LTS: Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết mới.
Đây là nội dung bài phát biểu của tác giả tại Đại học Fulbright Việt Nam ngày 30/9/2017, thể hiện tâm tư và trăn trở của Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng đối với việc xây dựng nền văn hóa phát triển và vai trò của giáo dục đại học.
Tòa soạn xin trân trọng giới thiệu bài viết này đến quý bạn đọc và cảm ơn Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng!
Nội dung, văn phong bài viết thể hiện quan điểm của tác giả. Tiêu đề bài viết và các đề mục phụ do Tòa soạn đặt.
Thưa các bạn!
Tôi rất hân hạnh được có mặt tại đây hôm nay để được chúc mừng các thầy cô giáo, các bạn sinh viên về những gì các anh chị đã đạt được trong năm học vừa qua.
Và nhân đây, tôi xin phép được trao đổi vài ý kiến xung quanh câu hỏi: “Hiện nay việc gì là quan trọng nhất đối với Việt Nam ta, và nên tiếp cận vấn đề đó như thế nào?”
|
Tiến sĩ Vũ Ngọc Hoàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương. Ảnh do tác giả cung cấp. |
Nền văn hóa Việt Nam trường tồn qua mấy ngàn năm đã thể hiện rõ mặt mạnh nổi trội là văn hóa giữ nước và mặt yếu lớn nhất thuộc về văn hóa phát triển.
Nói văn hóa giữ nước hay văn hóa phát triển là nói rút gọn, nói tắt, chứ đúng ra nói đầy đủ phải là văn hóa trong giữ nước và trong xây dựng-phát triển đất nước.
Không chăm lo xây dựng văn hóa phát triển, dễ đánh mất độc lập
Từ thời hai bà Trưng đến nay đã có hàng chục cuộc chiến tranh lớn để bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, chiến tranh với phương Tây cũng có, nhưng ít, còn hầu hết là với các thế lực xâm lăng từ phương Bắc, nhất là với phương Bắc phong kiến trước kia.
Đối thủ thường mạnh hơn ta gấp nhiều chục lần, xét về tương quan lực lượng vật chất.
Một dân tộc tha thiết yêu hòa bình, nhưng sự lâm nguy của Tổ quốc buộc cha ông ta phải cầm súng. Và họ đã chiến đấu với tinh thần thượng võ.
Dân tộc Việt Nam đã chiến thắng trong hầu hết các lần chiến tranh ấy, giữ vững độc lập dân tộc và bảo vệ được Tổ quốc.
Có thời kỳ dân tộc ta đã bị phương Bắc đô hộ trực tiếp gần một ngàn năm, họ đã dùng mọi thủ đoạn để đồng hóa dân tộc Việt.
Nhưng cuối cùng, Việt Nam đã giành lại độc lập và trường tồn với tư cách là một dân tộc văn hiến.
Xét tới cùng, nguyên nhân sâu xa của các cuộc bị xâm lăng và mất nước ấy không phải do ta thiếu anh hùng, cũng không phải do ta nhỏ, mà là do nước ta lạc hậu.
Tất nhiên cũng còn có những nguyên nhân khác nữa, nhưng nguyên nhân chính yếu – vừa sâu xa vừa trực tiếp - là do nước ta lạc hậu.
Ta lạc hậu nên bị mất nước, bằng anh hùng ta lấy lại đất nước, nhưng sau đó vẫn lạc hậu, không phát triển được, và lại mất nước.
Lịch sử đã từng lặp lại không ít lần như vậy.
Thời gian xây dựng trong hòa bình vẫn chiếm tỷ lệ phần lớn, có thể nói là đại bộ phận, nhiều hơn gấp bội so với thời gian có chiến tranh.
Nhưng cho đến nay nước ta vẫn là quốc gia chưa phát triển, có nhiều mặt còn tụt hậu và lạc hậu đến mức đáng phải lưu ý.
Nếu không phát triển được thì không khéo sẽ lại mất độc lập dân tộc.
Ngày nay, trong thời hội nhập, cơ hội và thách thức đều lớn ngang nhau, nếu yếu kém kéo dài, thì việc mất độc lập có thể bằng cách khác.
Không có chiến tranh, không phải bằng sự thua trận trong chiến đấu chống xâm lược như ngày xưa, nhưng chúng ta vẫn có thể đánh mất độc lập ngay trong hòa bình.
Độc lập có thể bị đánh mất ngay trong chính sự cạnh tranh phát triển kinh tế, trong quan hệ làm ăn, buôn bán và dần dần lệ thuộc.
Trước tiên là lệ thuộc về kinh tế rồi sau đó dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Việc mất độc lập trong trường hợp như vậy thì không thể lấy lại bằng sự chiến đấu anh hùng theo cách truyền thống trước đây.
Đối với truyền thống văn hóa giữ nước, thì hôm nay và mai sau vẫn mãi mãi cần học tập cha ông đến cùng.
Học để biết, để tự hào về những giá trị lớn lao của nền văn hóa dân tộc;
Học để có kinh nghiệm, để khôn lớn và trưởng thành, để noi theo và xứng đáng, để tiếp tục giữ nước bền lâu cho muôn đời mai sau.
Nhưng điều đó là chưa đủ, hoàn toàn chưa đủ.
Thời kỳ này, hơn bao giờ hết, chúng ta cần phải học tập một cách nghiêm túc, thật sự cầu thị, tinh hoa của văn hóa nhân loại;
Nhất là phải học tập kinh nghiệm của các quốc gia phát triển, tức là không ngừng bổ sung vào văn hóa dân tộc những giá trị về văn hóa phát triển.
Chính điều này sẽ bổ khuyết cho phần yếu kém của văn hóa Việt Nam, để trên cơ sở đó mà thực hiện một cuộc cải cách căn bản và toàn diện nhằm phát triển đất nước và dân tộc.
Biết khiêm tốn học tập người khác là con đường để trưởng thành, và cũng là biểu hiện bắt đầu của một sự trưởng thành.
Phải phát triển! Đó là yêu cầu lớn nhất, quan trọng nhất, là mệnh lệnh của cuộc sống.
Muốn tránh nguy cơ mất nước, muốn giữ vững lâu dài nền độc lập dân tộc, muốn xứng đáng với truyền thống giữ nước vẻ vang của cha ông;
Muốn cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng một xã hội tốt đẹp…thì đất nước và dân tộc này phải phát triển.
Nếu không phát triển được thì mọi lý tưởng dù đẹp đẻ bao nhiêu cũng sẽ chỉ là những mơ ước xa xôi và không bao giờ thành hiện thực.
Trong công cuộc phát triển quốc gia thì sự phát triển của con người, từng con người, những con người, cả một cộng đồng dân tộc, là quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định.
Khi có sự phát triển của con người thì đất nước nhất định sẽ phát triển, vì đất nước như thế này hay thế kia đều là sản phẩm của con người.
Kinh tế hay chính trị đều do con người làm nên, do con người thực hiện.
Và văn hóa là con người, với chữ Người viết hoa. Vậy nên, văn hóa là nền tảng quan trọng nhất của sự phát triển một quốc gia.
Mặt khác, mọi sự phát triển của một quốc gia cuối cùng cũng là để phát triển con người với nhân cách văn hóa.
Cho nên, văn hóa – con người không chỉ là nền tảng, mà còn là mục tiêu chiến lược lớn nhất. Để có một cộng đồng phát triển thì trước nhất cần có một tầng lớp trí thức thật sự trưởng thành, để từ đó lan tỏa ra.
Giáo dục đại học và trách nhiệm đào tạo ra đội ngũ trí thức tự do và trách nhiệm
Giáo dục đại học có nhiệm vụ quan trọng nhất là góp phần trực tiếp tạo ra tầng lớp trí thức ấy.
Họ là những con người có trách nhiệm cao với đất nước và cộng đồng dân tộc, có tầm rộng và chiều sâu về văn hóa;
Họ là những con người thật sự tự do, trong xã hội và với chính mình, có tự do tư tưởng và tư duy độc lập, có bản lĩnh để bảo vệ các chân lý khoa học.
Đất nước thật sự cần những con người như vậy, chứ không phải những con người chỉ biết nói theo, dựa dẫm, không có chính kiến, luôn thực dụng, đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của cộng đồng quốc gia.
Để có thể tạo ra những người trí thức chân chính và đẳng cấp ấy, nhất thiết cần có một nền đại học có tính tự chủ cao.
Quan trọng nhất là tự chủ về chương trình, và thực hiện tự do học thuật, với một đội ngũ giảng viên giỏi.
Tự chủ đại học, tự do học thuật, tự do tư tưởng và tự do ngôn luận là bộ phận hợp thành quan trọng bậc nhất của công cuộc đổi mới căn bản, không chỉ riêng đối với nền giáo dục quốc gia, mà còn đối với tất cả các lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói chung.
Đất nước ta rất cần phải đổi mới đồng bộ và căn bản như vậy.
Tất nhiên chúng ta hiểu đó là sự tự do trong tất yếu, tự do gắn với trách nhiệm xã hội, trách nhiệm đối với cộng đồng.
Đồng thời cần có một phương pháp đào tạo đúng, giúp cho người học phát triển được tối đa năng lực của chính mình.
Trong nền đại học ấy, sinh viên là những con người có tinh thần tự học rất cao, biết tư duy độc lập và tự đào tạo mình trong môi trường học tập hiện có.
Lâu nay, tại Việt Nam, và trên thế giới cũng vậy, các trí thức lớn chủ yếu nhờ tự học mà thành, họ chủ động tự tạo ra mình, chứ không phải nhà trường nặn ra được họ.
Còn nhà trường là môi trường hết sức quan trọng, nơi tạo mọi điều kiện cần thiết và các thầy cô giáo là những người hướng dẫn phương pháp tự học.
Chứ thày cô không phải là những người cung cấp đầy đủ tất cả kiến thức có sẵn theo cách áp đặt một chiều.
Thầy cô giáo là người bạn lớn, đồng hành cùng học sinh trong quá trình đi tìm chân lý;
Thầy cô là người giúp đỡ về phương pháp tiếp cận để học sinh có thể vượt thầy, vượt sách, chứ không phải là những người nắm giữ độc quyền các chân lý để cấp phát cho học trò.
Trường Fulbright là cơ sở đào tạo có điều kiện rất thuận lợi trong quan hệ với các trường đại học lớn của Hoa Kỳ, để có thể thường xuyên trao đổi kinh nghiệm trong công tác đào tạo.
Hoa Kỳ có một nền giáo dục đại học, nhất là sau đại học, có nhiều ưu điểm.
Chúng ta cần hết sức cầu thị để học hỏi và chủ động tiếp thu có chọn lọc được nhiều nhất những kinh nghiệm tốt và phù hợp cho giáo dục của Việt Nam.
Trong chương trình Fulbright trước đây cũng như trong quá trình chuẩn bị và triển khai dự án đại học Fulbright hiện nay, có nhiều nhà khoa học-giáo dục và hoạt động xã hội ở Mỹ đã rất tận tâm, hết lòng góp công sức và trí tuệ cho công việc phát triển giáo dục ở Việt Nam.
Đó là những người bạn lớn, những người bạn tốt. Chúng ta thật sự cảm kích và rất cảm ơn những người bạn chân tình ấy.
Trong quá khứ giữa hai nước Việt Nam và Hoa Kỳ rất đáng tiếc đã xảy ra một cuộc chiến tranh như mọi người đã biết.
Những năm qua cả hai nước đã cùng nhau xây dựng mối quan hệ hữu nghị, hợp tác ngày càng phát triển với nhiều ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Hai dân tộc Việt Nam và Hoa Kỳ đều yêu chuộng độc lập và tự do, đều có tinh thần thượng võ.
Trong lịch sử của mỗi bên đã từng có những trường hợp từ cựu thù trong chiến tranh trước đó đã trở thành bạn lớn, thành đối tác tốt đáng tin cậy của nhau sau chiến tranh.
Tôi nghĩ và tin rằng, mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ sẽ ngày càng tốt đẹp và bền chặt hơn.
Trường Đại học Fulbright ngoài công việc đào tạo, nghiên cứu khoa học sẽ còn có vai trò quan trọng, góp phần đáng kể tham gia tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp ấy.
Xin chúc các bạn thành công ./.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 30.9.2017.