Trang chủ » Bầu bạn góp cổ phần

XÂY DỰNG HỆ GIÁ TRỊ XÃ HỘI VẤN ĐỀ MANG Ý NGHĨA NHẬN THỨC ĐỂ PHÁT TRIỂN

Phạm Quang Long
Thứ bẩy ngày 5 tháng 6 năm 2021 9:07 AM


(từ một góc tiếp cận vấn đề nghiên cứu)


1.Dẫn nhập: người ta bắt đầu nghiên cứu về giá trị khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Lúc đó câu hỏi đặt ra ở tầm vĩ mô là đi theo hướng nào, theo lộ trình nào, cần những điều kiện gì cả về vật lực, nhân lực, tổ chức xã hội v.v… để có thể đạt được những mục đích cần tới. Ẩn đằng sau những hướng đi này là những giá trị cả xã hội hướng tới được nhận thức và biến nó thành thực tế như thế nào? Câu hỏi đặt ra không phải cho một người mà cho một xã hội, thể chế, trong đó các trí thức, các nhà tư tưởng, các nhà văn hóa, các nhà quản lý xã hội đại diện cho thể chế là những người đầu tiên tìm cách giải quyết.Bởi, vị thế của họ có thể tác động tới quá trình này nhiều nhất. Nếu chọn đúng, họ góp phần thúc đẩy xã hội tiến những bước nhanh hơn tới sự phát triển và ngược lại, nếu sai, họ sẽ làm chậm lại quá trình phát triển và gây ra những hệ lụy lớn. Việc xác định nội hàm của hệ giá trị là việc của những nhà nghiên cứu, sau khi đã có độ lùi để đánh giá, tổng kết; còn lúc mới ở giai đoạn ban đầu, những người tiên khu vừa tìm đường hướng, vừa tổ chức thực hiện và thực tiễn sẽ trở thành thước đo sự chính xác những tìm kiếm và tài tổ chức của họ. Có công trạng hay sai lầm, thậm chí là tội đồ, lịch sử mới đưa ra những phán xét đúng nhất vì cần có những độ lùi và sự kiểm nghiệm. Như vậy, xét về bản chất đây là vấn đề tìm đường, nhận đường, vừa xác định xu hướng, vừa tìm tòi những nội dung cụ thể của những giá trị, vừa tìm cách đưa những quan niệm lý thuyết này vào đời sống. Xuất phát điểm của vấn đề là thiện chí, tích cực nhưng quá trình tìm kiếm và thực hiện lại có thể sai lầm bởi nhiều lý do, trong đó nhận thức về giá trị không đúng là nguyên nhân chính. Ở thời kỳ nào vấn đề mang tính quy luật ấy cũng là vấn đề của nhận thức, vừa là nhận thức lý thuyết, vừa là nhận thức thực tiễn. Những cuộc vận động duy tân đầu thế kỷ chính là sự tìm kiếm những giá trị xã hội khả dĩ cần thiết và giúp được xã hội Việt Nam thoát ra khỏi sự khủng hoảng toàn diện-khủng hoảng lạc hậu, khủng hoảng sai đường. Nhưng không phải những tư tưởng duy tân ban đầu đã được cả xã hội thừa nhận. Như vậy, mỗi nhóm xã hội, mỗi tầng bậc trong hệ thống quản lý thuộc hệ thống có những nhận thức khác nhau về hệ giá trị, quan tâm đến những giá trịthiết yếu nhất. Có giá trị tư tưởng, giá trị chính trị, giá trị đạo đức, giá trị kinh tế…Nhưng, điều dường như mơ hồ hơn cả lại mang ý nghĩa khởi đầu, có tầm bao quát nhất, có ảnh hưởng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội là nhận thức giá trị văn hóa, giá trị con người. Giá trị ấy sẽ được khúc xạ qua những hệ giá trị chuyên ngành, cụ thể như giá trị chính trị, luật pháp, tôn giáo, đạo đức…, trong nó, nếu đi đến tận cùng, có những yếu tố mang giá trị phổ quát của con người nói chung, hướng tới cái nhân loại nhưng trong các biểu hiện cụ thể, bao giờ nó cũng gắn với những biểu hiện quen thuộc của một dân tộc hay cộng đồng mang tính thiết yếu của cộng đồng, dân tộc ấy. Khi viết Việt Nam văn hóa sử cương từ 1938, học giả Đào Duy Anh cho rằng cụ viết cuốn này do “có chương trình mới về Văn hóa cho ngành giáo dục” và cụ cũng không soạn sách “theo cách phân phối chương trình của nhà nước” vì như vậy sẽ khó nói hết được những điều muốn nói. Cái “vốn văn hóa nước nhà” mà cụ muốn cho “mọi người ôn lại” bởi vào giai đoạn sách ra đời, học giả nhận thấy “cái bi kịch hiện thời của dân tộc ta là sự xung đột của những giá trị cổ truyền của văn hóa cũ ấy với những điều mới lạ của văn hóa tây phương. Cuộc xung đột ấy sẽ giải quyết thế nào, đó là một vấn đề quan hệ đến cuộc sinh tử tồn vong của dân tộc ta vậy. Nhưng muốn giải quyết thì phải nhận rõ chân tướng của bi kịch ấy, tức một mặt phải xét lại cho biết nội dung của văn hóa xưa là thế nào, một mặt phải nghiên cứu cho biết chân giá trị của văn hóa mới”. (Đào Duy Anh. Việt Nam văn hóa sử cương, Nxb Văn hóa Thông tin tái bản, Hà Nội, 2000, tr. 7-8). Thời cụ Đào viết cuốn này trong xã hội cũng diễn ra một cuộc đấu tranh về nhận thức nên lựa chọn những giá trị nào để phát triển và cái nhìn mang ý nghĩa phương pháp nhận thứcở đây là phải tỉnh táo để phân biệt chân, giả để cần lưu lại và phát triển những gì, cần thải loại những gì ngay cả khi những thứ cần từ bỏ bây giờ có lúc đã là thứ đáng giá nhưng bây giờ không còn mang ý nghĩa như trước nữa. Đó là sự lựa chọn để tồn tại và phát triển không phải của cá nhân mà vì sự tồn vong của dân tộc. Nó đòi hỏi một thái độ khoa học và một ý thức công dân cao trước cộng đồng. Bài học ấy cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị bởi thế giới ngày nay đã mở rộng các giới hạn đến mức thành “thế giới phẳng” và công dân của mỗi quốc gia đang có hướng phấn đầu trở thành công dân toàn cầu. Đành rằng, quốc gia nào cũng có lựa chọn riêng của mình nhưng “sân chơi chung” cũng đòi hỏi những nguyên tắc mà nếu mình không muốn bị bỏ lại phía sau thì cần phải chủ động tham gia vào quá trình ấy đồng thời cũng phải tuân thủ những nguyên tắc của “luật chơi”. Vấn đề lựa chọn và xây dựng hệ giá trị là đòi hỏi của phát triển, mà khởi đầu lại là nhận thức.

Đất nước chúng ta bắt đầu thực hiện đổi mới từ những năm 80 của thế kỷ trước. Cái mốc 1986 là cái mốc chính thức, dấu mốc chính trị chứ thực chất từ những năm trước đó trong tâm thế xã hội, nhu cầu đổi mới hệ giá trị xã hội đã được đặt ra. Trong thực tiễn cũng vậy nhưng lúc đó cả xã hội vẫn đang vận hành theo nếp cũ, tức là theo những tiêu chuẩn của hệ giá trị cũ, giờ đã tỏ ra bất cập nhưng chưa biết thay đổi thế nào cho phù hợp. Chưa nói đến việc xác lập hệ giá trị mới mà chỉ riêng việc nghĩ đến sự thay đổi hệ tiêu chí cũ, người ta cũng ngần ngại. Sự đổi mới của nhận thức những năm 80 của thế kỷ trước tạo ra những tiền đề quan trọng cho sự đổi mới và hội nhập nhưng sau vài thập niên, dường như chúng ta lại cần phải đặt ra một yêu cầu nữa của nhận thức đổi mới bởi ở giai đoạn này, cả động lực lẫn nội dung của đổi mới bắt đầu từ những năm 80 thế kỷ trước lại đòi hỏi phải nhận thức tiếp, đổi mới nữa. Và như vậy lại phải nhận thức lại một số vấn đề. Về bản chất, những điều chỉnh, bổ sung, đổi mới, thậm chí phủ định cái này, xây dựng cái kia…là một quá trình liên tục diễn ra, là đòi hỏi của cuộc sống. Không ít những giá trị của ngày hôm nay đã mang trong nó những mầm mống phải thay đổi từ khi nó đang còn tồn tại nhưng lại được điều chỉnh và duy trì chỉ do sự bảo trợ của những tổ chức có vai trò quyết định sự tiến về phía này hay phía kia của lịch sử.

2.Nhìn vào lịch sử, trước mỗi thử thách mang tính chất quyết định cho đường hướng phát triển của cộng đồng, những người có vai trò và ảnh hưởng quan trọng tới vận mệnh của đất nước, cộng đồng thường phải đứng trước một lựa chọn nghiệt ngã: nhận thức về môi trường xung quanh và chính mình để lựa chọn sự thay đổi mà điểm xuất phát quyết định sự thành bại lại là nhận thức lại chính mình. Khi Lý Thái Tổ quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, ông đứng ở vị thế của một người nhìn về tương lai, cho dù cũng chỉ từlợi ích của triều đại mình, để lo cho “nghiệp đế vương muôn đời”. Cái nhìn mang tính mở đường cho vị thế của một kinh đô mang tính chất địa-văn hóa, địa-chính trị thời ấy là một quyết định sáng suốt cho dù ông chưa hề biết đến khái niệm này. Nguyễn Trãi lựa chọn tư tưởng nhân nghĩa làm nền tảng cho sự phát triển của Đại Việt mà xương sống của tư tưởng nhân nghĩalà trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngươc, có nhân, có trí, có anh hùngđể xã tắc từ đây vững bên, non sông từ đây đổi mới. Trần Hưng Đạo nói cái gốc của kế sách giữ nước là khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốcvà đó là tiêu chí của việc trị quốc, an dân. Còn Hồ Chí Minh nói rõ hơn về vai trò của văn hóa, coi văn hóa mới có ý nghĩa mở đường cho phát triển, văn hóa soi đường cho quốc dân đi, văn hóa thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc. Những tư tưởng lớn ấy tuy chưa nói gì đến hai chữ giá trị, hệ giá trị nhưng từ gốc rễ, đó là những định hướng cho sự phát triển, là những giá trị mang tính chất phổ quát, quan trọng, đúng hướng đối với một đất nước, dân tộc mà ngày nay khi suy nghĩ một cách nghiêm túc về những điều đó, chúng ta sẽ nhận thức ra những bài học trong việc nhận đường về những giá trị nào cần thiết cho sự phát triển tiếp theo của đất nước trong một giai đoạn có nhiều biến đổi về giá trị ở phạm vi toàn cầu như ngay hôm nay.

3. Hệ giá trị văn hóa do con người sáng tạo ra nhưng không phải ở thời nào những giá trị được xây dựng cũng tương ứng với sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người. Thể chế có nhu cầu xây dựng hệ giá trị của thể chế (được coi như những giá trị mang tính chính thống) và đời sống tự bản thân nó cũng tạo ra những giá trị không phải bao giờ cũng trùng với giá trị được thể chế ấy tạo ra. Những giá trị ấy có sự giao thoa với nhau, có khi là một, có khi có những vênh lệch, thậm chí trái ngược. Hệ giá trị thể chế tạo ra được xây dựng từ nhu cầu của thể chế và giá trị do đời sống tạo ra bổ sung cho hệ giá trị chính thống, có khi điều chỉnh hệ giá trị chính thống. Bởi thế mà V. Lenin đã nói có hai xu hướng, hai dòng văn hóa cùng tồn tại trong một nền văn hóa của mỗi dân tộc là vì vậy. Cũng không phải ngẫu nhiên mà từ thời cổ đại đến giờ câu hỏi con người, anh là ai, thái độ của con người trước những thời điểm mang tính thử thách cho cả cộng đồng với tư cách là một cá nhân-thành viên của cộng đồng thế nào lại luôn là câu hỏi lớn, không dễ trả lời. Bởi lẽ giản đơn, khi xác định đúng vấn đề con người, xã hội sẽ định hình được sự phát triển và như chúng ta hay nói, phát triển có bền vững hay không, phụ thuộc vào chỗ xã hội ấy có tạo cho con người được phát triển đúng như những yêu cầu thời đại cần đến nó hay không? Từ chỗ xác định được mục tiêu về con người (chưa nói đến điều đó đúng đến đâu) đến khi tổ chức thực hiện được trong thực tiễn lại là một chuyện hoàn toàn khác. M.Gorki nói đến CON NGƯỜI viết hoa, con người được coi trọng, con người làm chủ, con người tiến bộ trong thể chế xã hội chủ nghĩa ở quê hương ông, sau mấy chục năm đã sụp đổ do không có cơ sở thực tiễn để tồn tại, mặc dù cả thể chế đã dồn sức để chăm lo và xây dựng cho nó trở thành biểu tượng cho con người được phát triển toàn diện nhất. Nó sụp đổ vì nhiều lý do, trong đó có một lý do quan trọng là một thời gian khá dài, do những yêu cầu của thể chế mà xã hội, giới nghiên cứu hiểu chưa đầy đủ và xác định chưa đúng vai trò của cá nhân trong cộng đồng, những nguyên tắc xây dựng xã hội không từ con người thực tiễn, bản thể mà từ những lý thuyết dù rất nhân văn, thậm chí rất cao siêu về con người nhưng chứa đầy những ảo tưởng. Trong khoảng mấy thập niên đó, người ta đã xây dựng nên rất nhiều lý thuyết về giá trị mang tính nhân văn rất cao, mang ý nghĩa tiến bộ cho con người nhưng những lý thuyết về giá trị ấy không làm cho con người thực tiễn trở nên hoàn thiện hơn. Vấn đề đặt ra ở đây là vì sao lại có hiện tượng này? Ở một số nước tư bản phương Tây hay Bắc Âu, người ta cũng xây dựng những giá trị cho đất nước họ như ở Mỹ là “giá trị Mỹ”, ở Pháp, từ sau cách mạng 1789 đến nay, vẫn là tự do, bình đẳng, nhân đạo, ở Bắc Âu là những giá trị cốt lõi về quyền của con người như nhân tố quan trọng nhất làm nền tảng cho các quan hệ xã hội. Ngay bên cạnh chúng ta, đất nước Trung Quốc vừa gần gũi, vừa xa lạ cũng xác định xây dựng một “xã hội khá giả”, “đặc sắc Trung Quốc”. Về thể chế ngoài chúng ta là mô hình xã hội tư sản hoặc hình thức là quân chủ nhưng thực tiễn lại là dân chủ tư sản (Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ, Nhật Bản, Thái Lan…) và các quốc gia ấy có những hệ giá trị riêng để phát triển nhưng qua khảo sát chưa đầy đủ của chúng tôi, những nguyên tắc về phát triển văn hóa và con người ở các quốc gia ấy có những điểm chung. Nói như thế để thấy giá trị của thể chế (bao gồm chính trị, tổ chức mô hình xã hội, luật pháp…) với những giá trị tinh thần khác không phải bao giờ cũng trùng nhau, cũng nằm trong một hệ giá trị nhất quán mà có những khác biệt. Chính sự đa diện ấy tạo nên sự cạnh tranh làm động lực cho sự phát triển. Ở các nước ấy, dù tính chất thể chế có khác nhau nhưng những giá trị cốt lõi của con người luôn được tôn trọng. Luật pháp và những hệ quy chiếu giá trị khác liên quan đến con người như giáo dục, y tế, quan hệ cộng đồng, an sinh xã hội…đều được xác định xung quanh tư tưởng chủ đạo là lấy con người làm trung tâm để phục vụ, lấy quyền con người, tự do và dân chủ của cá nhân và cộng đồng làm nền tảng cho sự phát triển. Đó là những khác biệt tạo nên giá trị ở họ. Từ nhà chính trị, doanh nhân cho đến công dân bình thường, giá trị của họ được xác định ở chỗ công dân ấy có phải là một công dânđược pháp luật thừa nhận và đóng góp gì cho cộng đồng và họ tuân thủ pháp luật thế nào? Mọi lựa chọn khác thuộc về hoạt động tinh thần như xu hướng chính trị, tự do cá nhân hay tôn giáo là quyền lựa chọn của cá nhân. Xã hội dân sự chỉ giải quyết các quan hệ công dân theo pháp luật.

4.Người ta tốn rất nhiều công sức để nghiên cứu và lý giải sự hình thành, phát triển và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội theo mô hình K. Marx đưa ra. Đến nay vẫn chưa có ý kiến cuối cùng bởi một vấn đề lớn như thế chắc không một cá nhân nào, dù là thiên tài, có thể cắt nghĩa hết được bởi sự phong phú đến mức phức tạp của các nội dung, lĩnh vực liên quan đến thể chế, tổ chức xã hội, con người v.v... một cách bài bản, có căn cứ. Riêng vấn đề con người, do liên quan đến tất cả mọi vấn đề khác, lâu nay được (hay bị) các nhà nghiên cứu từ các góc nhìn tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, đạo đức…mô hình hóa theo một luận điểm của K.Marx nên chỉ nhìn con người từ góc nhìn xã hội, tuyệt đối hóa góc nhìn ấy thành duy nhất đúng để xem xét giá trị của con người trong tất cả các quan hệ khác. K.Marx cho rằng bản chất con người không phải là cái gì trừu tượng mà “trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa toàn bộ các quan hệ xã hội”. Phát hiện của K.Marx so với các nhà triết học trước và cùng thời với mình không phải là đánh giá con người ở các khái niệm, mô hình đạo đức hay tinh thần mà phải ở trong các quan hệ thực tiễn mang tính xã hội. Góc nhìn này cho phép hiểu con người trong hoạt động đa diện của nó mà ở các quan hệ ấy, bản chất của nó mới bộc lộ ra hết chứ không phải ở một quan hệ nào đó, cho dù đó là quan hệ quan trọng có ý nghĩa quyết định. Đây là quan niệm nền tảng của triết học Marx, chủ nghĩa Marx để hiểu con người, xã hội, văn hóa, đạo đức…Nhưng ở đây cũng cần chú ý đến một điều khác: K.Marx chưa nói đến con người cá nhân, bản năng, tiềm thức, vô thức, di truyền…những yếu tố này có yếu tố xã hội (dù nhạt hơn, khó nhận ra hơn, ít nổi hơn các yếu tố xã hội căn bản như quan hệ chính trị, quan điểm xã hội, địa vị kinh tế v.v…), nhưng chủ yếu là của riêng nó, thuộc về nó, mang tính bản thể. Điều này đặc biệt quan trọng, nhất là với các nghiên cứu về lĩnh vực hoạt động tinh thần của con người vì khi nói về con người mà chỉ căn cứ vào một phần của nó với tư cách là đối tượng nghiên cứu, khó có thể mang lại một cái nhìn toàn diện, khách quan về đối tượng.Câu chuyện ngụ ngôn xẩm xem voi ở ta là một ví dụ điển hình cho quan điểm đánh giá sự vật chỉ từ một khía cạnh mà thiếu cái nhìn toàn diện, tổng thể. Ở đây cũng cần có quan niệm đúng khi xem xét thái độ ứng xử của nhà cầm quyền, thể chế chính trị với các vấn đề khoa học, nhất là các khoa học xã hội, nhân văn, khoa học nhận thức. Khoa học là khoa học, nó mang tính khách quan, chỉ phục tùng các quy luật của nó. Còn chính trị là ý chí chủ quan của một nhóm xã hội. Thể chế chính trị có lựa chọn sử dụng kết quả nghiên cứu khoa học hay không phụ thuộc vào nhu cầu lợi ích của thể chếcòn tính độc lập, những đòi hỏi chính xác của khoa học lại là chuyện khác, nó cần cho bản thân khoa học và cho tất cả, trong đó có lợi ích của thể chế. Nếu vì sự lựa chọn gắn với lợi ích mà làm nhận thức về đối tượng sai lệch thì hiển nhiên quan niệm đó không đúng, không toàn diện. Việc để quanđiểm chính trị chi phối đến sự khách quan, kết quả nghiên cứu khoa học là điều cần phải tránh vì nó để lại nhiều hệ lụy, bắt đầu từ cách tiếp cận đối tượng.

Con người, về bản chất là con người tự nhiên-xã hội, con người cá nhân-tập thể, cá nhân-cộng đồng. Bởi vậy, nó là sự kết hợp của nhiều yếu tố, nó mang tính đa nguyên cả ở góc độ sinh học lẫn góc độ xã hội. Và một xã hội được tạo nên bởi các cá nhân đa nguyên, một nền văn hóa đa nguyên cũng là một xã hội đa nguyên. Khế ước xã hội của J.J. Rousseau bàn về những nguyên tắc của quyền chính trị mang đậm tính chất Khai sáng, có ảnh hưởng lớn đến cuộc Cách mạng tư sản Pháp 1789, cũng được xây dựng trên sự nghiên cứu để điều chỉnh (thực chất là thỏa hiệp) quyền lợi của các cá nhân và nhóm xã hội chứ không phải là chỉ xuất phát từ lợi ích của một nhóm xã hội, cho dù nhóm ấy giữ vị trí quan trọng, có thể quyết định sự phát triển của xã hội trong một giai đoạn nhất định. Tinh thần luật pháp của nhân loại, dù thuộc bất kỳ thể chế nào, từ bấy đến nay cũng vậy. Ở nước ta, người ta ngại dùng chữ “thỏa hiệp” nhưng về bản chất nó là một thực trạng mang tính phổ quát, không thể nói khác. Không có điều luật nào, dù là ý chí của giới thống trị, lại nằm ngoài sự thỏa hiệp nhằm điều hòa quyền lợi của các nhóm xã hội khác nhau khi xây dựng và thực thi luật pháp.V.Lenin và những nhà Marx học đã nói đến “ba nguồn gốc”, ba bộ phận hợp thành chủ nghĩa Marx và K. Marx cũng từng thừa nhận điều này. Như vậy, tư tưởng cũng được hình thành từ nhiều nguồn mạch khác nhau. Và những giá trị văn hóa lại càng chứng minh tính chất tiếp biến, giao thoa, sàng lọc, vận động của nó trong dòng chảy lịch sử. Không ít những giá trị quan trọng của văn hóa ở thời kỳ này lại đánh mất giá trị ở thời kỳ khác. Nhưng, bên cạnh sự mất đi ấy lại có không ít những giá trị mang tính cơ bản, trường tồn với con người. Ở đây tồn tại vấn đề nhận thức được sự khác nhau của những giá trị nhất thời, cục bộ, khu vực và những giá trị mang ý nghĩa căn bản, phổ quát, lâu dài cũng là một thách thức.

5. Như đã nói ở trên, có nhiều con đường, nhiều mô hình của sự phát triển. Một giá trị có thể mang ý nghĩa tiến bộ với đất nước, dân tộc này nhưng lại không giữ được giá trị ấy ở một địa bàn khác, với dân tộc khác. Sự thích ứng và hiệu quả là thước đo để đánh giá vai trò của các mô hình-trong đó có các giá trị trong thực tiễn. Với văn nghệ cũng vậy. Suốt bao nhiêu năm ở nước ta giá trị của văn nghệ được gắn với vai trò thực hiện những sứ mệnh vì đất nước và con người ở một yêu cầu quan trọng nhất là nó làm được gì trong việc tập hợp con người để chiến đấu giành độc lập dân tộc? Tiêu chí chân, thiện, mỹ của văn nghệ được đề cao nhưng được khai thác và lý giải gắn với những nhiệm vụ này. Về bản chất, chân, thiện, mỹ là một khái niệm không nhất thành bất biến nhưng ba tiêu chí này mang ý nghĩa phổ quát nhất của văn nghệ. Sự thật (chân) ở mỗi thời kỳ phát triển của văn nghệmang những nội hàm có ý nghĩa khác nhau nhưng về cơ bản, nó luôn gắn với sự thực của đời sống, với cái thực, đời sống thực của con người, những vấn đề đang tồn tại của xã hội. Cái đẹp, cũng tương tự như vậy nhưng, theo F.Doxtoiepxki thì cái đẹp có khả năng cứu rỗi con người, cứu rỗi thế giới vì một khi con người tôn thờ cái đẹp, hướng tới cái đẹp, có thể con người sẽ hành động để vì những cái cao cả, đẹp đẽ, con người hơn, nâng cuộc sống lên và như vậy, cuộc đời đáng sống hơn. Cái đẹp theo nghĩa ấy mang tính nhân loại, con người nói chung. Cái cao cả, nhân văn, tự bản thân nó cũng mang vẻ đẹp, đem lại niềm tin cho con người hướng tới một xã hội công bằng và con người được hạnh phúc hơn. Bởi vậy, suy cho cùng, chân, thiện, mỹ vẫn là những tiêu chí mang ý nghĩa phổ quát nhất mà mọi nền văn nghệ cần hướng tới. Một thời ở ta, cũng vẫn là những nội dung gắn với con người, hiện thực, cái đẹp nhưng nó lại được đóng đinh vào những nhiệm vụ chính trị cả nước đang phải dồn toàn lực cho nó, không cho phép ai đứng ngoài cuộc. Đó là nhiệm vụ nặng nề nhưng cũng là sứ mệnh của văn nghệ trong hoàn cảnh chiến tranh. Còn những khía cạnh khác, dù không nằm ngoài chân, thiện, mỹ nhưng đi chệch ra ngoài mục tiêu nói trên, chưa có lợi cho sự nghiệp chung ấy đã bị gác lại, không được đề cao vì nó không phù hợp với bối cảnh một cuộc chiến tranh khốc liệt nhất trong lịch sử dân tộc. Điều kiện ngặt nghèo của lịch sử như vậy, dễ được đồng tình nhưng ở những hoàn cảnh khác, chúng ta vẫn bị quán tính của cách nhìn vốn là của một giai đoạn lịch sử đặc biệt này chi phối, dẫn đến những hệ lụy không đáng có. Cho đến nay, con người bản thể không được coi trọng, con người chính trị theo quan điểm Marx-Lenin được đề cao, kèm theo đó là một hệ thống những tiêu chí về hệ giá trị mà xét tới cùng là hệ giá trị lấy tiêu chí chính trị Marx-Lenin làm cơ sở nền tảng, là nguyên tắc vàng, không có nhân nhượng, khác góc nhìn ấy không được thừa nhận, trái với tiêu chí ấy bị phê phán, thậm chí bị xử lý ở các mức khác nhau. Tôi cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng của tình trạng xuống cấp về đạo đức trong xã hội hiện nay (có ở tất cả các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội, công an, bảo vệ luật pháp, hành chính, giáo dục, y tế, giới khoa học, trong hoạt động tôn giáo…)là do chúng ta đã xây dựng một hệ thống giá trị chưa chuẩn mực, thiếu toàn diện, không phù hợp với đời sống và điều hành hệ thống ấy theo những nguyên tắc quản trị đã lỗi thời, đề cao vận động, thuyết phục chứ không theo nguyên tắc pháp trị. Đó là chưa nói đến tính hoàn thiện của luật pháp cũng còn có những khiếm khuyết. Cốt lõi của vấn đề là chúng ta đề cao đến mức tuyệt đối hóa con người chính trị (chỉ bổ nhiệm người là Đảng viên vào bộ máy quản trị xã hội), đề cao bằng cấp nhưng cũng không đề cao thực học, chân tài mà đưa ra những tiêu chí chính trị không sát thực tế như bổ nhiệm cán bộ vào bộ máyquản trị nhất thiết phải có bằng Lý luận Chính trị cao cấp, trong khi bằng cấp này không có nhiều ý nghĩa để hoạt động nghề nghiệp, chuyên môn; hoặc người có bằng cấp ở lĩnh vực này nhưng lại làm việc ở lĩnh vực khác. Từ chỗ đề cao tiêu chuẩn chính trị nên Nhà nước đã bổ nhiệm nhiều cán bộ kém năng lực chuyên môn, thiếu phẩm chất, kém năng lực nhận thức và xử lý tình huống vào bộ máy quản lý từ cơ sở đến Trung ương nhưng có lý lịch gia đình tốt, có quan điểm chính trị phù hợp, trong khi tiêu chuẩn chính trị lại không phải là những tri thức và kinh nghiệm thuộc về khoa học quản lý (vốn là đòi hỏi cao của những nhà quản lý, những chính khách… vốn là một khoa học mang tính tổng hợp, vượt lên trên những chuyên môn hẹp), không đủ bản lĩnh, năng lực hoạt động chính trị, quản trị xã hội, xây dựng luật pháp mà là lý lịch chính trị, nguồn gốc chính trị, bằng cấp chính trị. Rõ ràng nội dung giá trị ở đây đã không đúng với tiêu chí giá trị thực của bản thân nó, không phù hợp với yêu cầu của công việc nên không thể là cơ sở đảm bảo cho người được giao trọng trách có thể hoàn thành chức trách của mình. Đó là nguyên nhân của tình trạng bổ nhiệm sai, ngồi không đúng chỗ, buộc bộ máy phải sửa sai vừa tốn kém, vừa làm giảm uy tín của tổ chức chính trị, gây mất lòng tin vào đội ngũ cán bộ quản lý, làm rạn nứt các quan hệ xã hội giữa tổ chức chính trị, xã hội với cá nhân, gây ra những bất ổn của tình hình hiện nay.

Chúng ta xây dựng thể chế xã hội theo quan điểm Marx-Lenin nên không chấp nhận đa nguyên về mặt chính trị. Đó là sự lựa chọn thể chế. Nhưng chúng ta lại thừa nhận sự đa nguyên về kinh tế và nhà nước đang vận hành xã hội theo phương thức nhất nguyên về tư tưởng, nhất nguyên về thể chế và đa nguyên về kinh tế. Đó là điều đã tồn tại trong thực tế từ mấy thập niên qua. Sự “kết hợp”, “hỗn dung” ấy được coi như bình thường.Nó vẫn tồn tại và lại còn có những mặt tích cực để phát triển xã hội nhưng về tổng thể và lâu dài không thể tạo ra những bước đột phá bởi sự không đồng bộ của những hệ thống đó. Điều này lại là một bằng chứng cho thấy tiêu chí nhất nguyên về con người, văn hóa mà chúng ta xây dựng vẫn có những bất cập, chưa khoa học, chưa toàn diện. Từ chỗ xây dựng mô hình con người mới xã hội chủ nghĩa từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước đến con người trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, phát triển hiện nay, từ mô hình văn hóa xã hội chủ nghĩa đến nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc…đang là mục tiêu, động lực của sự phát triểnvề nhận thức bản chất vấn đề chúng ta vẫn chưa vượt ra khỏi vòng luận giải luẩn quẩn về con người xã hội theo tư tưởng Marx-Lenin, tư tưởng về một nền văn hóa theo mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa. Cả về con người lẫn văn hóa đều “lấy chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” tuy nhất quán về đường hướng tư tưởng nhưng trong thực tiễn vấn đề phức tạp hơn nhiều và những lý thuyết về điều đó chưa làm sáng rõ. Bởi, cũng theo nguyên lý của chủ nghĩa Marx, nền tảng tư tưởng được hình thành và phát triển trên cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội nhưng chúng ta đã thừa nhận kinh tế thị trường (định hướng xã hội chủ nghĩa), nghĩa là nền kinh tế nhiều thành phần, tồn tại cả kinh tế cá nhân, kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế nước ngoài, thừa nhận trong quan hệ giữa người với người có cả bóc lột, làm thuê, có sự tha hóa của những người bị bóc lột và người bóc lột, có quan hệ chủ-tớ và những điều này được pháp luật bảo hộ. Trên nền tảng xã hội này hiển nhiên sẽ có những con người tương ứng với các thành phần kinh tế ấy, sẽ có những tư tưởng nảy sinh trên nền tảng kinh tế -xã hội ấy. Như vậy sự nhất nguyên về văn hóa, con người đã không tương thích với nền tảng xã hội và xã hội luôn phải xử lý sự bất tương thích ấy. Trên thực tế, hoàn toàn có thể lựa chọn mô hình xã hội (thể chế) nhất nguyên hay đa nguyên nhưng về văn hóa và con người phải để cho nó vận hành theo những quy luật nội tại và mối quan hệ hữu cơ, tương ứng với cơ sở kinh tế-xã hội của nó. Luật pháp sẽ điều chỉnh các quan hệ con người và xã hội. Đấy là biện chứng, là thực tiễn đang vận động. Nước Mỹ chọn thể chế tư bản, tổ chức xã hội theo mô hình lưỡng viện, xã hội dân sự và tam quyền phân lập nên lựa chọn sự đa nguyên về tư tưởng, chính trị, văn hóa, con người và luật pháp được xây dựng trên nền tảng đó. Nhiều nước vẫn tồn tại chế độ quân chủ nhưng điều hành xã hội theo mô hình dân chủ tư sản và trong thực tế, ở các mô hình ấy hoạt động bình thường với những điều luật riêng biệt đảm bảo cho nó hoạt động và đất nước vẫn phát triển, người dân vẫn đồng tình lựa chọn mô hình này như Hà Lan, Bỉ, Tây ban Nha, Anh, Nhật Bản, Thái Lan... Chúng ta chấp nhận sự đa dạng, phong phú về văn hóa (thực chất là đa nguyên), trong chừng mực nào đó là sự đa nguyên về con người nhưng lại lựa chọn tiêu chí tư tưởng chính trị là tiêu chuẩn cao nhất, nghĩa là nói cách khác, về mặt chính thống, chỉ thừa nhận và đề cao nhất nguyên như giá trị cao nhất, duy nhất nhưng trong thực tiễn, để cho đa nguyên phát triển, chế tài kiểm soát lại được xây dựng và vận hành bảo vệ quan điểm nhất nguyên. Sự pha trộn này rất khó cho công tác quản lý, hạn chế con người phát triển toàn diện nhưng lại tạo cơ hội cho yếu tố dối trá, đạo đức giả nảy nở. Tính nhân văn cao nhất của chủ nghĩa Marx-Lenin về con người là xóa bỏ áp bức, bóc lột, làm cho con người phát triển tự do, để cho con người có hạnh phúc là điều nhân loại luôn đề cao và hướng tới. Điều này cũng giống với các quan niệm tiến bộ khác ngoài macxit về con người, nhưng trong thực tế chúng ta coi trọng việc quản lý con người, cả tư tưởng lẫn hành vi hơn là tạo ra những tiền đề để cho con người tự do phát triển, nhà nước chỉ quản lý và xử lý quan hệ con người trong khuôn khổ pháp luật. Đây không phải là điều không thể nhận thức được mà chính là do chúng ta muốn lựa chọn một cách ứng xử khác với con người, chọn một kiểu quản lý, điều hành con người trong những nguyên tắc làm hạn chế năng lực tư duy và khát vọng sáng tạo ở họ, làm mất đi sự hấp dẫn vốn có của sự đa dạng ở mỗi cá nhân, trong khi mỗi cá nhân là một thế giới. Bất kỳ xã hội nào muốn phát triển hài hòa, bền vững thì phải chọn những điều kiện tốt nhất, cả vật chất và tinh thần, nhưng tinh thần quan trọng hơn, để con người được sống trong môi trường dân chủ, tôn trọng quyền con người và tự do cá nhân ở họ. Vì chỉ có như vậy mới kích thích được sự cạnh tranh trong sáng tạo ở mọi lĩnh vực. Đây là điểm nghẽn của các điểm nghẽn khi xây dựng các tiêu chí giá trị vì ở quan hệ nào cũng đụng tới vấn đề con người, trong khi điểm mấu chốt nhất của con người chưa được giải quyết. Tôi cho rằng, về nguyên tắc khi xây dựng các tiêu chí, không thể bỏ qua cái đặc thù nhưng lại cũng phải tôn trọng những yếu tố mang ý nghĩa nền tảng, phổ quát thuộc về nhân loại mà thế giới đang thừa nhận. Bởi vậy ta hoàn toàn có thể chọn mô hình thể chế nhà nước theo hình thức nhất nguyên (nhiều nước đã chọn thế, cả phương Tây và phương Đông) nhưng cần chấp nhận cho phát triển văn hóa, xây dựng con người theo hướng đa nguyên bởi chỉ có như thế mới làm cho con người được sống trong môi trường dân chủ, được tự do, có hạnh phúc (quan trọng nhất là tinh thần dân chủ, tự do hành xử trong khuôn khổ luật pháp) và điều đó phải trở thành nguyên lý gốc, là nền tảng của các tiêu chí giá trị thì hệ giá trị ấy mới có ý nghĩakhai phóng, động viên con người phát huy hết năng lực sáng tạo của bản thân mà vẫn giữ mỗi cá nhân trong những quan hệ tình cảm và nghĩa vụ với đất nước, dân tộc, vẫn hành xử trong giới hạn pháp luật. Một khi quan điểm về văn hóa và con người đạt tới tầmkhoa học và khai phóng sẽ là tiền đề cho những bước phát triển mạnh mẽ của xã hội. Đây là vấn đề của nhận thức ở tầm vĩ mô nhưng nó giữ vai trò quyết định cho sự phát triển cho một đất nước, trong đó có mỗi cá nhân, nghĩa là nó sẽ tạo ra sự thay đổi căn bản ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu, tác động tới từng tế bào xã hội tạo ra những thay đổi. Và kết quả của quá trình ấy hướng đến sự chấn hưng của xã hội trên mọi phương diện.

Tháng 11 năm 2020