiên việc bị bắt đã để lại cho Đào Duy Anh nhiều hệ lụy, có một số đối tượng vì lý do cá nhân đã vu cáo ông khai báo, cộng tác với mật thám Pháp. Thậm chí họ còn gắn việc này vào sinh mệnh chính trị vào các em ông., nhất là với Đào Duy Kỳ và Đào Duy Dếnh.

Người học trò Võ Nguyên Giáp.

Trong thời gian Đào Duy Anh dạy học ở Đồng Hới, Võ Nguyên Giáp có theo học ông. Sau khi ông hoạt động tại Huế, Võ Nguyên Giáp Võ Nguyên Giáp đến làm việc tại Quan Hải tùng thư - Nhà xuất bản của Tổng bộ Tân Việt do Đào Duy Anh sáng lập. Từ đó, Đào Duy Anh giới thiệu Võ Nguyên Giáp với cụ Huỳnh và được cụ bảo lãnh nhận làm biên tập báo Tiếng Dân. Điều này như một nhân duyên. Bởi, trước đó Võ Nguyễn Giáp đã đến với nghề báo, khi đó còn là học sinh Trường Quốc học Huế với bài báo đầu tiên bằng tiếng Pháp được gửi đăng trên tờ L’Annam ngày 24.3.1927 do luật sư Phan Văn Trường ở Sài Gòn làm chủ nhiệm với tựa đề “Đả đảo tên tiểu bạo chúa ở trường Quốc học!”. Bài báo đã để lại ấn tượng sâu sắc đối với người làm báo lúc bấy giờ.

Trong thời gian làm việc ở báo Tiếng Dân, dưới sự hướng dẫn của cụ Huỳnh, Võ Nguyên Giáp đọc nhiều sách về chính trị, kinh tế - xã hội để nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích vấn đề thời sự đang diễn ra trong nước và thế giới. Viết nhiều bài chính luận, xã hội, khoa học mang quan điểm mác-xít. Tuy nhiên, những bài viết của Võ Nguyên Giáp giai đoạn này bị kiểm duyệt hết sức nghiêm ngặt.

Võ Nguyên Giáp là thư ký của nhà xuất bản, anh sinh hoạt trong một tiểu tổ bí mật của Đảng Tân Việt do Đào Duy Anh làm tổ trưởng. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp" và báo "Người cùng khổ" (Le Paria) từ Pháp gửi về.

Từ năm 1929, Võ Nguyên Giáp trở thành một trong những thành viên trong nhóm hạt nhân của Đảng Tân Việt. Anh tích cực vận động cho tổ chức này gia nhập Đảng Cộng sản.

Tháng 9-1945, Võ Nguyên Giáp khi là Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã giải cứu Đào Duy Anh bị chính quyền cách mạng Huế bắt giam và báo cáo với Hồ Chủ tịch.

Trong cuộc nói chuyện với Ngô Vĩnh Long, Đào Duy Anh có ý trách Võ Nguyên Giáp là nhiều năm không gặp ông từ sau vụ Nhân Văn. Mãi đến khi em trai ông là Đào Duy Kỳ mất tháng 3-1980, Võ Nguyên Giáp tới viếng Đào Duy Kỳ tại nơi tổ chức lễ tang thì hai người mới gặp và nói chuyện với nhau.

Theo hồi ký của bà Mân thì mấy năm sau đó Võ Nguyên Giáp có đến nhà thăm Đào Duy Anh người anh, người thày cũ của mình nhưng cuộc gặp mặt diễn ra buồn thảm.

Đầu năm 1987 anh Võ Nguyên Giáp có cho một sĩ quan trẻ đến hẹn hôm sau anh sẽ đến thăm. Đó là lần đầu tiên anh hẹn đến nhà, chúng tôi dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ để chờ. Nhưng suốt cả ngày hôm sau không thấy anh đến và cũng không cho người báo lại. Mãi đến cuối năm đó hai vợ chồng anh mới đến., các con chúng tôi cũng đi vắng cả, chỉ có mình tôi ở nhà. Khi hỏi anh có biết ai đến thăm không thì anh không trả lời mà vẫn quay mặt vô tường… Sau lần đến thăm đó, thấy nhà tôi nằm lâu bị loét ở lưng, anh Giáp đã can thiệp với Bộ y tế cho chúng tôi mượn một cái võng đệm cao su dùng cho người bệnh phải nằm liệt.

Anh em của Đào Duy Anh

Kiều Mai Sơn:

Hôm qua, 24/2/2024, nhằm vào ngày rằm tháng giêng năm Giáp Thìn, ngày giỗ thứ 44 của ông Đào Duy Kỳ (1916 - 1980), tôi có viết về ông Kỳ và đưa thông tin 3 anh em trai trong gia đình ông đều đi tù Côn Đảo. Nhưng tôi chỉ nêu tên ông Kỳ và em trai út - ông Dzếnh (bút danh Đào Phan). Cụ anh Lô Huy có băn khoăn vì đếm đi đếm lại vẫn thấy thiếu 1 người.

Hôm nay, tôi xin chép hầu cụ anh Lô Huy người tù Côn Đảo thứ 3 của dòng họ Đào Duy. Đó là ông Đào Duy Phiên. Xin được dẫn lại từ tư liệu trong hồi ký của người em dâu út ông Phiên viết về anh chồng của mình:

"Anh Đào Duy Phiên:

Theo các anh chị em Họ Đào đều nói rất giống bố đẻ. Giống cả hình hài, khuôn mặt đến tính nết hiền lành nhân ái.

Bác sinh năm 1910, theo anh cả Đào Duy Anh được đi học từ 1924 ở Quảng Bình, sau đó vào trường Quốc học Vinh, đến năm 1929 vào Huế tốt nghiệp cao đẳng tiểu học tại trường Quốc học Huế. Bác thông thạo tiếng Hán, tiếng Pháp.

Bác ưa văn chương, văn hóa và đàm luận chính trị. Tháng 2 năm 1930, bác được bổ làm Thư ký Bưu điện Sài Gòn, rồi chuyển đi Bạc Liêu, Cần Thơ, cuối 1935 về lại Bưu điện Sài Gòn. Đến năm 1941 thì người Pháp chuyển bác sang Bưu điện Pak-cế Lào vì tham gia hoạt động chính trị.

Ở Sài Gòn ông vào Đảng Xã hội SFIO chi nhánh miền Nam, làm Tổng thư ký Công đoàn Bưu điện miền Nam, tham gia Ban chấp hành Nghiệp đoàn công chức Pháp - Việt (Nam Kỳ), làm Chủ nhiệm kiêm Chủ bút báo THỢ THẦY của Công đoàn Bưu điện miền Nam. Với những hoạt động đấu tranh công khai cho quyền lợi công nhân lao động và hoạt động báo chí theo chủ trương của Đảng Xã hội mà ông bị thực dân Pháp bắt vào tháng 4-1941 tại Pak - cế Lào, xử tù 7 năm đầy đi Côn Đảo.

...

Sau cách mạng tháng 8, bác và cùng nhiều chính trị phạm được đón về. Khi Pháp gây hấn ở Nam Bộ, bác là Chủ tịch “Hội giúp binh sĩ bị nạn và vận động ủng hộ kháng chiến” tại Huế. Pháp chiếm lại Huế, gia đình bác ra Thanh Hóa, làm Chủ tịch Uỷ ban Liên Việt huyện Nông Cống (tiền thân của Mặt trận Tổ quốc hiện nay), kiêm dậy trường tư thục. Năm 1955, về Hà Nội làm giáo viên đến hưu trí.

(Nguồn: Phan Thị Bội Hoàn (hồi ký): Dâu họ Đào - Sách chưa xuất bản).


Đào Duy Kỳ


Đào Duy Kỳ (1916 - 1980), ông quê gốc ở Khúc Thủy, Hà Tây, sinh ngày 4-9-1916, tại huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Tốt nghiệp Thành chung trường Quốc học Huế năm 1934, Đào Duy Kỳ ra Hà Nội học Ban Tú tài (1935), hoạt động cách mạng trong thanh niên học sinh và thanh niên lao động.

Hai mươi tuổi, Đào Duy Kỳ được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1937, khi Đảng thành lập Đoàn Thanh niên Dân chủ, Đào Duy Kỳ được chỉ định làm Tổng thư kí, với sự cộng tác của những cán bộ thanh niên đầy nhiệt huyết, như Nguyễn Thường Khanh (tức nhà thơ Trần Mai Ninh), Lê Hữu Kiều (tức nhà phê bình văn học Nam Mộc)… Cùng với các cộng tác viên của mình, thời kì này Đào Duy Kỳ chủ yếu hoạt động trên mặt trận báo chí, dùng báo chí làm công cụ tuyên truyền giác ngộ thanh niên, đưa họ vào tổ chức, hoạt động cho phong trào.

Đầu tiên ông được cử làm chủ bút báo “Bạn dân”, cơ quan hoạt động công khai của Đoàn Thanh niên Dân chủ. Năm 1938, sau khi báo “Bạn dân” bị đình bản, tờ “Thế giới” ra đời, với chủ bút vẫn là Đào Duy Kỳ.

Ngoài báo Đoàn, ông còn góp sức vào việc tổ chức và biên tập các báo xuất bản công khai của Đảng thời bấy giờ như “Thời thế”, “Tin tức”, “Le Travail”, “Notre Voix”. Với ngòi bút chiến đấu xuất sắc đầy nhiệt huyết của mình, tên tuổi Đào Duy Kỳ với bút danh Trường Sơn trở nên rất quen thuộc trong giới thanh niên cách mạng cả nước.

Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp sụp đổ. Thực dân Pháp tiến hành một cuộc tổng khủng bố trên toàn cõi Việt Nam. Nhiều tổ chức cơ sở của Đảng và quần chúng cách mạng bị tan vỡ. Hàng loạt cán bộ đảng viên bị bắt. để bảo toàn lực lượng, Đảng chủ trương rút vào hoạt động bí mật.

Trong vòng bí mật, Đào Duy Kỳ vẫn hoạt động rất sôi nổi, lăn lộn, xông pha trên một địa bàn khá rộng, bao gồm các tỉnh trung du và miền núi. Với sự tín nhiệm cao, ông được Đảng cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ, rồi Bí thư Tỉnh ủy khu D gồm các tỉnh dọc theo tuyến đường sắt Hà Nội – Lào Cai là: Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái, và đã có thời kì từng giữ Quyền Bí thư Xứ ủy Bắc Kì (năm 1940-1941).

Cuối năm 1941, sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, Mặt trận Việt Minh được thành lập, Đào Duy Kỳ được cử lên Cao Bằng tham gia biên soạn tài liệu và giảng các lớp huấn luyện cán bộ tài vùng căn cứ bí mật của cách mạng. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, tháng 6/1942 trên đường trở về Hà Nội, ông bị mật thám Pháp đón bắt tại làng Cổ Nhuế, một làng ngoại thành và cũng là cơ sở cách mạng.

Thực dân dùng nhiều thủ đoạn mua chuộc Đào Duy Kỳ đều thất bại. Cuối cùng, Tòa án quân sự kết án chung thân khổ sai, đày đi địa ngục trần gian Côn Đảo.

Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945 giải phóng đất nước, ra khỏi nhà tù, chưa thể về miền Bắc, Đào Duy Kỳ ở lại làm Bí thư kiêm Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Kháng chiến Liên tỉnh miền Đông Nam Bộ.

Giữa năm 1946, Trung ương Đảng điều ông ra Hà Nội thành lập Đoàn Thanh niên Việt Nam do ông làm Tổng đoàn trưởng. Thành lập đoàn thể này nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp thanh niên còn đứng ngoài Đoàn Thanh niên Cứu quốc, cùng tham gia kháng chiến, hoạt động rất sôi nổi.

Sau khi cơ quan Trung ương dời lên chiến khu Việt Bắc, năm 1948 ông được cử làm Trưởng tiểu ban Huấn học kiêm Phó Giám đốc trường Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh). Từ năm 1951, ông tham gia Thường trực Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng.

Ông là người có công thành lập Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam từ đầu năm 1959, và là Chủ tịch Hội đồng Khoa học đầu tiên của Viện. Giới chuyên môn và học trò đều kính trọng gọi ông là Nhà Bảo tàng học.

Đào Duy Kỳ có công lớn trong việc bảo tồn, phát huy truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc, phát động phong trào hoạt động văn hóa quần chúng bằng cách tổ chức các câu lạc bộ, nhà văn hóa ở cơ sở nông thôn, phục hồi các lễ hội có ý nghĩa lịch sử và tôn giáo, giữ gìn các thuần phong mĩ tục của dân tộc…

Đà Nẵng đặt tên ông cho đoạn đường từ đường Tôn Quang Phiệt đến đường Đỗ Anh Hàn, chiều dài 490 m, đặt tên là Đào Duy Kỳ, thuộc Khu dân cư An Hòa, quận Sơn Trà.

Đào Duy Dếnh (1920 - 1996)

Ông còn có tên là Đào Phan, sinh tại xã Trung Chính, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa.

Ông tham gia cách mạng từ sớm. Năm 1938, ông làm Trưởng ban cán sự Đảng tại TP Huế. Bị thực dân Pháp bắt giam, ông đã vượt ngục về công tác ở Thuận Hải.

Năm 1940, ông làm Bí thư Thành ủy Hà Nội, khi vừa tròn 20 tuổi. Năm 1942, ông bị thực dân Pháp đày đi Côn Đảo. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, ông về đất liền và trở lại hoạt động ở Huế làm Đội trưởng Đội Tuyên truyền xung phong Việt Minh Trung Bộ, tập hợp những thanh niên trí thức đi đến tận những vùng rừng núi, những thôn xóm xa xôi hẻo lánh diễn thuyết, diễn văn nghệ tuyên truyền cho chính phủ, sau đó làm Trưởng ty Thông tin Thanh Hóa. Ông cũng đảm nhận chức vụ Phó Chủ tịch Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên lâm thời.

Năm 1947, ông làm Chủ nhiệm báo Quân du kích, tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay. Năm 1950 ông được bổ nhiệm Phó Giám đốc Nhà xuất bản Vệ quốc quân.

Cuối năm 1950 Đào Duy Dếnh bị bắt đi tù, được ra tù khoảng giữa năm 1954.

Sau đó ông công tác ở Báo Quân đội nhân dân rồi Bảo tàng quân đội. Từ 1978 ông được nghỉ hưu với quân hàm thiếu tá và chuyên tâm làm nghiên cứu văn hóa. Quãng thời gian cuối đời, ông Đào Duy Dếnh hoàn thành ba công trình nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là: Hồ Chí Minh – Danh nhân văn hóa; Hồ Chí Minh – Một nhân cách lớn; Đạo Khổng trong văn Bác Hồ. Đây là những tác phẩm có giá trị lớn phục vụ cho Hội thảo Danh nhân Văn hóa Hồ Chí Minh của tổ chức UNESCO.

Ông không được công nhận chế độ lão thành cách mạng do bị nghi án khai cung trong nhà tù Sơn La mà người kết tội ông lại là ông Lê Đức Thọ, bạn tù, do có tư thù với nhau. Mãi đến cuối những năm 80 đầu 1990 dưới sức ép của nhiều lão thành cách mạng là bạn tù Sơn La, các cơ quan chức năng mới vào cuộc xác minh. Đơn vị của tác giả đã làm việc với Cục Bảo vệ quân đội xem xét lại hồ sơ của ông. Chúng tôi đã đi đến kết luận là những lời buộc tội ông trong hồ sơ của ông Lê Đức Thọ chỉ là truyền miệng chứ không hề có chứng cứ. Sau khi có công văn của đơn vị tôi các cơ quan chức năng đã trả chế độ lão thành cách mạng cho ông Đào Phan.

Ông mất năm 1996 tại Hà nội.

Có người hỏi tất cả anh em trai ông Đào Duy Anh đều bị bắt đi tù, bị đứt đoạn về đường công danh, Vậy về phong thủy mồ mả tổ tiên có vấn đề gì không? Một vài con cháu hiện nay mà tôi quen biết không biết về bí mật này. May trong số học trò của Đào Duy Anh có một người để ý đến việc này. Đó là Trần Quốc Vượng. Ông cho biết:

Tôi là người làm khảo cổ và do đó có góp phần tìm lại ngôi mộ tổ họ Đào, để các chi họ Đào xây lại đàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đi công tác khảo cổ cùng thày vào xứ Thanh 1958 cùng với cả em thày, nhà cách mạng Đào Duy Kỳ, khi ấy là chuyên viên cao cấp Vụ Bảo tồn, bảo tàng- Bộ Văn hóa, thày chỉ cho tôi ngôi mộ tổ họ Đào trên đỉnh “một trăm hòn Rú Kẻ Đông” (Núi Đông Sơn gần Hàm Rồng). Và bảo (năm 1958) là năm đấu tranh chống Nhân Văn Giai Phẩm:

Mộ tổ nhà họ Đào chúng tôi, theo phong thủy học, chôn trên mảnh đất con Rùa. Thi thoảng nó lại nho vươn cái cổ ra… rồi khi bị đập nó lại rụt liền ngay cái cổ lại!

… Dù đã nghiệm sinh nhiều uẩn khúc suộc đời, dù đã trải qua nhiều hoàn cảnh nghiệt ngã, với một thân xác luôn đau yếu, với râu tóc ngày một bạc màu, kì lạ thay, thày Đào Duy Anh vẫn không gục ngã. Mà trái lại dẫu vẫn u buồn, Đào Duy Anh vẫn bền bỉ chịu đựng, dành tâm lực vào những đề tài nghiên cứu mới.

(Trần Quốc Vượng Đào Duy Anh người miệt mài dò tìm bản sắc Việt Nam. Sách Học giả Đào Duy Anh NXB Văn học 2014)


Hà Nội tháng 2-2024