Thế là thầy Nguyễn Đăng Mạnh đã ra đi. Đi mãi mà không trở lại. Không hiểu như thế có đúng ý thầy không, bởi mấy năm gần đây, lần nào gặp tôi, thầy cũng nói: “mình sống lâu quá”. Nhất là sau khi mấy người bạn cùng tuổi thân nhất lần lượt ra đi, thầy ít nói hơn, lúc nào trông cũng buồn buồn và lặng lẽ. Thi thoảng tôi đến thăm, lần nào cũng thế, suốt buổi hầu như chẳng thấy thầy nói câu gì. Cứ ngồi im, lặng lẽ như một ngôi sao cuối trời.
Cũng như một số GS cao tuổi, GS thật, tôi cứ nghĩ họ là những ngôi sao. Mỗi ngôi tỏa sáng một vùng, theo nhiều cách, nhiều kiểu sắc màu. Rồi đều giống nhau: cứ dần lặn vào bóng đêm của thế giới bên kia. Nhưng sau khi lặn vẫn hắt lại những ánh hồi quang rực rỡ, không bị mất hút,“vô tăm tích” trong thăm thẳm cõi trời.
Trong bầu trời văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Đăng Mạnh là một ngôi sao. Ngôi sao ấy vừa lặn, vừa khuất lấp sang thế giới bên kia lúc 17g10 phút ngày 9-02-2018. Một cánh hạc lớn vừa tiễn ông về nơi cuối trời. Ngôi sao ấy lặn rồi nhưng ánh hồi quang rất MẠNH, dường như nó còn rực rỡ hơn những ngày ông còn rong chơi ở chốn nhân gian. Ánh hồi quang ấy trước hết hắt lên từ những bài viết tuyệt hay, những ý tưởng độc đáo, những nhận xét, bình luận tinh tế, sắc sảo. Hậu thế còn tiếp tục đọc, tiếp tục nghĩ về Nguyễn Tuân, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Xuân Diệu, Nguyên Hồng… thì người ta sẽ còn nhắc đến Nguyễn Đăng Mạnh. Không những thế, hồi quang ấy còn được tỏa ra từ con người, bản lĩnh và lối sống của ông, một trí thức Bắc Hà.
Trưa hôm qua còn tôi còn tới thăm ông, vẫn còn nắm bàn tay ấm nóng. Thế mà vài tiếng sau ông đã ra đi. Tiễn thầy về miền cực lạc, trong lòng tự nhiên trống rỗng; bạn giục viết bài về thầy mà ngòi bút cứ ngẩn ngơ không chịu chạy trên trang giấy. Đành chép lại một đôi điều đã từng nghĩ về ông.
Sinh năm 1930, tuổi ngọ; như thế chỉ ít ngày nữa thôi, ông bước vào tuổi 89. Gần 90 năm với bao cay đắng, ngọt bùi; vinh quang có, nhục nhằn cũng có. Sau những ngày “sóng gió” bởi cuốn Hồi ký… trên mạng; thầy trở nên trầm lắng hơn. Cuốn Hồi ký đã mang lại cho thầy những người bạn mới, nhưng cũng làm rơi rụng khá nhiều người quen cũ. Có người bảo ông buồn vì chuyện này. Nhưng theo tôi thì không phải thế. Trong tâm lý Á Đông, khinh trọng đối với mỗi con người là cả một vấn đề. Rất ít người vượt qua được mặc cảm khinh trọng. Có ông thầy từng mất ngủ cả đêm, trằn trọc, băn khoăn chỉ vì lúc chiều cậu học trò không chào. Có người rất uất vì gọi điện cho một ai đó ít tuổi hơn nhưng không được trả lời, cũng không nhắn nhe gì lại cả. Bạn tôi nổi sung lên với một đồng nghiệp chỉ vì anh gửi tài liệu qua email, người kia nhận được nhưng không hề hồi âm cho người đã gửi… Tuổi già, về hưu lại càng dễ có cái mặc cảm bị bỏ quên, bỏ rơi, không còn tác dụng gì, vô tích sự,… rất dễ tủi thân, dễ nổi cáu và dễ quy kết hành vi người khác là thiếu lễ độ, thiếu tôn trọng mình,…
Với thầy Mạnh, tôi thấy hình như ông vượt qua được cái mặc cảm khinh trọng ấy. Ông và Hoàng Ngọc Hiến là hai người trong số ít bậc thầy không có mặc cảm này. Ðây không phải là thái độ của AQ “nó khinh mình như khinh bố nó” mà là xuất phát từ một bản lĩnh tự tin; tự tín với chính gía trị vốn có của mình. Phải là người hiểu mình, hiểu chân giá trị của chính mình và thấm thía, trải nghiệm nhiều vinh nhục ở đời… thì mới có thái độ sống vượt mặc cảm khinh trọng; mới luôn bình thản, coi như không có chuyện gì xảy ra, kể cả khi đã xảy ra những chuyện tày trời….
Khi đã về già, người ta rất dễ buồn vì chuyện sự nghiệp, nhất là những người đã có chút tiếng tăm. Nhìn quanh quẩn chẳng có gì để lại; viết ra rất nhiều nhưng chẳng ai nhớ, chẳng ai đọc những gì mình viết. Nguyễn Đăng Mạnh không có nỗi buồn này. Với phê bình văn học Việt Nam hiện đại, ông sẽ là một trong số ít cây bút được bạn đọc nhớ và họ còn đọc lại ông nhiều lần nữa. Rất ít ngòi bút phê bình vừa có chất văn, vừa có ý tưởng mới; dù ngắn hay dài đều có nghĩa lý, đều là “văn sư tử”; đều tạo được ấn tượng sâu đậm, sáng sủa và thật giàu màu sắc biểu cảm… như văn phê bình của Nguyễn Đăng Mạnh. Tôi thỉnh thoảng vẫn dạy học sinh làm văn, vẫn thường chấm luận văn, luận án…mới thấy ảnh hưởng của văn Nguyễn Đăng Mạnh lớn thế nào. Không chỉ số lượng trích dẫn mà còn rất nhiều ý tưởng, chữ nghĩa của ông được các em học sinh cứ thản nhiên dùng như là văn của mình. Mà chẳng cứ gì học sinh Trung học, nhiều luận văn Thạc sĩ, Tiến sĩ, nhiều bài phê bình về Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng… đã và đang xuất hiện trong nhà trường, trên báo chí… vẫn phảng phất ý tứ và văn phong ông Mạnh đấy thôi. Có người viết cả cuốn sách về Nam Cao, nhưng không để lại được một mẩu ấn tượng gì trong lòng bạn đọc, ngoài cái cảm giác hình như những ý này thầy Mạnh đã nói rồi. Thế thì làm gì ông phải buồn?
Khi về già, người ta thường hay buồn về chuyện con cái, cháu chắt. Tôi thường vẫn nghĩ, hạnh phúc gia đình trước hết được đo ở sự trưởng thành của thế hệ con cháu. Ối ông làm to mà con cái hư hỏng; rất nhiều bà mẹ lắm tiền mà con vô học, cháu hỗn láo, thậm chí vào tù… Ðó là nỗi buồn về nhân tính. Một phương diện khác, lại là nỗi đau nhân hình. Chẳng may trời bắt tội, bố mẹ phải mang nỗi đau buồn vì những đứa con tật nguyền, không lành lặn về thể xác…Mà cả hai trường hợp đều không bỏ được; con có thể bỏ cha mẹ, nhưng mẹ cha nào lại bỏ được con. Có con lớn trong nhà chưa dựng vợ, gả chồng đã là một nỗi lo; con có vợ chồng rồi, chưa có cháu cũng tiếp tục phải nghĩ… Cháu có rồi nhưng nó có hay đau ốm; đi học có thuận lợi, có giỏi giang.. lại cũng là nỗi lo không kém. Thầy Mạnh cũng không có nỗi buồn này. Ông bà có hai người con: nếp có, tẻ có. Cả hai đều đã trưởng thành, có gia đình con cái bình thường. Con cháu đều ngoan hiền, hiếu thảo; thương yêu và kính trọng bố mẹ, ông bà hết mực. Có nhà riêng, nhưng gần đây ông bà ăn ở cứ Nam Bắc chia đôi: khi vào Nam với con trai, khi ra Bắc với con gái… tình nghĩa vẹn toàn. Thế thì có gì mà phải buồn!
Những tưởng thầy Mạnh chẳng có gì phải buồn, nhưng nghĩ ra thấy ông vẫn có nỗi buồn, thậm chí nỗi buồn không nhỏ. Cũng như Xuân Diệu, ông vốn là người thích “giao cảm”, khát khao được giao cảm, thích giao du, xê dịch sông nước; thích tiếp xúc, trò chuyện “nhậu nhẹt, tán phét” như ông thường nói. Và vì thế ông ham thưởng thức, nhấm nháp cái đẹp, cái hay bằng tất cả sự tinh nhậy của các giác quan… Thế nhưng mấy năm gần đây, tai ông nặng dần, chân bước chậm hơn, răng bắt đầu rụng… Thành thử các cuộc chuyện trò, nhất là ở chốn đông người, ông nghe không được bao nhiêu. Mà phải chỗ đông mới vui; mới lắm thông tin, mới nhiều chuyện lạ; nhưng khốn nỗi càng đông, càng nhiều chuyện, càng vui nhộn, ông càng ít nghe được bấy nhiêu. Ông rất thích thưởng thức ẩm thực, những món ngon, của lạ… thế nhưng bây giờ răng đã thế, làm sao ngon cho được ? Say mê những danh lam thắng cảnh, thích trèo lên tận Cột cờ Lũng Cú; sục chân vào bãi bùn tận đất mũi Cà Mau, sờ tận tay viên gạch rêu phong của những tháp Chàm cổ kính…nhưng bây giờ chân đã yếu rồi, lại mấy cái đinh chưa rút sau lần trượt ngã phải bó bột đóng đinh khi du giảng ở vùng đất phương Nam…thế nên đi xa, đi và đến những nơi đúng nghĩa ông thích, giờ hầu như chỉ còn là mơ ước.
“Khi tuổi tác càng cao thì sức khỏe càng thấp”, cũng là lẽ thường tình. Nhưng đầu óc ông vẫn tỉnh táo, suy nghĩ vẫn mạch lạc rõ ràng, vẫn còn trẻ trung, mạnh bạo trong cách nghĩ, cách nói… chính thế mới làm ông buồn. Nỗi buồn tựa hồ như “ lực bất tòng tâm”… Có điều, ở đời thường vẫn có sự bù trừ giữa các giác quan; cái này yếu thì cái khác mạnh dần lên. Cái đang mạnh lên ở thầy Mạnh phải chăng là cuộc sống nội tâm, những suy tư, chiêm nghiệm hay dở của cả đời người đang dồn tụ thành biển cả trong ông. Càng tách bạch với ngoại giới, cái biển cả tâm hồn trong ông lại càng nhiều dịp nổi sóng tung bờ…những lớp sóng buồn trước sự nhố nhăng, đen bạc của cuộc đời.
Hai năm gần đây, tai ông nặng hẳn, chân bước chậm chạp, răng rụng gần hết, hầu như không nghe được, ăn ít biết ngon…Chắc thầy đã nghĩ, sống thế thì sống lâu làm gì? Thầy chán đời, chán mình; nhất là khi ốm đau phải cậy nhờ người khác, kể cả con cái, người thân. Những khi ấy ông càng bứt rứt, chán chường.
Trong vòng hơn nửa năm qua, ông nhập viện ba lần. Lần đầu xuất huyết dạ dày nằm tại bệnh viện Chợ Rẫy (Sài Gòn). Thoát được cửa tử thần lần ấy, ông ra lại Hà Nội. Gặp tôi và anh La Khắc Hòa đến thăm, câu đầu tiên ông nói “mình vừa mới từ cõi chết trở về”. Được ba bốn tháng yên lành, bỗng nhiên ông bị tai biến, phải vào bệnh viện Hữu Nghị (Hà Nội). Kết quả chân không đi đứng được, phải nằm một chỗ. Rồi ông cũng được ra viện, về nhà tập đứng lên, ngồi xuống. Tôi đến thăm, ông trầm ngâm nói: “tính mình thích lang thang, nay bị thế này như đeo cùm”. Rồi chân dần vững lên, tôi mừng và thấy đầy hy vọng. Hy vọng ông đi lại được… Thế rồi, đùng một cái ông lại được đưa vào viện. Lần này ông bị viêm phổi nặng cộng với bệnh tim (hẹp động mạch vành). Bệnh viện định nong tim đặt stent, nhưng tuổi cao, sức yếu sợ ông không chịu được, nên đành chữa theo hướng khác.
Những ngày này, Hà Nội lạnh tái tê, thầy Mạnh nằm viện với bệnh tình quá xấu. Xấu hơn cả tiết trời Hà Nội. Nằm viện với tình trạng mà khi tỉnh táo ông rất ghét. Không chỉ là chuyện phải nằm một chỗ. Đã hơn 1 tuần rồi, tôi vào và đau đớn thấy một cái ống nhựa chọc qua miệng thầy, họ nói là để thở bằng máy; ăn phải qua ống xông đằng mũi, dây nhợ ngủng ngoẳng cắm khắp nơi để đo các chỉ số huyết áp, nhịp tim, hơi thở… Người ta phải gây mê để đặt các ống này. Khi tỉnh dậy ông đau cổ đã đành, nhưng cái mà ông ghét nhất là lằng nhằng vướng víu… Tôi nhớ cách đây khoảng 6-7 năm, khi tai ông bắt đầu khó nghe, tôi đưa thầy đến Trung tâm trợ thính, 2 lần ông mua máy nghe chống điếc. Cái máy ấy chỉ cần gắn hoặc quắc vào tai rất gọn… thế nhưng ông đeo được vài hôm rồi quẳng đi luôn. Tôi hỏi, ông bảo đeo cái ấy lằng nhằng, phức tạp lắm…Ông thích đơn giản, gọn nhẹ, mộc mạc; ghét sự diêm dúa, cầu kỳ trong sinh hoạt và trang phục, giống hệt như những trang văn ông viết, giản dị, chân tình mà sâu thẳm trí tuệ và cảm xúc, mà lay thức lòng người…
Giờ thì thầy muốn nói, nhưng miệng vướng ống thở, vướng dây nhợ thế, nói sao được. Cái máy trợ thính nhỏ xinh thế mà ông đã thấy khó chịu, huống chi bây giờ, hàng lô ống và dây. Bình thường ông thích có người đến tán chuyện cho vui, nhưng đó là lúc bình thường. Là người theo chủ nghiã duy mỹ, ông vốn khinh bỉ sâu sắc sự nhếch nhác, cả trong đời thực lẫn văn chương; lại luôn rất tỉnh và tinh trong việc nhận ra sự nhếch nhác ấy. Vì thế tôi nghĩ và chắc một điều: ông không muốn gặp nhiều người trong tình cảnh này. Tôi đã nghe nhiều lần ông đọc câu “Mỹ nhân tự cổ như danh tướng/ Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu”.
Tôi đến thăm thầy. Thầy nằm im, bất động, mắt nhắm nghiền. Nắm bàn tay và lay gọi vài lần, thầy vẫn không tỉnh được. Có phải thầy đang mơ về một xứ xa xôi. Nơi ấy chỉ giản đơn là không còn phải đeo mấy cái thứ ống và dây ấy nữa; sao lằng nhằng quá thế này...Tôi biết thầy sẽ rất vui khi gặp lại những tri kỷ, tri âm; những người lúc còn sống đã gắn bó, thân thiết với thầy, những Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Khải, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu và bao văn nhân khác nữa…
Ra đi sớm, thầy thì vui nhưng thầy có biết không, thầy đã để lại cho biết bao người một nỗi đau buồn khôn tả, một khoảng trống khó có thể lấp đầy. Thầy như một bức tranh trong căn phòng triển lãm mà nếu lấy đi vĩnh viễn để lại một khoảng trống trên tường như thầy từng viết.
Ngôi sao ấy vừa lặn rồi. Ánh hồi quang vẫn còn đó… nhưng lòng sao vẫn thấy lạnh lẽo vô cùng, lạnh hơn nhiều cái tái tê của đất trời Hà Nội. Vĩnh biệt người thầy cao quý của biết bao thế hệ học trò. Vĩnh biệt tác giả của nhiều bài phê bình còn in đậm mãi trong tâm khảm bạn đọc. Vĩnh biệt một con người chỉ biết cúi đầu trước hoa mai.
10-02-2018.
ĐNT